Công lao của Nguyễn Ai Quốc trong quá trình vận động thành lập Đảng cộng sản Việt Nam

Nguyễn Ái Quốc, lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, là tấm gương chói lọi về tinh thần cách mạng, chí khí kiên cường bất khuất, toàn tâm toàn ý phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng, tận tụy hy sinh suốt đời phấn đấu vì sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và giải phóng loài người, vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội cộng sản. Kinh nghiệm thực tế và lịch sử cho thấy muốn cách mạng thành công thì điều kiện không thể thiếu là phải có một chính đảng vững mạnh lãnh đạo. Thấy được tính cấp thiết đó, Nguyễn Ái Quốc cùng các đồng chí của mình đã không ngừng hoạt động, tích cực chuẩn bị chu đáo, tiến tới thành lập Đảng ngày 3-2-1930, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp chống thực dân Pháp của nhân dân ta, mở ra một trang sử mới đầy vẻ vang của dân tộc Việt Nam. Trong đó vai trò to lớn nhất thuộc về Nguyễn Ái Quốc, Người là cha đẻ của Đảng ta, là tượng trưng của sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa ý tưởng độc lập, tự do với lý tưởng cộng sản chủ nghĩa; giữa chủ nghĩa yêu nước nồng nàn với quốc tế vô sản. Người đã tiếp thụ phát huy tốt đẹp nhất truyền thống của dân tộc Việt Nam và kết hợp những truyền thống ấy với tư tưởng cách mạng triệt để của thời đại ngày nay, tư tưởng chủ nghãi Mác - Lênin. Người đã sáng lập Đảng ta và rèn luyện Đảng ta thành một đảng cách mạng chân chính của giai cấp công nhân. Người luôn chăm lo rèn luyện cán bộ, đảng viên và không ngừng "bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau". Trong các cuộc kháng chiến trường kỳ của cả dân tộc và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, vai trò lãnh đạo của Đảng rất là to lớn, nhưng người đã sinh ra và nuôi dưỡng Đảng đó trưởng thành đó chính là Nguyễn Ái Quốc - là Chủ tịch Nguyễn Ái Quốc, vì vậy tìm hiểu quá trình thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam để thấy được công lao to lớn của Người.

doc18 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 7733 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Công lao của Nguyễn Ai Quốc trong quá trình vận động thành lập Đảng cộng sản Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. LỜI NÓI ĐẦU Nguyễn Ái Quốc, lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, là tấm gương chói lọi về tinh thần cách mạng, chí khí kiên cường bất khuất, toàn tâm toàn ý phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng, tận tụy hy sinh suốt đời phấn đấu vì sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và giải phóng loài người, vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội cộng sản. Kinh nghiệm thực tế và lịch sử cho thấy muốn cách mạng thành công thì điều kiện không thể thiếu là phải có một chính đảng vững mạnh lãnh đạo. Thấy được tính cấp thiết đó, Nguyễn Ái Quốc cùng các đồng chí của mình đã không ngừng hoạt động, tích cực chuẩn bị chu đáo, tiến tới thành lập Đảng ngày 3-2-1930, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp chống thực dân Pháp của nhân dân ta, mở ra một trang sử mới đầy vẻ vang của dân tộc Việt Nam. Trong đó vai trò to lớn nhất thuộc về Nguyễn Ái Quốc, Người là cha đẻ của Đảng ta, là tượng trưng của sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa ý tưởng độc lập, tự do với lý tưởng cộng sản chủ nghĩa; giữa chủ nghĩa yêu nước nồng nàn với quốc tế vô sản. Người đã tiếp thụ phát huy tốt đẹp nhất truyền thống của dân tộc Việt Nam và kết hợp những truyền thống ấy với tư tưởng cách mạng triệt để của thời đại ngày nay, tư tưởng chủ nghãi Mác - Lênin. Người đã sáng lập Đảng ta và rèn luyện Đảng ta thành một đảng cách mạng chân chính của giai cấp công nhân. Người luôn chăm lo rèn luyện cán bộ, đảng viên và không ngừng "bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau". Trong các cuộc kháng chiến trường kỳ của cả dân tộc và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, vai trò lãnh đạo của Đảng rất là to lớn, nhưng người đã sinh ra và nuôi dưỡng Đảng đó trưởng thành đó chính là Nguyễn Ái Quốc - là Chủ tịch Nguyễn Ái Quốc, vì vậy tìm hiểu quá trình thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam để thấy được công lao to lớn của Người. II. CÔNG LAO CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC TRONG QUÁ TRÌNH VẬN ĐỘNG THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM 2.1. Khái quát xã hội Việt Nam trước khi Đảng CSVN ra đời Trong trào lưu xâm lược thuộc địa của chủ nghĩa tư bản Phương Tây, từ năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược và sau khi đánh chiếm được nước ta, Pháp từng bước thiết lập chế độ thống trị rất tàn bạo, hà khắc và phản động của chủ nghĩa thực dân thông qua hai cuộc khai thác thuộc địa. Từ đó xã hội Việt Nam đã có những biến đổi lớn, từ chế độ phong kiến chuyển sang chế độ thuộc địa nửa phong kiến. 2.1.1. Tình hình kinh tế Thực dân Pháp thực hiện chính sách bóc lột về kinh tế: tiến hành cướp đoạt ruộng đất lập đồn điền; đầu tư khai thác tài nguyên; xây dựng hệ thống đường giao thông, bến cảng..vv, phục vụ cho chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp. Chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp đã tạo nên sự chuyển biến của nền kinh tế Việt Nam (hình thành một số ngành kinh tế mới ...) nhưng cũng dẫn đến hậu quả là nền kinh tế Việt Nam bị lệ thuộc vào tư bản Pháp, bị kìm hãm trong vòng lạc hậu. 2.1.2. Tình hình chính trị Thực dân Pháp thi hành chính sách chuyên chế với bộ máy đàn áp nặng nề. Mọi quyền hành đều thâu tóm trong tay các viên quan cai trị người Pháp, từ toàn quyền Đông Dương, thống đốc Nam Kỳ, khâm sứ Trung Kỳ, thống sứ Bắc Kỳ, công sứ các tỉnh, đến các bộ máy quân đội, cảnh sát, toà án...; biến vua quan Nam triều thành bù nhìn, tay sai. Chúng bóp nghẹt tự do, dân chủ, thẳng tay đàn áp, khủng bố, dìm các cuộc đấu tranh của dân ta trong biển máu. Chúng tiếp tục thi hành chính sách chia để trị rất thâm độc, chia nước ta làm ba kỳ, mỗi kỳ đặt một chế độ cai trị riêng và nhập ba kỳ đó với nước Lào và nước Campuchia để lập ra liên bang Đông Dương thuộc Pháp, xóa tên nước ta trên bản đồ thế giới. Chúng gây chia rẽ và thù hận giữa Bắc, Trung, Nam, giữa các tôn giáo, các dân tộc, các địa phương, thậm chí là giữa các dòng họ; giữa dân tộc Việt Nam với các dân tộc trên bán đảo Đông Dương.   2.1.3. Tình hình văn hóa- xã hội Về văn hóa: Thực dân Pháp thi hành triệt để chính sách văn hóa nô dịch, gây tâm lý tự ti, vong bản, khuyến khích các hoạt động mê tín dị đoan, đồi phong bại tục. Mọi hoạt động yêu nước của nhân dân ta đều bị cấm đoán. Chúng tìm mọi cách bưng bít và ngăn chặn ảnh hưởng của nền văn hóa tiến bộ trên thế giới vào Việt Nam và thi hành chính sách ngu dân để dễ bề thống trị.   Nguyễn Ái Quốc đã vạch rõ tội ác của chế độ cai trị thực dân ở Đông Dương: “chúng tôi không những bị áp bức và bóc lột một cách thê thảm.... Bằng thuốc phiện, bằng rượu... Chúng tôi phải sống trong cảnh ngu dốt tối tăm vì chúng tôi không có quyền tự do học tập”. Về xã hội: Dưới tác động của chính sách cai trị và chính sách kinh tế, văn hóa, giáo dục thực dân, xã hội Việt Nam diễn ra quá trình phân hóa sâu sắc : Giai cấp địa chủ phong kiến : tồn tại lâu đời, cấu kết với thực dân Pháp tăng cường áp bức, bóc lột nông dân. Tuy nhiên, trong nội bộ địa chủ Việt Nam lúc này có sự phân hóa, một bộ phận địa chủ có lòng yêu nước đã tham gia đấu tranh chống Pháp và bọn phản động tay sai. Giai cấp địa chủ, một lực lượng được Nguyễn Ái Quốc đề cập trong Cương lĩnh chính trị về lực lượng cách mạng. Giai cấp nông dân: lực lượng đông đảo nhất trong xã hội Việt Nam, bị thực dân Pháp và phong kiến áp bức, bóc lột nặng nề. Tình cảnh khốn khổ, bần cùng của giai cấp nông dân đã làm tăng thêm lòng căm thù đế quốc và phong kiến tay sai, làm tăng thêm ý chí cách mạng của họ trong cuộc đấu tranh giành lại ruộng đất và quyền tự do. Đối với giai cấp nông dân, Nguyễn Ái Quốc xác định đây là một lực lượng cách mạng đông đảo, là động lực chính của cách mạng. Vì vậy, cách mạng thổ địa là đáp ứng nguyện vọng của đại đa số tầng lớp nông dân. Giai cấp tư sản: hình thành trong quá trình khai thác thuộc địa của thực dân Pháp. Trong quá trình phát triển, giai cấp tư sản Việt Nam phân thành hai bộ phận : tư sản mại bản và tư sản dân tộc. Ngay từ khi ra đời giai cấp tư sản Việt Nam đã bị tư sản Pháp và tư sản người Hoa cạnh tranh, chèn ép, do đó, thế lực kinh tế và địa vị chính trị nhỏ bé và yếu ớt. vì vậy, giai cấp tư sản Việt Nam không đủ điều kiện để lãnh đạo cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ đi đến thành công. Giai cấp tiểu tư sản: Đây là tầng lớp có lòng yêu nước, căm thù đế quốc, thực dân, đời sống bấp bênh và dễ bị phá sản, dễ tiếp xác với tư tưởng tiến bộ từ bên ngoài truyền vào. Vì vậy, họ là lực lượng có tinh thần cách mạng cao, đóng một vai trò quan trọng trong phong trào đấu tranh của nhân dân, nhất là ở thành thị. Trong Chính cương, Nguyễn Ái Quốc xác định cách mạng cần phải liên minh với giai cấp tiểu tư sản, nhằm tạo nên sức mạnh của liên minh lực lượng trong cách mạng. Giai cấp công nhân: Giai cấp ra đời trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp, thông qua chính sách chiếm đoạt ruộng đất nông dân đã trở thành công nhân. Vì thế, giai cấp công nhân có quan hệ trực tiếp và chặt chẽ với giai cấp nông dân. Giống như giai cấp nông dân, giai cấp công nhân Việt Nam cũng bị đế quốc, phong kiến áp bức, bóc lột nặng nề, đưa đến một tinh thần cách mạng triệt để và mạnh mẽ cho giai cấp công nhân. Giai cấp công nhân Việt Nam vừa lớn lên, đã có hệ tư tưởng riêng, có ý thức tổ chức và tinh thần cách mạng triệt để, đồng thời sớm tiếp thu ánh sáng cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin, nhanh chóng trở thành một lực lượng chính trị tự giác, thống nhất và tiến lên đảm nhiệm vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc đưa ra quan điểm về động lực, gốc của cách mạng đó là liên minh giai cấp công – nông, trong đó giai cấp công nhân đảm nhiệm và nắm giữ vai trò tiên phong lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam. Tóm lại, do sự phát triển nội tại, dưới tác động trực tiếp của chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, xã hội Việt Nam có nhiều chuyển biến to lớn. Một hệ quả của sự chuyển biến ấy là sự ra đời, lớn mạnh của các giai cấp công nhân, tiểu tư sản và tư sản, có vai trò khác nhau trong phong trào yêu nước chống Pháp ở Việt Nam đầu thế kỷ XX. Sự chuyển biến của xã hội lúc bấy giờ gắn liền với thời kỳ hoạt động của Nguyễn Ái Quốc, xã hội Việt Nam dần dần thích nghi với con đường cách mạng vô sản do Người vạch ra cho dân tộc. Đó là tiền đề to lớn giúp cho lý tưởng cách mạng vô sản của Nguyễn Ái Quốc ngày càng phát triển và trở thành nền tảng đấu tranh chủ yếu của dân tộc. Thực tế xã hôi Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, giúp Người nhận ra và xác định phương hướng, nhiệm vụ cho cách mạng Việt Nam trong đấu tranh chống Pháp, vấn đề về mâu thuẫn giai cấp, mâu thuẫn dân tộc, trong đó Người cho rằng mâu thuẫn dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu, trên hết của cách mạng. Những vấn đề trên sau này được Nguyễn Ái Quốc đúc kết và vận dụng sáng tạo trong cách mạng Việt Nam, được Người đề ra trong Cương lĩnh cách mạng Tháng 2/1930. 2.2. Phong trào đấu tranh của nhân dân ta trước khi Đảng CSVN ra đời 2.2.1. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến và tư sản cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc theo khuynh hướng phong kiến và tư sản diễn ra mạnh mẽ. Phong trào Cần Vương (1885 – 1896): một phong trào đấu tranh vũ trang do Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết phát động. Năm 1885, vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương. Phong trào Cần Vương phát triển mạnh ở nhiều địa phương ở Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ. Ngày 1-11-1888, vua Hàm Nghi bị Pháp bắt, nhưng phong trào Cần Vương vẫn tiếp tục đến năm 1896. Tiêu biểu như cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo, kéo dài đến năm 1913. Ngoài ra còn có các cuộc khởi nghĩa vũ trang chống Pháp của nhân dân ta, nhưng đều không thành công. Thất bại của các phong trào trên đã chứng tỏ giai cấp phong kiến và hệ tư tưởng phong kiến không đủ điều kiện để lãnh đạo phong trào yêu nước giải quyết thành công nhiệm vụ dân tộc ở Việt Nam. Qua đó cho thấy sự hạn chế về yếu tố thời đại của giai cấp phong kiến, mang nặng tư tưởng phong kiến và dùng nó đấu tranh chống một nước tư bản tiến bộ như Pháp, thì thất bại là điều tất yếu. Điều này được Nguyễn Ái Quốc sau này nhận thức và đúc kết trong tư duy tiến bộ về khắc phục tư tưởng, quan điểm lỗi thời, hình thành tư tưởng tiến bộ, tiếp cận yếu tố thời đại. Bằng việc mà Người đã đi sang các nước phương Tây học hỏi, tiếp thu nền văn minh tiến bộ để về giúp nước nhà. Bên cạnh các cuộc khởi nghĩa nêu trên, đầu thế kỷ XX, phong trào yêu nước dưới sự lãnh đạo của tầng lớp sĩ phu tiến bộ chịu ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản diễn ra sôi nổi. Tiêu biểu cho phong trào này có Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh với hai xu hướng đấu tranh khác nhau. Phan Bội Châu với xu hướng bạo động, ông chủ trương dùng biện pháp bạo động để đánh đuổi thực dân Pháp giành độc lập dân tộc. Lập trường cách mạng của Phan Bội Châu đi từ quân chủ lập hiến sang dân chủ tư sản, nhưng đều thất bại. Sau đó Phan Bội Châu chịu ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười Nga, cũng như có cảm tình với nước Nga Xôviết. Nguyễn Ái Quốc đánh giá “Phan Bội Châu là tiêu biểu cho chủ nghĩa quốc gia”. Phan Châu Trinh với xu hướng cải cách, Ông chủ trương vận động cải cách văn hóa, xã hội; động viên lòng yêu nước trong nhân dân; đả kích bọn vua quan phong kiến, đề xướng tư tưởng dân chủ tư sản; thực hiện khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh; phản đối đấu tranh vũ trang và cầu viện nước ngoài. Biện pháp cách mạng của Phan Châu Trinh đã góp phần thức tỉnh lòng yêu nước của nhân dân ta. Tuy nhiên, phương pháp của Phan Châu Trinh yêu cầu người Pháp thực hiện cải lương… vì vậy, khó có thể giành độc lập được. Tư tưởng cách mạng của hai Cụ Phan, cho thấy sự hạn chế về lịch sử, về giai cấp, vì thề không thể tìm được một phương hướng giải quyết chính xác cho cuộc đấu tranh giải phóng của dân tộc, nên chỉ sau một thời kỳ phát triển đã bị kẻ thù dập tắt.   Sự thất bại của con đường cứu nước của Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh, được Nguyễn Ái Quốc sớm nhận ra những hạn chế. Người nhận ra rằng không thể cứu nước theo con đường của hai Cụ. Người từ chối Đông Du, không tán thành việc dựa vào nước ngoài để giải phóng Tổ Quốc. Điều này được Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh sớm nhận thức được và nó dẫn Người đi đúng hướng: nguồn gốc của những đau khổ và áp bức dân tộc là ở ngay tại “chính quốc”, ở nước đế quốc đang thống trị dân tộc mình. Ngoài ra trong thời kỳ này ở Việt Nam còn có nhiều phong trào đấu tranh khác theo khuynh hướng tư sản, nhằm đòi cải cách tự do dân chủ… Từ trong phong trào đấu tranh, nhiều tổ chức đảng phái ra đời, tiêu biểu là Tân Việt cách mạng Đảng (7/1928) và Việt Nam quốc dân Đảng (12/1927). Các đảng phái chính trị tư sản và tiểu tư sản đã góp phần thúc đẩy phong trào yêu nước chống Pháp. Các phong trào đấu tranh chống Pháp theo xu hướng tư sản nhìn chung diễn ra sôi nổi, mục tiêu hướng tới giành độc lập tự do, nhưng cuối cùng các cuộc đấu tranh đều thất bại. Nguyên nhân là do những hạn chế về giai cấp, về đường lối chính trị, hệ thống tổ chức thiếu chặt chẽ, chưa tập hợp được rộng rãi lực lượng dân tộc…nên cuối cùng đã không thành công. Sự thất bại của các phong trào này, phản ánh địa vị kinh tế và chính trị yếu kém của giai cấp tư sản trong tiến trình cách mạng dân tộc, phản ánh sự bất lực của họ trước những nhiệm vụ lịch sử do dân tộc đặt ra. Sự thất bại của các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã chứng tỏ con đường cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến và hệ tư tưởng tư sản đã bế tắc. Cách mạng Việt Nam lâm vào khủng hoảng sâu sắc về đường lối, về giai cấp lãnh đạo. Do đó, nhiệm vụ cách mạng phải nhường chỗ cho một con đường cách mạng mới, với một giai cấp lãnh đạo mới đưa cách mạng đến thành công. Sau thất bại của các phong trào này, lịch sử Việt Nam bắt đầu chuyển hướng với con đường cách mạng mới – con đường Cách mạng vô sản, mà Nguyễn Ái Quốc là Người đã tìm ra ánh sáng cho cách mạng Việt Nam. 2.2.2. Phong trào đấu tranh theo khuynh hướng vô sản Phong trào đấu tranh theo khuynh hướng vô sản gắn liền với hoạt động của Nguyễn Ái Quốc, quá trình phát triển của phong trào công nhân, sự ra đời của các tổ chức cộng sản. Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc: sau 30 năm bôn ba nước ngoài tìm đường cứu nước, Người đấu tranh gian khổ với con đường vạn dặm vì nhân dân, vì đất nước, cuối cùng Người đã tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc: “con đường cách mạng vô sản”. Từ đó, Người xúc tiến việc truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin, vạch ra đường lối, phương hướng chiến lược cho cách mạng Việt Nam, đưa cách mạng Việt Nam ngày càng phát triển mạnh trong cuộc đấu tranh chống đế quốc Pháp. Phong trào công nhân: từ đầu thế kỷ XX phong trào công nhân chống lại sự áp bức bóc lột của tư bản thực dân cũng diễn ra từ rất sớm. Phong trào đấu tranh chuyển từ tự phát sang tự giác, một bước đấu tranh cao hơn thời kỳ trước đó. Trong những năm 1919-1925, có phong trào công nhân Ba Son (1925) do Tôn Đức Thắng tổ chức; phong trào bãi công của công nhân nhà máy sợi Nam Định (30-4-1925). Phong trào đấu tranh diễn ra trên quy mô lớn và bãi công là phổ biến. Trong những năm 1926-1929, phong trào công nhân diễn ra dưới sự lãnh đạo của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, Công hội đỏ, và các tổ chức cộng sản. Phong trào đấu tranh mang tính chất chính trị rõ rệt, đặc biệt lôi cuốn phong trào dân tộc đi theo con đường cách mạng vô sản. Sự ra đời của các tổ chức công sản:Trước sự phát triển của phong trào công nhân, phong trào yêu nước, khuynh đấu tranh vô sản ngày càng thắng thế và giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Tiêu biểu là sự ra đời của các tổ chức tiền cộng sản: Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, Tân Việt cách mạng đảng. Hoạt động cách mạng của các tổ chức cách mạng đã ảnh hưởng sâu rộng trong nhân dân về ý thức đấu tranh cách mạng vô sản. Đặc biệt là hoạt động của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên có ảnh hưởng lớn đến phong trào cách mạng Việt Nam, thông qua phong trào “vô sản hóa” , để truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin và lý luận giải phóng dân tộc, tạo một bước chuẩn bị có ý nghĩa về mặt tổ chức cho sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam. Điều đó cho thấy thắng lợi của khuynh hướng đấu tranh vô sản biểu hiện ngày càng rõ rệt, nhất là thông qua Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, chứng tỏ cách mạng Việt Nam phù hợp với con đường “cách mạng vô sản”, mà Nguyễn Ái Quốc – Người có công lao lớn trong quá trình đấu tranh lựa chọn con đường giải phóng dân tộc đúng đắn và sáng tạo cho cách mạng Việt Nam. Lý tưởng cách mạng của Người được khẳng định một cách đúng đắn phù hợp với lý luận và thực tiễn của cách mạng Việt Nam sau khi Đảng cộng sản Việt Nam được thành lập. Xu hướng đấu tranh vô sản phát triển mạnh trong làn sóng đấu tranh của dân tộc, chỉ trong năm 1929 đã có ba tổ chức cộng sản ra đời: Đông Dương Cộng sản Đảng (6/1929), An Nam Cộng sản Đảng (8/1929), Đông Dương Cộng sản Liên đoàn (9/1929), thể hiện xu thế chính trị vô sản phát triển mạnh trong hành động và ý thức đấu tranh của nhân dân. Tuy các tổ chức cộng sản đều giương cao ngọn cờ đấu tranh chống đế quốc, phong kiến, nhưng hoạt động phân tán, chia rẽ ảnh hưởng xấu đến phong trào cách mạng Việt Nam. Trước tình trạng đó, yêu cầu khẩn thiết của cách mạng, nhiệm vụ cấp bách trước mắt là khắc phục sự chia rẽ, phân tán, tiến tới hợp nhất thành một đảng duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi lên. Người đảm nhiệm trọng trách và nhiệm vụ hợp nhất các tổ chức cộng sản là Nguyến Ái Quốc. Người nhận thấy sự cần thiết và cấp bách phải thành lập một đảng cộng sản thống nhất, chấm dứt sự chia rẽ trong phong trào cộng sản ở Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị hợp nhất Đảng vào ngày 3-2-1930 , tại Hương Cảng (Trung Quốc). Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời trở thành lực lượng chính trị duy nhất nắm ngọn cờ lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Cũng từ đó cách mạng Việt Nam ngày càng đi lên và giành thắng lợi lớn trong phong trào đấu tranh vì độc lập tự do. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, cùng với những thắng lợi của cách mạng…gắn liền với những hoạt động, những đóng góp to lớn vĩ đại của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh. 2.3. Quá trình thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam 2.3.1. Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước Nguyễn Ái Quốc sinh ngày 19/5/1890, tên thật là Nguyễn Sinh Cung, quê ở làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, lớn lên trên quê hương có truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm. Người lớn lên giữa nước mất nhà tan, đau xót trước cảnh lầm than của đồng bào đã nuôi chí đánh đuổi thực dân Pháp, giải phóng dân tộc. Dưới xiềng xích cai trị của thực dân Pháp, nhân dân ta phải chịu cảnh sống lầm than, cơ cực của những năm tháng đen tối. Giữa lúc đó tinh thần đấu tranh, tinh thần yêu nước không ngừng nổi dậy, bằng các phong trào đấu tranh, các cuộc khởi nghĩa…của giai cấp phong kiến, văn thân sĩ phu yêu nước tiến bộ, của giai cấp tư sản. Nhưng tất cả đều đi đến thất bại, mà nguyên nhân dẫn đến không thành công là do: hạn chế về giai cấp, đường lối chính trị; về tổ chức, chưa tập hợp rộng rãi được lực lượng dân tộc… Nguyễn Ái Quốc rất khâm phục tinh thần yêu nước của các chí sĩ Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh,... nhưng lại không tán thành con đường cứu nước của họ. Sự thất bại của các phong trào yêu nước đã dẫn đến cách mạng Việt Nam lâm vào tình trạng khủng hoảng, bế tắc. Một đòi hỏi tất yếu là phải tìm ra con đường giải phóng cho dân tộc. Nhận thấy cách mạng Việt Nam cần phải có một con đường cứu nước mới, thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, bế tắc, đưa cách mạng Việt Nam đi lên, Nguyễn Ái Quốc đã quyết tâm rời quê hương đi tìm con đường cứu nước mới, tìm con đường giải phóng dân tộc. Ngày 5/6/1911, Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước. Trên lộ trình tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã nhìn thấy và nghiên cứu được những vấn đề hết sức có ý nghĩa trong việc giải phóng dân tộc qua các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới. Người nhận ra sâu sắc những hạn chế của các nhà yêu nước đương thời. Mặc dù khâm phục lòng yêu nước nhưng Người không đồng ý đi theo con đường cứu nước của họ. Và ở đây Nguyễn Ái Quốc đã vượt qua hạn chết của tầm nhìn để tìm cho dân tộc mình một con đường cứ