BÁO CÁO KHOA HỌC VỀ NGHIÊN CỨU VÀ GIẢNG DẠY SINH HỌC Ở VIỆT NAM - HỘI NGHỊ KHOA HỌC QUỐC GIA LẦN THỨ 4 
DOI: 10.15625/vap.2020.00019 
ĐA DẠNG TRÙNG BÁNH XE (Rotifera) TRONG CÁC SINH CẢNH 
THUỘC VÙNG ĐẤT CÁT VEN BIỂN TỈNH QUẢNG NAM 
Dương Quang Hưng1, Võ Văn Minh1,2, Phan Nhật Trường1, 
Trần Nguyễn Quỳnh Anh1,2, Trịnh Đăng Mậu 1,2,* 
Tóm tắt: Đa dạng Trùng bánh xe (Rotifera) trong các sinh cảnh được nghiên cứu 
tại vùng đất cát ven biển tỉnh Quảng Nam. Nghiên cứu ghi nhận được 101 loài 
Trùng bánh xe (TBX) thuộc 24 chi, 16 họ và 3 bộ. Trong đó, 15 loài được ghi nhận 
mới cho ngành Trùng bánh xe ở Việt Nam. Theo sinh cảnh, tổng số loài ghi nhận 
cao nhất ở sinh cảnh cột nước gần bờ (84 loài, chiếm 83,17%), thấp hơn ở sinh 
cảnh cát vùng hygropsammon và vùng eupsammon (lần lượt 76 và 49 loài, chiếm 
75,25 và 48,51%). Độ đạng của quần xã TBX, thể hiện qua chỉ số Shannon, có sự 
khác nhau nhất định giữa các sinh cảnh và thay đổi theo mùa. Các chỉ số ước 
đoán độ giàu loài theo Chao 2, Jacknife 2 và Bootstrap cho thấy tiềm năng đa 
dạng cao ở các sinh cảnh này. Về cấu trúc quần xã, có sự khác biệt về tỉ lệ các họ 
tại mỗi sinh cảnh, tuy nhiên, họ Lecanidae có sự ưu thế về đa dạng loài trong cả 3 
sinh cảnh. Tổng mật độ TBX ở vùng sinh cảnh cát vùng eupsammon cao hơn so 
với vùng hygropsammon và sinh cảnh cát cột nước gần bờ. 
Từ khóa: Đa dạng sinh học, trùng bánh xe, vùng đất cát ven biển, Quảng Nam. 
1. MỞ ĐẦU 
Trùng bánh xe (hay luân trùng - rotifers) là một trong 3 nhóm động vật phù du chiếm 
ưu thế trong các hệ sinh thái thủy vực, là một mắt xích không thể thiếu trong lưới thức ăn, 
đóng vai trò đảm bảo dòng chảy vật chất và năng lượng từ sinh vật sản xuất sơ cấp đến các 
sinh vật bậc cao hơn (Wallace, 2002). Do đó, các loài Trùng bánh xe sống nổi đã được quan 
tâm nghiên cứu khá kỹ. Tuy nhiên trong tự nhiên, đặc biệt là ở các thủy vực có diện tích bề 
mặt nhỏ và nông, bên cạnh nhóm sống nổi, các cộng đồng TBX sống bám, sống đáy và đặc 
biệt là nhóm sống trong cát gần đây cũng được ghi nhận có tiềm năng đa dạng và phong phú 
cao (Fontaneto & De Smet, 2015). Dù TBX trong sinh cảnh cát được đánh giá có thể đóng 
vai trò quan trọng trong liên kết các chu trình năng lượng và vật chất giữa các hệ sinh thái 
trên cạn và dưới nước, nghiên cứu về TBX ở sinh cảnh cát nhìn chung còn khá rải rác và ít 
được đầu tư (Radwan & Bielańska-Grajner, 2001; Wallace, 2002). 
Theo Wiszniewski (1934a, 1934b) có thể phân sinh cảnh cát thành 3 vùng: (1) Vùng 
cát ngập chìm trong nước, chạy dọc theo đường bờ của thủy vực (Hydropsammon); (2) 
Vùng cát hoàn toàn ẩm ướt bởi hoạt động của sóng, dòng chảy và lực mao dẫn, vùng này 
nằm phía trên và sát đường mép nước của thủy vực (Hygropsammon); (3) Vùng cát chỉ 
ẩm ướt một phần, nằm ở ranh giới ngoài cùng của vùng hygropsamon và cách xa đường 
mép nước (Eupsammon). Theo nhóm loài, TBX ở sinh cảnh cát có thể thuộc các nhóm: 
1Nhóm nghiên cứu và giảng dạy DN-EBR, Đại học Đà Nẵng 
2Trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng 
*Email: 
[email protected] 
PHẦN I. NGHIÊN CỨU CƠ BẢN TRONG SINH HỌC 159 
Psammobiotic là nhóm loài đặc trưng cho sinh cảnh cát (ví dụ, Lecane psammophila), 
Psammophilic là nhóm các loài TBX ưa sống trong cát nhưng cũng bắt gặp trong cột nước 
(ví dụ, Colurella colurus), và Psammoxenic là nhóm loài ưa sống phù du trong cột nước 
(Wiszniewski, 1947, 1937). 
Các nghiên cứu trước đây đã dành nhiều sự chú ý cho nhóm các loài TBX ở sinh 
cảnh cát thuộc vùng bờ biển (Saunders-Davies, 1998; Sørensen, 1998; Turner, 1993, 1990; 
Tzschaschel, 1983) và môt số được thực hiện ở sinh cảnh cát ven sông suối (Schmid-
Araya, 1998a, 1998b; Turner, 1996; Zullini & Ricci, 1980). Tuy nhiên, vẫn còn khá ít 
thông tin đa dạng TBX ở sinh cảnh cát thuộc các vùng nước tĩnh (ao, hồ, hồ chứa, vùng 
nước tạm,) (Ejsmont-Karabin, 2003; Neel, 1948; Radwan & Bielańska-Grajner, 2001; 
Segers, 1998). Do đó, bài báo này được thực hiện nhằm khảo sát sự đa dạng TBX tại vùng 
đất cát ven biển tỉnh Quảng Nam và so sánh sự phân bố của các loài TBX trong các sinh 
cảnh khác nhau. 
2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Mẫu phân tích được thu tại 12 địa điểm là các hồ, ao, vùng nước tạm nằm trong 
vùng đất cát ven biển tỉnh Quảng Nam (hình 1). Thời gian thu mẫu vào mùa hè (tháng 8) 
và vào mùa mưa (tháng 11) năm 2019. 
Hình 1. Bản đồ khu vực nghiên cứu 
Tại mỗi địa điểm, mẫu TBX được thu ở 3 sinh cảnh là: sinh cảnh cột nước gần bờ, 
sinh cảnh cát vùng hygropsammon và sinh cảnh cát vùng eupsammon cho các phân tích 
định tính và định lượng. Mẫu định tính TBX trong nước được thu bằng cách kéo lưới thu 
mẫu động vật phù du (mắt lưới 50 μm) theo mặt cắt ngang thủy vực, mẫu định lượng được 
thu bằng cách lọc 30 lít nước qua lưới thu mẫu. Mẫu định tính TBX ở sinh cảnh cát được 
thu bằng gàu nhựa: đặt gàu vuông góc từ bề mặt cát xuống độ sâu 2 cm, sau đó kèo gàu 
song song với đường mực nước. Lớp cát sau khi được lấy lên sẽ được cho vào một xô 
160 BÁO CÁO KHOA HỌC VỀ NGHIÊN CỨU VÀ GIẢNG DẠY SINH HỌC Ở VIỆT NAM 
nhựa và khuấy trộn với nước đã lọc (qua lưới có mắt lưới 30 μm), sau đó cho nước trong 
xô đi qua lưới thu mẫu động vật phù du. Đối với mẫu định lượng TBX ở sinh cảnh cát, ô 
tiêu chuẩn hình chữ nhật kích thước 10x100 cm được xác định tại địa điểm thu mẫu và 
tiến hành các bước như đối với mẫu định tính. Mẫu TBX sau khi thu được chuyển vào 
bình nhựa có dung tích 150 ml và cố định bằng formaldehyde đến 4%. 
Quá trình phân tích, định danh được thực hiện tới loài bằng phương pháp so sánh 
hình thái dưới kính hiển vi quang học Hund (H600). Các mẫu cần thiết phải phân tích hàm 
nghiền (trophi) được thực hiện bằng cách sử dụng nước Javen loãng. Tài liệu chính được 
sử dụng trong định danh loài TBX theo: Koste (1978); Segers (2007); Wallace et al. 
(2006). Mật độ của mỗi loài TBX được xác định bằng buồng đếm sinh vật phù du 
Sedgewick - Raffer. Tính toán chỉ số đa dạng sinh học theo Shannon (1948), xây dựng 
đường cong tích lũy và các chỉ số ước đoán độ giàu loài: chỉ số Jacknife 2 (Smith & van 
Belle, 1984) và Chao 2 (Chao, 1987) của các sinh cảnh thuộc khu vực nghiên cứu được 
thực hiện bằng Vegan package (Oksanen et al., 2013) trong phần mềm R (Team, 2013). 
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 
Nghiên cứu đã ghi nhận tổng số 101 loài TBX thuộc 24 chi, 16 họ, 3 bộ (Bảng 1). 
Trong đó, số loài TBX được ghi nhận nhiều nhất trong sinh cảnh cột nước gần bờ với 84 
loài (chiếm 83,17% tổng số loài), tiếp đó là sinh cảnh cát vùng hygropsammon và 
eupsammon với số loài ghi nhận lần lượt là: 76 và 49 loài (chiếm 75,25% và 48,51%) 
(Bảng 2). Kết quả này tương đồng với kết quả nghiên cứu của Muirhead et al. (2006) ở 3 
hồ nước ngọt vùng ôn đới tại Ba Lan với số loài TBX cao nhất ở sinh cảnh cột nước gần 
bờ (137 - 162 loài), cao hơn so với ở sinh cảnh cát (100 - 135 loài). 
Trong các loài TBX ở sinh cảnh cát, có 3 loài thuộc nhóm psammobiotic là: L. 
minuta, L. phapi và L. spiniventris (chiếm 3,9% tổng số loài); 8 loài thuộc nhóm 
psammophilic: L. abanica, L. bifurca, L. dorysimilis, L. inermis, L. lunaris, L. tenuiseta, L. 
ovalis, C. gibba (chiếm 10,39%); 66 loài TBX trong nhóm psammoxenic. 
Bảng 1. Thành phần loài Trùng bánh xe tại vùng đất cát ven biển tỉnh Quảng Nam
Bộ Collothecaceae 
 Họ Collothecidae 
1. Collotheca ornata (Ehrenberg, 1832)c,l 
Bộ Flosculariaceae 
 Họ Conochilidae 
2. Conochilus dossuarius Hudson, 1885c,l 
3. Conochilus unicornis Rousselet, 1892c,l 
 Họ Testudinellidae 
4. Testudinella sp.e,l 
5. Testudinella tridentata africana Gillard, 1952*c, l 
 Họ Trochosphaeridae 
6. Filinia longiseta Ehrenberg, 1834c, l 
Bộ Ploima 
 Họ Asplanchnidae 
7. Asplanchna sieboldi Leydig, 1854c, l 
Họ Brachionidae 
8. Anuraeopsis fissa Gosse, 1851c,h,e,l 
9. Brachionus angularis Gosse, 1851c,h,l 
10. Brachionus budapestinensis Daday, 1885c,l 
11. Brachionus caudatus Barrois & Daday, 1894c,h,l 
12. Brachionus diversicornis (Daday, 1883)c,l 
13. Brachionus falcatus Zacharias, 1898c,h,l 
14. Brachionus forficula Wierzejski, 1891c,h,l 
15. Brachionus quadridentatus f. brevispinus 
Ehrenberg, 1832c,h,l 
16. Brachionus rubens Ehrenberg, 1838c,h,l 
17. Keratella cochlearis (Gosse, 1851)c,l 
18. Plationus patulus (Müller, 1786)c,l 
19. Platyias quadricornis (Ehrenberg, 1832)c,h,l 
 Họ Dicranophoridae 
20. Dicranophorus sp.h,e,l 
PHẦN I. NGHIÊN CỨU CƠ BẢN TRONG SINH HỌC 161 
 Họ Euchlanidae 
21. Dipleuchlanis propatula (Gosse, 1886)c,h,e,l 
22. Euchlanis dilatata Ehrenberg, 1830c,l 
23. Euchlanis incisa Carlin, 1939*c,l 
 Họ Lecanidae 
24. Lecane abanica Segers, 1994b,h,e,l 
25. Lecane aculeata (Jakubski, 1912)c,h,e,l 
26. Lecane aeganea Harring, 1914c,h,l 
27. Lecane arcula Harring, 1914c,l 
28. Lecane batillifer (Murray, 1913)c,h,e 
29. Lecane bifurca (Bryce, 1892)b,h 
30. Lecane blachei Bērziņš, 1973*c,h 
31. Lecane bulla (Gosse, 1851)c,he,l 
32. Lecane closterocerca (Schmarda, 1859)c,h,e,l 
33. Lecane crepida Harring, 1914c,h,e,l 
34. Lecane curvicornis (Murray, 1913)c,h,e,l 
35. Lecane dorysimilis Trinh Dang, Segers & 
Sanoamuang, 2015b,h,e,l 
36. Lecane doryssa Harring, 1914c,h,e,l 
37. Lecane elsa Hauer, 1931*c,h,l 
38. Lecane eswari Dhanapathi, 1976*c,h,e 
39. Lecane furcata Murray, 1913c,h,e,l 
40. Lecane haliclysta Harring & Myers, 1926c,h,e,l 
41. Lecane hamata (Stokes, 1896)c,h,e,l 
42. Lecane hornemanni (Ehrenberg, 1834)c,h,e,l 
43. Lecane inermis (Bryce, 1892)c,h 
44. Lecane inopinata Harring & Myers, 1926c,h,e,l 
45. Lecane kunthuleensis Chittapun, Pholpunthin & 
Segers, 2003c,h 
46. Lecane lateralis Sharma, 1978*c,h,l 
47. Lecane leontina (Turner, 1892)c,h,e,l 
48. Lecane ludwigii (Eckstein, 1883)c,h,e,l 
49. Lecane luna (Müller, 1776)c,h,e,l 
50. Lecane lunaris (Ehrenberg, 1832)b,h,e,l 
51. Lecane minuta Segers, 1994a,h,e 
52. Lecane mitis Harring & Myers, 1926c,h 
53. Lecane monostyla (Daday, 1897)*c,h 
54. Lecane namatai Segers & Mertens, 1997c,h,e 
55. Lecane obtusa (Murray, 1913)c,h,e,l 
56. Lecane papuana (Murray, 1913)c,h,e,l 
57. Lecane pertica Harring & Myers, 1926c,h,e 
58. Lecane phapi Trinh Dang, Segers & 
Sanoamuang, 2015a,h,e 
59. Lecane pyriformis (Daday, 1905)c,h,e 
60. Lecane quadridentata (Ehrenberg, 1830)c,l 
61. Lecane rhenana Hauer, 1929c,h,e,l 
62. Lecane robertsonae Segers, 1993*c,l 
63. Lecane serrata (Hauer, 1938)*c,l 
64. Lecane signifera (Jennings, 1896)c,h,e,l 
65. Lecane simonneae Segers, 1993c,h,e,l 
66. Lecane sola Hauer, 1936c,h,e,l 
67. Lecane sp. h,l 
68. Lecane spiniventris Segers, 1994a,h,e 
69. Lecane spiniventris Segers, 1993c,h,l 
70. Lecane subtilis Harring & Myers, 1926c,h,l 
71. Lecane superaculeata Sanoamuang & Segers, 
1997c,h,l 
72. Lecane tenuiseta Harring, 1914c,h,e,l 
73. Lecane thailandensis Segers & Sanoamuang, 
1994c,h,e 
74. Lecane thienemanni (Hauer, 1938)c,h 
75. Lecane undulata Hauer, 1938c,h,e,l 
76. Lecane unguitata (Fadeev, 1925)c,l 
77. Lecane ungulata (Gosse, 1887)c,h,l 
Họ Lepadellidae 
78. Colurella geophila Donner, 1951*c,h,e,l 
79. Colurella uncinata (Müller, 1773)c,h,e,l 
80. Lepadella benjamini braziliensis Koste, 1972*c,l 
81. Lepadella discoidea Segers, 1993*c,l 
82. Lepadella ehrenbergii (Perty, 1850)c,h,e,l 
83. Lepadella heterostyla (Murray, 1913)c,l 
84. Lepadella ovalis (Müller, 1786)c,h,e,l 
85. Lepadella patella Müller, 1773c,h,e,l 
86. Lepadella vandenbrandei Gillard, 1952c,h,l 
Họ Mytilinidae 
87. Mytilina bisulcata (Lucks, 1912)c,h,l 
88. Mytilina ventralis (Ehrenberg, 1830)c,h,l 
Họ Notommatidae 
89. Cephalodella gibba (Ehrenberg, 1830)b,h,e,l 
90. Monommata actices Myers, 1930c,h,e,l 
Họ Scaridiidae 
91. Scaridium longicaudum (Müller, 1786)c,h,e,l 
Họ Synchaetidae 
92. Polyarthra sp. h,e,l 
Họ Trichocercidae 
93. Trichocerca bicristata (Gosse, 1887)*c,h,l 
94. Trichocerca bidens (Lucks, 1912)c,h,l 
95. Trichocerca dixonnuttalli (Jennings, 1903)c,l 
96. Trichocerca insulana (Hauer, 1937)*c,h,e,l 
97. Trichocerca pusilla (Jennings, 1903)c,l 
98. Trichocerca similis (Wierzejski, 1893)c,l 
99. Trichocerca weberi (Jennings, 1903)*c,h 
Họ Trichotriidae 
100. Macrochaetus subquadratus (Perty, 1850)c,h,e,l 
101. Trichotria tetractis (Ehrenberg, 1830)c,l 
(*: Ghi nhận mới cho ngành TBX Việt Nam; a: psammobiotic; b: psammophilic; c: psammoxenic; l: cột 
nước gần bờ; h: hygropsammon; e: eupsammon). 
162 BÁO CÁO KHOA HỌC VỀ NGHIÊN CỨU VÀ GIẢNG DẠY SINH HỌC Ở VIỆT NAM 
Hình 2. Một số loài ghi nhận mới cho ngành TBX của Việt Nam: a) T. weberi; b) L. discoidea; 
c) L. serrata; d) T. tridentata Africana; e) L. robertsonae; f) E. incise; g) T. bicristata 
Bảng 2. Thành phần loài TBX theo sinh cảnh sống tại vùng đất cát ven biển, tỉnh Quảng Nam 
Sinh cảnh Bộ Họ Chi Loài Tỉ lệ (%) 
Cột nước 3 16 24 84 83,17 
Hygropsammon 1 11 15 76 75,25 
Eupsammon 2 11 13 49 48,51 
Tổng số 3 16 24 101 100 
Nghiên cứu ghi nhận được 15 loài mới cho ngành TBX Việt Nam, nâng tổng số loài 
TBX đã ghi nhận tại Việt Nam từ 239 lên 254 loài. Các loài mới ghi nhận tại Việt Nam là: 
T. tridentata africana; E. incisa; C. geophila; L. benjamini braziliensis; L. discoidea; T. 
bicristata; T. insulana; T. weberi; L. blachei; L. elsa; L. eswari; L. lateralis; L. monostyla; 
L. robertsonae; L. serrata (Hình 2). 
Mức độ đa dạng của TBX ở các sinh cảnh khác nhau vào mùa khô và mùa mưa được 
đánh giá dựa vào chỉ số Shannon (Hình 3). Vào mùa khô, độ đa dạng trung bình của TBX 
trong cột nước (Hcột nước= 1,35) là cao hơn so với trong các tầng cát (Heupsammon= 0,68 và 
Hhygropsammon= 1,21). Tuy nhiên, kết quả phân tích Anova cho thấy sự khác biệt chỉ có ý 
nghĩa thống kê giữa Hcột nước và Heupsammon với độ tin cậy 90% (pvalue= 0.07). Vào mùa mưa, 
giá trị chỉ số đa dạng đều tăng ở cả 3 sinh cảnh, đạt giá trị Hcột nước= 1,66; Heupsammon= 1,24 
và Hhygropsammon= 1,68. Trong đó, sự tăng lên ở 2 sinh cảnh cát là có ý nghĩa thống kê (pvalue 
< 0.1). Sự biến động về độ đang dạng của quần xã TBX trong cát theo mùa có thể là do sự 
thay đổi các điều dưới kiện môi trường. TBX trong sinh cảnh cát được cho là chịu sự chi 
phối của các yếu tố như lượng vật chất hữu cơ, cấu trúc tầng cát, tỉ lệ nước, pH, nhiệt độ, 
hàm lượng oxy trong tầng cát... (Evans, 1982; Neel, 1948; Pennak, 1940; Ruttner-Kolisko, 
1953; Schmid-Araya, 1998b). Các yếu tố này hoàn toàn có thể thay đổi do sự thay đổi lưu 
lượng nước trong các thủy vực vào mùa mưa, kéo theo sự biến động trong độ đa dạng loài 
của quần xã TBX. 
PHẦN I. NGHIÊN CỨU CƠ BẢN TRONG SINH HỌC 163 
Hình 3. Chỉ số đa dạng Shannon tại các sinh cảnh sống theo mùa. 
Hình 4. Đường cong tích lũy và các chỉ số ước đoán độ giàu loài Trùng bánh xe theo 
các sinh cảnh sống 
Lưu ý rằng, số lượng loài ghi nhận được ở mỗi sinh cảnh phục thuộc vào số lượng 
mẫu thu thập (Dumont & Segers, 1996), nên việc so sánh độ đa dạng dựa trên chỉ số 
Shannon chỉ mang tính tương đối. Do đó, đường cong tích lũy loài và chỉ số ước đoán độ 
giàu loài được sử dụng để đánh giá tiềm năng đa dạng giữa các sinh cảnh nghiên cứu 
(Hình 4). Kết quả phân tích cho thấy, mức độ đa dạng loài trong cột nước gần bờ, cao hơn 
so với trong cát vùng hygropsammon và vùng eupsammon với số lượng loài mới trung 
bình ghi nhận được ở các sinh cảnh tương ứng lần lượt là 5,89; 5,23 và 1,88 loài. Các chỉ 
số ước đoán (Chao 2, Jacknkife 2 và Bootstrap) dự báo rằng tổng số loài có thể thu được 
trên thực tế là lớn hơn nhiều so với số loài đã ghi nhận, đạt đến 73 loài trong vùng 
eupsammon, 112 loài trong vùng hygropsammon và đến 130 loài trong cột nước. 
164 BÁO CÁO KHOA HỌC VỀ NGHIÊN CỨU VÀ GIẢNG DẠY SINH HỌC Ở VIỆT NAM 
Hình 5. (a) Cấu trúc quần xã và (b) mật độ theo bậc họ ở các sinh cảnh sống 
Về cấu trúc, quần xã TBX ở sinh cảnh cát vùng hygropsammon và vùng eupsammon 
có sự tương đồng với 11 họ, trong đó họ Lecanidae có sự đang dạng loài cao nhất với tỉ lệ 
lần lượt chiếm 64,47% và 69,39% tổng số loài. Tuy nhiên, có sự khác biệt về tỉ lệ các họ 
còn lại. Cụ thể, quần xã TBX trong vùng hygropsammon có sự đóng góp lớn từ họ 
Brachionidae, Lepadellidae, Trichotriidae (lần lượt 10,53%; 7,89%; 5,26%) trong khi ở 
vùng eupsammon là họ Lepadellidae và họ Notommatidae (lần lượt 10,20%; 4,08%). So 
sánh với cấu trúc thành phần loài TBX trong cột nước gần bờ (có 16 họ, 24 chi và 84 loài), 
quần xã TBX ở sinh cảnh cát có sự đa dạng thấp hơn ở tất cả các bậc phân loại. Tuy nhiên, 
sự ưu thế của họ Lecanidae (chiếm 45,24% số lượng loài) vẫn được quan sát thấy trong 
cột nước. Các họ có đa dạng loài cao tiếp theo trong sinh cảnh cột nước gần bờ là: 
Brachionidae, Lepadellidae và Trichocercidae (tương ứng 14,29%; 10,71% và 7,14%) 
(hình 5a). Cấu trúc quần xã và mật độ TBX ở sinh cảnh cát có thể bị phụ thuộc vào tính 
chất tầng cát và kích thước hạt cát (Bielańska-Grajner & Molenda, 2008; Ejsmont-
Karabin, 2004). Sự ưu thế của Lecanids tại các sinh cảnh cát có thể được giải thích bởi sự 
thích nghi về cấu trúc và chức năng như: vỏ giáp cứng, kích thước cơ thể nhỏ, thuôn dài, 
có móc gai đuôi giúp chúng chịu đựng tốt hơn với các va đập và ma sát với cát mà không 
bị tổn thương cũng như di chuyển giữa các khe cát dễ dàng hơn. Tuy nhiên, nhận định này 
cần được nghiên cứu kiểm chứng. 
Tổng mật độ TBX có sự khác biệt giữa các sinh cảnh (hình 5b). Sinh cảnh cát vùng 
eupsammon tuy có độ giàu loài thấp hơn so với vùng hygropsammon (49 < 76 loài) nhưng 
lại có tổng mật độ TBX cao hơn so với vùng hygropsammon (9,13x106 cá thể/m3 > 
7,39x106 cá thể/m3). Điều này khác biệt so với một số nghiên cứu trước đây ghi nhận tổng 
số loài và mật độ TBX ở vùng hygropsammon là cao nhất trong sinh cảnh cát (Bielańska-
Grajner & Molenda, 2008; Evans, 1982; Radwan & Bielańska-Grajner, 2001; 
Wiszniewski, 1947). Tuy nhiên, tổng mật độ và mật độ của từng loài khác nhau nhìn 
PHẦN I. NGHIÊN CỨU CƠ BẢN TRONG SINH HỌC 165 
chung rất biến động qua thời gian, địa điểm và các độ sâu khác nhau của môi trường cát 
(Ejsmont-Karabin, 2005; Evans, 1982; Radwan & Bielańska-Grajner, 2001). Trong vùng 
hygropsammon và vùng eupsammon, mật độ loài Lecanids chiếm đa số trong các sinh 
cảnh này với lệ tương ứng 71,98% và 62,81% tổng mật độ cá thể. Ngược lại, trong cột 
nước thì họ Synchaetidae có số lượng cá thể phong phú nhất với 2,93x106 cá thể/m3 
(chiếm 57,47%) kế đến là họ Brachionidae với 34,26%. Lecanids chỉ đóng góp 4,45% 
tổng số loài trong sinh cảnh này. 
Nhìn chung, tổng mật độ Trùng bánh xe ở 2 vùng eupsammon và hygropsammon 
thuộc sinh cảnh cát là cao hơn so với sinh cảnh cột nước gần bờ. Tuy nhiên cần lưu ý rằng, 
phạm vi vùng phân bố của TBX ở sinh cảnh cột nước là rộng lớn hơn nhiều so với phạm 
vi vùng phân bố giới hạn của TBX ở sinh cảnh cát, nơi sinh vật tập trung chủ yếu ở vùng 
cát bề mặt từ 2-3 cm trở lên và kéo dài từ đường mực nước lên phía trên bờ tối đa 20m 
(Whitman et al., 1994). Bên cạnh đó, sự bố của TBX ở sinh cảnh cát còn phụ thuộc vào: 
độ dốc của bờ, hoạt động của dòng chảy, ánh sáng, nhiệt độ (Bielańska-Grajner & 
Molenda, 2008; Ejsmont-Karabin, 2005; Evans, 1982; Muirhead et al., 2006). 
4. KẾT LUẬN 
Tổng số 101 loài TBX thuộc 24 chi, 16 họ và 3 bộ được ghi nhận. Trong đó, 15 loài 
TBX được ghi nhận mới cho ngành TBX của Việt Nam. Về cấu trúc, họ Lecanidae có sự 
đa dạng loài cao nhất trong quần xã ở cả 3 sinh cảnh sống. Tổng mật độ TBX ở vùng 
eupsammon cao hơn so với vùng hygropsammon và trong cột nước. Theo sinh cảnh sống, 
độ giàu loài TBX cao nhất ghi nhận tại sinh cảnh cột nước gần bờ, tiếp đến là cát vùng 
hygropsammon và thấp nhất ở vùng eupsammon. Chỉ số Shannon cho thấy độ đạng các 
sinh cảnh có sự khác nhau nhất định và có sự thay đổi rõ rệt trong độ đa dạng của quần xã 
TBX theo mùa. Đường cong tích lũy loài và các chỉ số ước đoán độ giàu loài cho thấy 
tiềm năng đa dạng cao về TBX trong các sinh cảnh được khảo sát. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Bielańska-Grajner I., Molenda T., 2008. Dependence between occurrence of selected spe