Gia đình là tế bào của xã hội, và hôn nhân là cơ sở của gia đình. Một xã hội muốn tồn tại và phát triển một cách bền vững thì chế độ hôn nhân phải được xây dựng một cách vững chắc. Từ khi trong xã hội có nhà nước, quan hệ hôn nhân không chỉ phản ánh ý chí của các cá nhân tham gia vào quan hệ đó mà còn là ý chí của nhà nước. Trong những giai đoạn khác nhau, phụ thuộc vào cơ sở kinh tế - xã hội, nhà nước đặt ra những nguyên tắc của hôn nhân và gia đình để định hướng cho những quan hệ xã hội đó phát triển theo mục tiêu đã định. Việc xây dựng gia đình hòa thuận, bình đẳng, hạnh phúc đã trở thành một đòi hỏi tất yếu của xã hội. Nhận thức được tầm quan trọng của hôn nhân và gia đình trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, Nhà nước ta đã thiết lập chế độ hôn nhân gia đình mới tiến bộ, thay thế cho chế độ hôn nhân gia đình phong kiến, lạc hậu. Nguyên tắc hôn nhân một vợ, một chồng chính là một trong những định hướng vững chắc của Đảng và Nhà nước ta đảm bảo cho việc thực hiện những quan hệ hôn nhân và gia đình xã hội chủ nghĩa tiến bộ, phù hợp với xu thế phát triển tất yếu của xã hội loài người. Trong bài viết của mình, em xin được trình bày đề tài “Nguyên tắc hôn nhân một vợ, một chồng ở Việt Nam - lịch sử phát triển và thực tiễn áp dụng”.
16 trang |
Chia sẻ: lamvu291 | Lượt xem: 2104 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hình thành và phát triển nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng tại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. LỜI MỞ ĐẦU
Gia đình là tế bào của xã hội, và hôn nhân là cơ sở của gia đình. Một xã hội muốn tồn tại và phát triển một cách bền vững thì chế độ hôn nhân phải được xây dựng một cách vững chắc. Từ khi trong xã hội có nhà nước, quan hệ hôn nhân không chỉ phản ánh ý chí của các cá nhân tham gia vào quan hệ đó mà còn là ý chí của nhà nước. Trong những giai đoạn khác nhau, phụ thuộc vào cơ sở kinh tế - xã hội, nhà nước đặt ra những nguyên tắc của hôn nhân và gia đình để định hướng cho những quan hệ xã hội đó phát triển theo mục tiêu đã định. Việc xây dựng gia đình hòa thuận, bình đẳng, hạnh phúc đã trở thành một đòi hỏi tất yếu của xã hội. Nhận thức được tầm quan trọng của hôn nhân và gia đình trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, Nhà nước ta đã thiết lập chế độ hôn nhân gia đình mới tiến bộ, thay thế cho chế độ hôn nhân gia đình phong kiến, lạc hậu. Nguyên tắc hôn nhân một vợ, một chồng chính là một trong những định hướng vững chắc của Đảng và Nhà nước ta đảm bảo cho việc thực hiện những quan hệ hôn nhân và gia đình xã hội chủ nghĩa tiến bộ, phù hợp với xu thế phát triển tất yếu của xã hội loài người. Trong bài viết của mình, em xin được trình bày đề tài “Nguyên tắc hôn nhân một vợ, một chồng ở Việt Nam - lịch sử phát triển và thực tiễn áp dụng”.
B. NỘI DUNG CHÍNH
I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CHUNG
1. Kết hôn
Kết hôn là việc nam nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn.(() Giáo trình Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2009, tr.88
)
Hệ thống pháp luật của Nhà nước ta quy định việc kết hôn phải được đăng ký tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Sự kiện kết hôn là sơ sở pháp lý ghi nhận rằng hai bên nam nữ đã phát sinh quyền và nghĩa vụ vợ chồng
2. Gia đình
Khoản 10 Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000: “Gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc do quan hệ nuôi dưỡng làm phát sinh các nghĩa vụ và quyền giữa họ với nhau theo quy định của Luật này”.
3. Những nguyên tắc cơ bản của Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam
Nguyên tắc cơ bản của Luật hôn nhân và gia đình là những nguyên lý, tư tưởng chỉ đạo quán triệt toàn bộ hệ thống các quy phạm pháp luật hôn nhân và gia đình.(() Giáo trình Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2009, tr.33
)
Khác với L:uật hôn nhân và gia đình năm 1959 và 1986, Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định những nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình tại Điều 2 gồm 6 khoản. Nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng được quy định tại Khoản 1.
II. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NGUYÊN TẮC HÔN NHÂN MỘT VỢ MỘT CHỒNG TẠI VIỆT NAM
1. Cơ sở lý luận: Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về hôn nhân và gia đình
Chủ nghĩa Mác - Lê nin nhìn nhận hôn nhân và gia đình là những hiện tượng xã hội có quá trình phát sinh, phát triển, do các điều kiện kinh tế - xã hội quyết định. Trong tác phẩm nổi tiếng “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của Nhà nước”, Mác và Enghen đã phân tích, chứng minh một cách khoa học rằng: lịch sử gia đình là lịch sử của quá trình xuất hiện chế độ quần hôn, chuyển sang gia đình đối ngẫu, phát triển lên gia đình một vợ một chồng - là quá trình không ngừng hoàn thiện hình thức gia đình, trên cơ sở sự phát triển của các điều kiện sinh hoạt vật chất của con người.
Mác và Enghen đã chỉ ra cho chúng ta thấy rằng, hình thức hôn nhân một vợ một chồng ra đời trên cơ sở sự xuất hiện chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và những tài sản khác trong xã hội. Được củng cố bởi chính sách, pháp luật của giai cấp thống trị bóc lột, ngay từ khi mới ra đời, chế độ hôn nhân một vợ một chồng đó đã bộc lộ tính giả dối và tiêu cực đối với số đông những người dân lao động. Đồng hành với chế độ hôn nhân một vợ một chồng là nạn mãi dâm công khai và tệ ngoại tình. Chế độ một vợ một chồng ở những thời kỳ này thể hiện công khai quyền gia trưởng của người chồng, người cha trong gia đình. Quá trình thực hiện quyền gia trưởng tuyệt đối đó đồng thời thừa nhận sự bất bình đẳng giữa vợ và chồng, giữa con trai và con gái, sự coi rẻ quyền lợi của con cái.
Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng sâu sắc và triệt để nhất. Trong cuộc cách mạng đó, chắc chắn là các cơ sở kinh tế trước đây của chế độ một vợ một chồng cũng như của cái bổ sung cho nó là tệ ngoại tình và nạn mãi dâm, đều sẽ bị tiêu diệt. Vậy, chế độ một vợ một chồng còn tồn tại hay không khi mà những nguyên nhân kinh tế đã sinh ra nó không còn? Về vấn đề này, Enghen đã khẳng định: “Chế độ đó chẳng những sẽ không biến đi, mà trái lại, chỉ có bắt đầu từ lúc đó, nó mới được thực hiện trọn vẹn. Thật vậy, các tư liệu sản xuất mà được chuyển thành tài sản xã hội thì chế độ lao động làm thuê, giai cấp vô sản cũng sẽ biến mất, và đồng thời cũng sẽ không còn tình trạng một số phụ nữ - con số này có thể thống kê được - cần thiết phải bán mình vì đồng tiền nữa. Tệ mại dâm sẽ mất đi và chế độ một vơ một chồng không những suy tàn, mà cuối cùng lại còn trở thành hiện thực, ngay cả đối với đàn ông nữa”.
Lúc này, hôn nhân mới có điều kiện thể hiện đúng bản chất của nó là hôn nhân một vợ một chồng đích thực, phát sinh và tồn tại trên cơ sở tình yêu chân chính giữa nam và nữ, bình đẳng nhằm xây dựng gia đình để cùng nhau thỏa mãn nhu cầu về tinh thần và vật chất. Những tư tưởng cơ bản về hôn nhân và gia đình của chủ nghĩa Mác - Lê nin chính là cơ sở lý luận để định hình nên những nguyên lý chỉ đạo cho việc thực hiện những quan hệ hôn nhân và gia đình xã hội chủ nghĩa dân chủ và tiến bộ.
2. Quan điểm, đường lối của Đảng về hôn nhân và gia đình - nền tảng của nguyên tắc một vợ một chồng trong Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam
Ở Việt Nam, sau khi hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thống nhất đất nước, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân đi theo con đường chủ nghĩa xã hội. Đảng và Nhà nước đã thể hiện rõ quan điểm của mình trong việc xây dựng những quan hệ xã hội theo xu hướng tiến bộ. Xuất phát từ cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về hôn nhân và gia đình tiến bộ, những nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình xã hội chủ nghĩa được hình thành trong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa trước đây và nó trở thành nền tảng của mọi chế độ hôn nhân và gia đình tiến bộ. Ở nước ta, trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, nhiệm vụ, mục tiêu được đặt ra là phải xóa bỏ tận gốc rễ những tàn dư, hủ tục lạc hậu do chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến để lại, chống lại những ảnh hưởng tiêu cực của hôn nhân và gia đình tư sản, đồng thời xây dựng những quan hệ hôn nhân và gia đình mới xã hội chủ nghĩa. Trong những giai đoạn khác nhau, Đảng và Nhà nước có những chủ trương, chính sách về hôn nhân và gia đình phù hợp, nhằm tập trung thực hiện những nhiệm vụ và mục tiêu nói trên. Pháp luật hôn nhân và gia đình là sự cụ thể hóa quan điểm, đường lối của Đảng về hôn nhân và gia đình. Hiện nay, đất nước đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, việc thực hiện các quan hệ hôn nhân và gia đình phải phù hợp với mục tiêu của chủ nghĩa xã hội nhưng cũng phải phù hợp với các điều kiện kinh tế - xã hội ở thời kỳ quá độ. Trong cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã khẳng định: “Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi thân yêu nuôi dưỡng cả đời người, là môi trường quan trọng giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách. Các chính sách của Nhà nước phải chú ý tới xây dựng gia đình no ấm, hòa thuận, tiến bộ. Nâng cao ý thức về nghĩa vụ gia đình đối với mọi lớp người”. Như vậy, quan điểm của Đảng ta về việc xây dựng gia đình xã hội chủ nghĩa không phải là một mô hình chung chung, mà mang lại những nội dung cụ thể, phù hợp với tình hình thực tế ở Việt Nam. Trong đó đề cao nguyên tắc hôn nhân một vợ, một chồng, coi nó là nền tảng của hôn nhân và gia đình xã hội chủ nghĩa.
3. Cơ sở kinh tế xã hội của sự hình thành nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - lê nin, hôn nhân và gia đình, cũng như các hiện tượng xã hội khác, do cơ sở kinh tế - xã hội quyết định. Những nguyên tắc cơ bản của Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam thể hiện quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình. Quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước không thể là chủ quan duy ý chí mà xuất phát từ thực tiễn xã hội, tôn trọng quy luật vận động khách quan của các quan hệ hôn nhân và gia đình.
Sau khi giành được chính quyền, năm 1945, do cần phải tập trung giải quyết những vấn đề cấp bách trong xã hội và tiếp tục tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, chúng ta chưa thể xóa bỏ ngay được quan hệ sản xuất phong kiến. nền kinh tế còn ở trình độ thấp, mang nặng tính tự cấp, tự túc, vì thế trong thời kì đầu, quan hệ hôn nhân và gia đình vẫn còn chịu ảnh hưởng nặng nề bởi tư tưởng phong kiến.
Năm 1954, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, nhân dân miền Bắc dưới sự lãnh đạo của Đảng bước vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, cách mạng tư tưởng văn hóa cũng được tiến hành mạnh mẽ đã dần phá tan những tư tưởng lạc hậu do chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến đã để lại, hình thành nên những nhận thức mới về hôn nhân và gia đình. Lần đầu tiên ở Việt Nam, tư tưởng xây dựng một chế độ hôn nhân và gia đình mới “cho phù hợp với đạo đức và quan hệ kinh tế xã hội chủ nghĩa” được khẳng định, mà bảo đảm cho nó là một đạo luật về hôn nhân và gia đình (Luật hôn nhân và gia đình năm 1959).
Năm 1975, miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất và tiếp tục đi theo con đường chủ nghĩa xã hội. Những nguyên tắc cơ bản của Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 vẫn được khẳng định là tư tưởng chỉ đạo việc thực hiện những quan hệ hôn nhân và gia đình trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Sự phát triển của kinh tế - xã hội đã tác động đến việc thực hiện các quan hệ hôn nhân và gia đình. Để củng cố chế độ hôn nhân và gia đình xã hội chủ nghĩa tiến bộ, phù hợp với các điều kiện kinh tế - xã hội mới, những nguyên tắc cơ bản của Luật hôn nhân và gia đình 1959 tiếp tục được hoàn thiện và được khẳng định chính thức trong Luật hôn nhân và gia đình năm 1986.
Bên cạnh đó, những yếu tố về mặt xã hội cũng có tác động lớn tới các quan hệ hôn nhân và gia đình. Nét đặc trưng của những quan hệ hôn nhân và gia đình là mang nặng yếu tố tình cảm, đạo đức của các cá nhân, phản ánh sâu đậm phong tục, tập quán, truyền thống, nền văn hóa của một dân tộc. Đất nước ta có hơn 54 dân tộc anh em chung sống, ngoài những đặc điểm văn hóa chung của đại gia đình Việt Nam, mỗi dân tộc lại giữ gìn những phong tục, tập quán riêng mà cha ông để lại. Cho nên, khi xây dựng nguyên tắc một vợ một chồng cũng như những nguyên tắc cơ bản khác của Luật hôn nhân và gia đình, ngoài các yếu tố chính trị, còn phải chú ý tới phong tục, tập quán mà nhân dân ta đang thực hiện.
Như vậy, trong những giai đoạn phát triển của xã hội, trên cơ sở tình hình kinh tế - xã hội, Đảng và Nhà nước ta đã xác định mục đích, nhiệm vụ của ngành luật hôn nhân và gia đình. Những nguyên tắc cơ bản của luật hôn nhân và gia đình chính là những cách thức để đạt được mục đích đó. Nội dung những nguyên tắc cơ bản của Luật hôn nhân và gia đình do những điều kiện kinh tế, xã hội hiện thời quyết định nên nó không phải là bất biến. Khi xem xét, đánh giá những nguyên tắc cơ bản của Luật hôn nhân và gai đình, chúng ta cần phải có quan điểm lịch sử đúng đắn.
III. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NGUYÊN TẮC MỘT VỢ MỘT CHỒNG CỦA LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM
Dựa vào những tiêu chí khác nhau, mà người ta có những sự phân chia các giai đoạn của quá trình phát triển của pháp luật hôn nhân và gia đình khác nhau. Trong những văn bản pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam qua từng giai đoạn, những nguyên tắc cơ bản được thể hiện rõ nét. Một nét đặc thù trong việc lập pháp về hôn nhân và gia đình ở Việt Nam là sự ra đời khá sớm của văn bản luật, chính vì vậy có thể làm rõ quá trình hình thành và phát triển nguyên tắc một vợ một chồng của Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam qua hai giai đoạn lớn: giai đoạn trước và sau khi có Luật hôn nhân và gia đình 1959.
1. Nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng trước khi có Luật hôn nhân và gia đình năm 1959
Do đặc điểm tình hình hình chính trị, kinh tế, xã hội của những năm đầu sau khi giành được chính quyền, mặc dù rất quan tâm đến vấn đề hôn nhân và gia đình, nhưng Nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa chưa thể ban hành được những văn bản pháp luật quy định riêng về hôn nhân và gia đình. Để điều chỉnh những quan hệ hôn nhân và gia đình, Nhà nước non trẻ của chúng ta đã dựa vào các quy định trong các văn bản pháp luật của chế độ cũ còn phù hợp với quan điểm, chính sách của Đảng và quy định của Hiến pháp 1946. Đến năm 1950, những nguyên tắc của pháp luật hôn nhân và gai đình được thể hiện rõ ràng trong Sắc lệnh số 97-SL ngày 22/5/1950 và Sắc lệnh số 159-SL ngày 17/11/1950. Thời kỳ này, pháp luật hôn nhân và gia đình vẫn còn trong giai đoạn sơ khai, với một số ít quy phạm pháp luật.
Các văn bản pháp luật hôn nhân và gia đình chưa có sự phân định những quy định chung và những quy định cụ thể, nhưng thông qua những quy định cụ thể này, chúng ta có thể thấy pháp luật đã quán triệt những nguyên tắc:
- Nguyên tắc hôn nhân tự do, tự nguyện
- Nguyên tắc vợ chồng bình đẳng, bảo vệ quyền lợi chính đáng của người phụ nữ.
- Nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của con cái.
Ở đây chưa đề cập đến nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng nhưng đã bao hàm được những tư tưởng dân chủ tiến bộ của chế độ hôn nhân và gia đình mới do Đảng và Nhà nước ta xây dựng. Những nguyên tắc cơ bản này là cơ sở pháp lý quan trọng để xóa bỏ những tư tưởng lạc hậu do chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến để lại, thực hiện những quan hệ hôn nhân và gai đình mới phù hợp với xu thế phát triển của xã hội, đồng thời chúng còn là nền tảng cho quá trình phát triển của pháp luật hôn nhân và gia đình sau này.
2. Nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng trước khi có Luật hôn nhân và gia đình năm 1959
Từ năm 1959 đến nay, ở Việt Nam đã có đạo luật về hôn nhân và gia đình ra đời kế tiếp nhau: Luật hôn nhân và gia đình năm 1959, 1986, 2000. Mỗi đạo luật đã có những quy định chung trong đó có ghi nhận nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng là sự kết thừa và phát triển nguyên tắc của pháp luật giai đoạn trước trên cơ sở phù hợp với tình hình kinh tế, chính trị xã hội ở từng thời kỳ.
a. Luật hôn nhân và gia đình năm 1959
Năm 1954, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta thắng lợi. Nhân dân Việt Nam được hưởng hòa bình chưa bao lâu thì Đế quốc Mỹ âm mưu phá bỏ Hiệp định Gionevo và biến miền nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới phục vụ cho những mưu đồ quân sự của Mỹ. Đất nước ta tạm thời bị chia cắt ra làm hai miền với hai chế độ chính trị - xã hội khác nhau. Trong khi nhân dân miền Nam tiếp tục đấu tranh chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, quân dân miền Bắc quyết tâm xây dựng chủ nghĩa xã hội làm hậu phương vững chắc cho miền Nam. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, tác động mạnh mẽ vào các mặt của đời sống xã hội, trong đó có quan hệ hôn nhân và gia đình. Trong khi đó, những tàn tích của chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến lạc hậu vẫn còn tồn tại, đè nặng lên tư tưởng của người dân kìm hãm sự phát triển của con người. Tình hình hôn nhân và gia đình đó “không thích hợp với việc thực hiện những nhiệm vụ cách mạng mới là cái tạo và phát triển kinh tế, phát triển văn hóa. Vì vậy, đã đến lúc cần phải xây dựng một chế độ hôn nhân và gia đình phù hợp với đạo đức xã hội chủ nghĩa, trước hết là phải ban hành một Luật hôn nhân và gia đình”.
Xuất phát từ thực tế đó, Luật hôn nhân và gia đình cần phải thực hiện mục đích là xây dựng những gia đình dân chủ hòa thuận, hạnh phúc, trong đó, mọi người đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, xóa bỏ những tàn tích còn lại của chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến cưỡng ép, trọng nam khinh nữ, coi rẻ quyền lợi của con cái. Kế thừa những nguyên tắc cơ bản của pháp luật hôn nhân và gia đình thời kỳ trước, để đạt được những mục đích như trên, Luật hôn nhân và gia đình 1959 đã được xây dựng trên cơ sở bốn nguyên tắc cơ bản sau đây:
- Nguyên tắc hôn nhân tự do và tiến bộ
- Nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng
- Nguyên tắc nam nữ bình đẳng, bảo vệ quyền lợi của phụ nữ trong gia đình
- Nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của con cái.
Nhằm thực hiện chế độ hôn nhân và gia đình mới, Luật hôn nhân và gia đình 1959 đã quy định nguyên tắc mới: nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng. Trước đây, mặc dù đã xác định được nhiệm vụ là xóa bỏ những tư tưởng lạc hậu, phản dân chủ của pháp luật hôn nhân và gia đình phong kiến, nhưng Nhà nước ta chưa có quy định về việc thực hiện chế độ hôn nhân một vợ một chồng. Đây là một hạn chế của pháp luật thời kỳ trước đó. Việc Luật hôn nhân và gia đình 1959 quy định nguyên tắc một vợ một chồng bảo đảm cho hạnh phúc gia đình bền vững, đồng thời phù hợp với đạo đức xã hội chủ nghĩa. Nguyên tắc này còn được thể hiện trong quy định về điều kiện kết hôn “cấm người đang có vợ, có chồng kết hôn với người khác” (Điều 5)
b. Luật hôn nhân và gia đình năm 1986
Khi xây dựng Luật hôn nhân và gia đình 1986, nhà lập pháp đã có sự phân định nhóm những quy định chung và nhóm các quy định chuyên biệt. Nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng được quy định trong Chương I (những quy định chung) trong Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 đã được kế thừa phát triển nguyên tắc này của Luật hôn nhân và gia đình 1959, Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 đã bổ sung thêm những nội dung của nguyên tắc này cho đầy đủ.
Ví dụ: trong nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng, nếu như Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 chủ yếu quy định “cấm người đang có vợ, có chồng kết hôn với người khác” thì Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 quy định đầy đủ hơn “cấm người đang có vợ, có chồng kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác”.
Với việc quy định đầy đủ hơn, phù hợp hơn, nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng của Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 đã tạo ra một nền tảng pháp lý cần thiết cho việc xây dựng những chế định, quy phạm pháp luật chuyên biệt để điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình trong đời sống xã hội. “lỗ hổng” của Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 đã được khắc phục dần dần. Pháp luật hôn nhân và gia đình không ngừng hoàn thiện, trước hết và trên cơ sở sự hoàn thiện hệ thống những nguyên tắc cơ bản.
c. Luật hôn nhân và gia đình năm 2000
Kế thừa và phát triển những nguyên tắc của Luật hôn nhân và gia đình 1986, Luật hôn nhân và gia đình 2000 tiếp tục thực hiện những nguyên tắc của Luật cũ còn phù hợp, nhưng có sự sắp xếp lại cho khoa học hơn, đồng thời bổ sung một số nội dung mới làm cơ sở cho việc thực hiện và bảo vệ các quan hệ hôn nhân và gia đình đầy đủ cùng với sự vận động của các quan hệ kinh tế - xã hội, pháp luật hôn nhân và gia đình - một bộ phận thuộc thượng tầng kiến trúc, không ngừng được hoàn thiện. Đó cũng là quá trình hoàn thiện những nguyên tắc cơ bản của luật hôn nhân và gia đình, trong đó có nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng, với tư cách là hệ tư tưởng chỉ đạo, từ chưa đầy đủ, chưa chuẩn xác đến sự đầy đủ và khoa học hơn, đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ của ngành luật hôn nhân và gia đình trong những giai đoạn mới của đất nước.
IV. NỘI DUNG CỦA NGUYÊN TẮC HÔN NHÂN MỘT VỢ MỘT CHỒNG
Điếu 64 Hiến pháp 1992 quy định: “Gia đình là tế bào của xã hội. Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng. Cha mẹ có trách nhiệm nuôi dạy con thành những công dân tốt. Con cháu có bổn phận kính trọng và chăm sóc ông bà, cha mẹ”. Trên cơ sở đó, Luật hôn nhân và gia đình 2000 đã khẳng định nguyên tắc cơ bản đầu tiên là nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng. Nguyên tắc này được thể hiện cụ thể trong những quy định về kết hôn, thực hiện quan hệ vợ chồng, ly hôn...
Trong xã hội phong kiến, chế độ hôn nhân được xây dựng trên cơ sở chế độ chiếm hữu tư nhân vầ ruộng đất, đời sống vật