Mở đầu và mục tiêu: tìm hiểu đặc điểm của biến chứng giảm tiểu cầu ở bệnh nhân suy thận mạn được điều trị bằng lọc máu định kỳ. Đối tượng ‐ phương pháp nghiên cứu: Đây là tiến cứu, cắt ngang, so sánh có đối chứng. 90 bệnh nhân (BN) STM giai đoạn 5 được điều trị bằng lọc máu và 30 BN điều trị bằng lọc màng bụng (nhóm chứng) tại Khoa Thận ‐ Lọc máu, bệnh viện Thống Nhất, thành phố HCM. Tiêu chuẩn chọn bệnh: (1) BN STM giai đoạn 5 được điều trị bằng lọc máu định kỳ và lọc màng bụng.(2) Lượng tiểu cầu trước khi bắt đầu lọc máu ở mức bình thường. Tiêu chuẩn loại trừ: BN giảm tiểu cầu do các nguyên nhân nội khoa khác như xơ gan, nhiễm khuẩn nặng, bệnh lý huyết học, ung thư. Lượng tiểu cầu bình thường: 200.000‐400.000 /μL. Tiêu chuẩn chẩn đoán giảm tiểu cầu theo Daniel H. Cooper, khi lượng tiểu cầu < 140.000 /μL. Phương pháp xử lý và phân tích các số liệu: các số liệu được nhập và xử lý với các thuật toán thông thường bằng phần mềm thống kê SPSS 13.0 for Window. Kết quả: Số lượng tiểu cầu ở BN lọc máu so với BN lọc màng bụng là 166,31±49,19 so với 230,67±67,49; p<0,001. Tỷ lệ BN có tiểu cầu giảm dưới <140.000/μL ở BN lọc máu so với BN lọc màng bụng là 34,44% so với 6,67%; p<0,05. Yếu tố nguy cơ giảm tiểu cầu ở BN lọc máu định kỳ so với lọc máu bụng là 7,36; CI 95%: 1,64‐ 32,93 với p<0,05. Lượng tiểu cầu và tỷ lệ BN có tiểu cầu <140.000/ μL lần lượt ở BN lọc máu sử dụng màng lọc HF (triacetate) so với sử dụng màng LF (diacetate) là 167,75±55,59 so với 164,44±39,93; p>0,05 và 28,21% so với 39,22%; p>0,05. Lượng tiểu cầu và tỷ lệ BN có tiểu cầu <140.000/ μL lần lượt ở BN lọc máu sử dụng thuốc kháng đông heparin so với enoxaparin là 166,96±45,89 so với 163,07±65,09; p>0,05 và 30,67% so với 53,33%; p>0,05.
6 trang |
Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 247 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm của biến chứng giảm tiểu cầu ở bệnh nhân suy thận mạn lọc máu định kỳ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận ‐ Niệu 153
ĐẶC ĐIỂM CỦA BIẾN CHỨNG GIẢM TIỂU CẦU
Ở BỆNH NHÂN SUY THẬN MẠN LỌC MÁU ĐỊNH KỲ
Nguyễn Bách*, Trần văn Tiến*
TÓM TẮT
Mở đầu và mục tiêu: tìm hiểu đặc điểm của biến chứng giảm tiểu cầu ở bệnh nhân suy thận mạn được
điều trị bằng lọc máu định kỳ.
Đối tượng ‐ phương pháp nghiên cứu: Đây là tiến cứu, cắt ngang, so sánh có đối chứng. 90 bệnh nhân
(BN) STM giai đoạn 5 được điều trị bằng lọc máu và 30 BN điều trị bằng lọc màng bụng (nhóm chứng) tại
Khoa Thận ‐ Lọc máu, bệnh viện Thống Nhất, thành phố HCM. Tiêu chuẩn chọn bệnh: (1) BN STM giai đoạn 5
được điều trị bằng lọc máu định kỳ và lọc màng bụng.(2) Lượng tiểu cầu trước khi bắt đầu lọc máu ở mức bình
thường. Tiêu chuẩn loại trừ: BN giảm tiểu cầu do các nguyên nhân nội khoa khác như xơ gan, nhiễm khuẩn
nặng, bệnh lý huyết học, ung thư. Lượng tiểu cầu bình thường: 200.000‐400.000 /μL. Tiêu chuẩn chẩn đoán
giảm tiểu cầu theo Daniel H. Cooper, khi lượng tiểu cầu < 140.000 /μL. Phương pháp xử lý và phân tích các số
liệu: các số liệu được nhập và xử lý với các thuật toán thông thường bằng phần mềm thống kê SPSS 13.0 for
Window.
Kết quả: Số lượng tiểu cầu ở BN lọc máu so với BN lọc màng bụng là 166,31±49,19 so với 230,67±67,49;
p<0,001. Tỷ lệ BN có tiểu cầu giảm dưới <140.000/μL ở BN lọc máu so với BN lọc màng bụng là 34,44% so với
6,67%; p<0,05. Yếu tố nguy cơ giảm tiểu cầu ở BN lọc máu định kỳ so với lọc máu bụng là 7,36; CI 95%: 1,64‐
32,93 với p<0,05. Lượng tiểu cầu và tỷ lệ BN có tiểu cầu <140.000/ μL lần lượt ở BN lọc máu sử dụng màng lọc
HF (triacetate) so với sử dụng màng LF (diacetate) là 167,75±55,59 so với 164,44±39,93; p>0,05 và 28,21% so
với 39,22%; p>0,05. Lượng tiểu cầu và tỷ lệ BN có tiểu cầu <140.000/ μL lần lượt ở BN lọc máu sử dụng thuốc
kháng đông heparin so với enoxaparin là 166,96±45,89 so với 163,07±65,09; p>0,05 và 30,67% so với 53,33%;
p>0,05.
Kết luận: Tỷ lệ bệnh nhân lọc máu định kỳ có giảm tiểu cầu (<140.000/ μL) là 34,44% cao hơn so với chỉ
6,67% ở bệnh nhân lọc màng bụng (p<0,05). Lọc máu định kỳ gây biến chứng giảm tiểu cầu với tỷ số chênh gấp
7,36 lần so với lọc màng bụng. Chưa xác định được chính xác nguyên nhân gây giảm tiểu cầu ở bệnh nhân lọc
máu định kỳ, cần có nghiên sâu hơn. Kết quả bước đầu ghi nhận sử dụng màng lọc low‐flux (diacetate) kết hợp
giảm tiểu cầu với tỷ lệ 39,22% cao hơn so với 28,22% ở bệnh nhân sử dụng màng high‐flux (triacetate) nhưng
không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Lọc máu với chống đông bằng heparin không kết hợp với giảm tiểu cầu so
với lọc máu sử dụng enoxaparin.
Từ khóa: giảm tiểu cầu, suy thận mạn, lọc máu định kỳ, lọc màng bụng
ABSTRACT
CHARACTERISTICS OF THROMBOCYTOPENIA IN CHRONIC HEMODIALYSIS PATIENTS
Nguyen Bach, Tran Van Tien * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 3‐ 2013: 153 ‐ 158
Background and objectives: investigate percentage and factors caused thrombocytopenia in chronic
hemodialysis patients
Patients and method: This is a prospective and cross‐sectional study. 90 chronic hemodialysis (CHD)
* Khoa Nội thận ‐ Bệnh Viện Thống Nhất Tp HCM
Tác giả liên hệ: TS.BS CKII Nguyễn Bách, ĐT: 838640339 ext 409,203. Email: bachnguyen32@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Chuyên Đề Thận ‐ Niệu 154
patients and 30 continuous ambulatory peritoneal dialysis (CAPD, control group) in Nephrology – Dialysis,
Thong Nhat Hospital, HCMC. Statistical analysis: SPSS 13.0.
Results: Platelets in CHD versus in CAPD patients ( X ± SD) were 166.31±49.19 vs 230.67±67.49;
p<0.001. Percentage of patients with PLT <140.000/μL in CHD versus CAPD patients was 34.44% so vs
6.67%; p<0.05. OR for thrombocytopenia in CHD was 7.36; CI 95%: 1.64‐32.93; p<0.05. Platelets and
percentage of patients with platelets <140.000/ μL in CHD patients dialyzed by HF (triacetate) versus by LF
(diacetate) were 167.75±55.59 vs 164.44±39.93; p>0.05 and 28.21% vs 39.22%; p>0.05. Platelets and percentage
of patients with platelets <140.000/ μL in CHD patients anticoagulated by heparin versus by enoxaparin were
166.96±45.89 vs 163.07±65.09; p>0.05 and 30.67% vs 53.33%; p>0.05.
Conclusions: Percentage of patients with thrombocytopenia in CHD patients was 34.44% higher than
CAPD patients (6.67%), p<0.05. Risk of thrombocytopenia in CHD patients was 7.36 times versus CAPD
patients. Etiologies of thrombocytopenia in CHD patients were unknown. The primary results have showed that
39.22% patient hemodialyzed by low‐flux (diacetate) membrane was associated with thrombocytopenia versus
28.22% patient hemodialyzed by high‐flux (triacetate) membrane (p>0.05). Hemodialysis with heparin
anticoagulant was not associated with thrombocytopenia versus hemodialysis with enoxaparin anticoagulant.
Keywords: thrombocytopenia, chronic hemodialysis, continuous ambulatory peritoneal dialysis
MỞ ĐẦU
Giảm tiểu cầu là một biến chứng nặng và
thường gặp, đặc biệt ở các bệnh nhân suy thận
mạn điều trị bằng lọc máu định kỳ vì nó làm
tăng nguy cơ gây chảy máu. Ở bệnh nhân giảm
tiểu cầu việc sử dụng các thuốc như aspirin,
kháng viêm không steroid, chống đông (vốn là
các thuốc thường được sử dụng ở bệnh nhân
suy thận mạn) cũng cần thận trọng hơn vì làm
tăng thêm nguy cơ chảy máu.
Có nhiều nguyên nhân gây giảm tiểu cầu ở
bệnh nhân lọc máu định kỳ như sử dụng chất
chông đông heparin, tăng ure huyết, mất máu,
ức chế tuỷ xương và độ hoà hợp sinh học của
màng lọc được sử dụng. Trong đó, 2 yếu tố quan
trọng nhất là thuốc chống đông và màng lọc.
Đối với thuốc kháng đông trong lọc máu định
kỳ có 2 loại thường được sử dụng là heparin
không phân đoạn và heparin trọng lượng phân
tử thấp. Heprarin không phân đoạn vẫn còn
được sử dụng rộng rãi trong thận nhân tạo ở
nhiều quốc gia, tuy có nhiều tác dụng phụ được
ghi nhận. Heparin trọng lượng phân tử thấp
(enoxaparin) có thuận lợi hơn là dễ sử dụng
nhưng cũng có những bất lợi như thời gian bán
huỷ kéo dài hơn, nguy cơ chảy máu vẫn còn
nhiều giờ sau khi lọc máu, không có thuốc đối
kháng khi quá liều, giá thành cao và biến chứng
giảm tiểu cầu do thuốc. Vai trò của độ hoà hợp
sinh học của màng lọc đối với biến chứng giảm
tiểu cầu cũng được xác nhận. Phần lớn các màng
có chất liệu là polymer tổng hợp thường có độ
hoà hợp sinh học tốt hơn màng có chất liệu là
cellulose và ít gây biến chứng giảm tiểu cầu hơn.
Tuy nhiên, vẫn có những báo cáo trường hợp
biến chứng giảm tiểu cầu vẫn xảy ra ngay cả ở
bệnh nhân sử dụng màng tổng hợp.
Mục tiêu nghiên cứu
Tìm hiểu đặc điểm của biến chứng giảm tiểu
cầu ở bệnh nhân suy thận mạn được điều trị
bằng lọc máu định kỳ.
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Bệnh nhân
90 bệnh nhân STM giai đoạn 5 được điều trị
bằng lọc máu và 30 bệnh nhân điều trị bằng lọc
màng bụng (nhóm chứng) tại khoa Thận ‐ Lọc
máu, bệnh viện Thống Nhất, thành phố HCM.
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Bệnh nhân STM giai đoạn 5 được điều trị
bằng lọc máu định kỳ và lọc màng bụng.
Lượng tiểu cầu trước khi bắt đầu lọc máu ở
mức bình thường.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận ‐ Niệu 155
Tiêu chuẩn loại trừ: bệnh nhân giảm tiểu cầu
do các nguyên nhân nội khoa khác như xơ gan,
nhiễm khuẩn nặng, bệnh lý huyết học, ung thư.
Phương pháp nghiên cứu
Tiến cứu, cắt ngang, so sánh có đối chứng.
Tiêu chuẩn chẩn đoán STM: theo hiệp hội
thận học quốc tế(7).
Chọn bệnh nhân lọc máu định kỳ: STM giai
đoạn 5 có nguyện vọng lọc máu định kỳ(5).
Chọn bệnh nhân lọc màng bụng: dựa vào
các yếu tố như bệnh nhân có các yếu tố nguy cơ
tim mạch cao, kiệt các đường mạch máu ngoại
biên (không thể mổ cầu nối động – tĩnh mạch)
và nguyện vọng của bệnh nhân(5).
Lượng tiểu cầu bình thường: 200.000‐
400.000 /μL.
Tiêu chuẩn chẩn đoán giảm tiểu cầu theo
Daniel H. Cooper khi lượng tiểu cầu <
140.000 /μL(1).
Công thức máu thu được từ 3 mẫu máu
ngoại biên khác nhau, lấy máu trước lọc và số
lượng tiểu cầu được tính trung bình cộng từ 3
lần xét nghiệm.
Ở bệnh nhân lọc máu định kỳ: dùng 1
trong 2 loại màng lọc low‐flux với chất liệu là
diacetate và high‐flux với chất liệu là triacetate
(theo điều kiện kinh tế) và sử dụng ngẫu nhiên
1 trong 2 loại enaxoparine hoặc heparin, dịch
lọc bicarbonate, máy thận Surdial 5,5 và
Nikkiso 27 D.
Phương pháp xử lý ‐ phân tích các số liệu
Các số liệu được nhập và xử lý bằng phần
mềm thống kê SPSS 13.0 for Window với các
thuật toán thông thường. Các biến liên tục trong
nghiên cứu được trình bày dưới dạng trung
bình ± độ lệch chuẩn (số liệu có phân phối bình
thường) và giá trị trung bình được so sánh bằng
Student’s t‐test. Sử dụng phép kiểm chi bình
phương để so sánh các biến số phân loại giữa
các nhóm và tần suất được trình bày bằng tỉ lệ
phần trăm (%). Sự khác biệt được xem là có ý
nghĩa thống kê khi p < 0,05.
KẾT QUẢ
Bảng 1. Đặc điểm của bệnh nhân trong nghiên cứu
Đặc điểm Trị trung bình/ Số BN (n=120)
Tuổi ( X ± SD) 66,08±12,96 (33-90)
Số BN ≥ 60 tuổi, n (%) 83(69,17)
Giới nam, n (%) 60(50)
Nguyên nhân STM, n (%)
- ĐTĐ 45(37,5)
- THA 30(25)
- VCTM 12(10)
- Khác 33(27,5)
Phương pháp điều trị STM giai đoạn cuối, n (%)
- Thận nhân tạo 90(75)
- Thẩm phân phúc mạc 30(25)
Lọc máu bằng màng lọc, n (%) (n=90)
- Low-flux (diacetate) 39(43,3)
- High-flux (triacetate) 51(56,7)
Có tái sử dụng lại màng lọc, n (%) 79(87,88)
Lọc máu dùng kháng đông, n (%) (n=90)
- Heparin 75(83,33)
- Enaxaparin 15(16,67)
Có bổ sung sắt, acid folic, n (%) 120(100)
Bảng 2. Mức tiểu cầu ở bệnh nhân lọc máu định kỳ.
Phương pháp
điều trị
Đặc điểm
Nhóm BN lọc
máu định kỳ
(n=90)
Nhóm BN lọc
màng bụng
(n=30)
p
Tuổi trung bình ( X
± SD)
65,82±13,24 66,87±12,23 >0,05
Tuổi ≥ 60, n (%) 62(68,89) 21(70) >0,05
Giới nam, n (%) 47(52,22) 13(43,33) >0,05
Nguyên nhân STM, n (%)
- ĐTĐ 32(35,56) 13(43,33) >0,05
- Không do ĐTĐ 58(64,44) 27(56,67) >0,05
Số lượng tiểu cầu
( X ± SD)
166,31±49,19 230,67±67,49 <0,001
Mức tiểu cầu, n (%)
- Bình thường 59(65,56) 28(93,33) <0,05
- Giảm
(<140.000/µL) 31(34,44) 2(6,67) <0,05
Bảng 3. Lượng tiểu cầu ở bệnh nhân chạy thận nhân
tạo với các loại màng lọc khác nhau.
Yếu tố Màng lọc HF (n= 39)
Màng lọc LF
(n=51) p
Số lượng tiểu cầu ( X
± SD)
167,75±55,59 164,44±39,93 >0,05
Mức tiểu cầu, n (%)
- Bình thường 28(71,79) 31(60,78) >0,05
- Giảm (0,05
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Chuyên Đề Thận ‐ Niệu 156
Bảng 4. Lượng tiểu cầu ở bệnh nhân chạy thận nhân
tạo sử dụng các thuốc kháng đông khác nhau.
Yếu tố Sử dụng heparin (n=75)
Sử dụng
enoxaparin (n=15) p
Số lượng tiểu
cầu ( X ± SD)
166,96±45,89 163,07±65,09 >0,05
Mức tiểu cầu, n (%)
Bình thường 52(69,33) 7(46,67) >0,05
- Giảm
(0,05
Phuong phap loc mau
TNTCAPD
C
ou
nt
70
60
50
40
30
20
10
0
Muc tieu cau
binh thuong
Giam < 140.000
Biểu đồ 1. Nguy cơ xảy ra biến chứng giảm tiểu cầu
ở bệnh nhân lọc máu định kỳ và lọc màng bụng.
BÀN LUẬN
Bảng 1 mô tả các đặc điểm của bệnh nhân
trong nghiên cứu: tuổi trung bình cao
(66,08±12,96) với 69,17% bệnh nhân ≥ 60 tuổi, tỷ
lệ nam/nữ phân bố đều (50%) và nguyên nhân
chính gây suy thận mạn là đái tháo đường và
tăng huyết áp. Có 90 bệnh nhân (75%) suy thận
mạn được điều trị bằng lọc máu định kỳ và 30
bệnh nhân (25%) bệnh nhân được điều trị bằng
lọc màng bụng. Tỷ lệ này cũng phản ảnh thực tế
lâm sàng trong chọn lựa phương pháp điều trị
STM giai đoạn 5 ở bệnh nhân cao tuổi. Ở bệnh
nhân cao tuổi thường không có khẳ năng tự làm
thẩm phân phúc mạc tại nhà mà phải dựa vào
người thân gia đình nên chỉ có một số ít bệnh
nhân cao tuổi đủ điều kiện phù hợp chọn lựa kỷ
thuật này để điều trị lâu dài.
Kết quả ở bảng 2 cho thấy: 2 nhóm bệnh
nhân được điều trị bằng 2 kỷ thuật lọc máu định
kỳ và thẩm phẩn phúc mạc có sự tương đồng về
tuổi, giới và nguyên nhân suy thận mạn nhưng
số lượng tiểu cầu ở nhóm bệnh nhân lọc máu
định kỳ thấp hơn so với nhóm lọc màng bụng
(166,31±49,19 so với 230,67±67,49; p<0,001) và tỷ
lệ bệnh nhân có lượng tiểu cầu giảm <140.000
/μL ở nhóm bệnh nhân lọc máu cao hơn so với
nhóm lọc màng bụng 34,44% so với 6,67% với
p<0,05. Kết quả này phù hợp với kết quả nghiên
cứu của Robert E. Cronin(2). Theo tác giả này,
mức tiểu cầu giảm khoảng 30‐50% ở bệnh nhân
lọc máu định kỳ.
Kết quả ở biểu đồ 1 cũng xác nhận bệnh
nhân lọc máu định kỳ có nguy cơ giảm tiểu cầu
gấp 7,36 lần so với bệnh nhân được lọc màng
bụng. Điều này cho thấy lọc máu gây giảm tiểu
cầu ở bệnh nhân STM giai đoạn 5.
Một số nghiên cứu đã xác định nguyên nhân
gây giảm tiểu cầu ở bệnh nhân lọc máu định kỳ
là do độ hoà hợp sinh học của màng lọc, chất
chống đông(1,4,6). Xét về yếu tố màng lọc: nghiên
cứu của I. Mulder đã xác nhận vai trò của độ
hoà hợp sinh học gây biến chứng giảm tiểu cầu
thông qua hoạt hoá hệ thống bổ thể(6). Nghiên
cứu này cho thấy phần lớn các màng có chất liệu
là polymer tổng hợp thường có độ hoà hợp sinh
học tốt hơn màng có chất liệu là cellulose. Tuy
nhiên, có những báo cáo trường hợp biến chứng
giảm tiểu cầu vẫn xảy ra ngay cả ở bệnh nhân sử
dụng màng tổng hợp và nguyên nhân được cho
là do phương pháp tiệt trùng (electron‐beam
sterilized)(4,9). Hiện nay cũng chưa có bằng
chứng rõ ràng sử dụng loại màng nào trong số
các màng polymer tổng hợp, cellulose triacetate
giúp hạn chế biến chứng giảm tiểu cầu (các kết
quả nghiên cứu cho kết quả trái ngược nhau)(8).
Nghiên cứu của chúng tôi sử dụng 2 loại màng
lọc khác nhau về tính thấm nước (low‐flux và
high‐flux) với chất liệu lần lượt là diacetat và
triacetat. Kết quả ở bảng 3 cho thấy không có sự
khác biệt về số lượng tiểu cầu và tỷ lệ bệnh nhân
có giảm tiểu cầu ở 2 nhóm bệnh nhân được điều
trị với 2 loại màng này.
Xét về vai trò chất kháng đông đối với biến
chứng giảm tiểu cầu: có 2 thuốc kháng đông
thường dùng trọng lọc máu định kỳ là heparin
OR=7,36; CI 95%: 1,64-32,93; p< 0,05
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận ‐ Niệu 157
không phân đoạn và heparin có trọng lượng
phân tử thấp. Heprarin vẫn còn được sử dụng
rộng rãi trong thận nhân tạo ở nhiều quốc gia
nhờ tính tương đối an toàn, thời gian bán huỷ
ngắn (với liều thông thường, khoảng 90 phút
sau khi kết thúc lọc máu thì nguy cơ chảy máu
do heparin là thấp) và giá thành thấp mặc dù
cũng có nhiều biến chứng liên quan đến heparin
bao gồm chảy máu, giảm tiểu cầu, tăng
triglyceride máu, tăng kali máu, phản ứng phản
vệ(10). So với heparin, heparin trọng lượng phân
tử thấp có thuận lợi hơn là dễ sử dụng, không
cần theo dõi khi sử dụng, tiêm 1 lần nhưng cũng
có những bất lợi như thời gian bán huỷ kéo dài
hơn, nguy cơ chảy máu vẫn còn nhiều giờ sau
khi lọc máu, không có thuốc đối kháng khi quá
liều, giá thành cao và giảm tiểu cầu do thuốc.
Giảm tiểu cầu do heparin chiếm tỷ lệ khoảng
10% tổng số bệnh nhân có sử dụng heparin.
Theo một nghiên cứu tại Anh tỷ lệ giảm tiểu cầu
do heparin ở bệnh nhân lọc máu định kỳ là 0,26/
100 bệnh nhân và chỉ khoảng 17% số bệnh nhân
này có biến chứng trên lâm sàng. Cơ chế giảm
tiểu cầu do heparin kháng thể IgG hoạt hoá tiểu
cầu. Chẩn đoán giảm tiểu cầu do heparin rất khó
đòi hỏi kết hợp cả lâm sàng và xét nghiệm miễn
dịch yếu tố 4 kháng tiểu cầu. Khi bệnh nhân có
biến chứng giảm tiểu cầu do heparin không nên
chuyển sang sử dụng heparin có trọng lượng
phân tử thấp(2). Theo tác giả Davenport, chưa có
nghiên cứu nào cho thấy sử dụng enoxaparin
giúp giảm biến chứng giảm tiểu cầu hơn so với
sử dụng heparin(3). Trong nghiên cứu này, kết
quả bảng 4 ghi nhận không có sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê giữa 2 loại kháng đông này. Tuy
nhiên do số lượng bệnh nhân được sử dụng
enoxaparin ít (lý do kinh tế) nên cần theo dõi
trên nhóm bệnh nhân lớn hơn.
KẾT LUẬN
Nghiên cứu 90 bệnh nhân suy thận mạn
được điều trị bằng lọc máu định kỳ và 30 bệnh
nhân suy thận mạn được điều trị bằng lọc màng
bụng (nhóm chứng) tại khoa Thận‐Lọc máu,
bệnh viện Thống Nhất, tp Hồ Chí Minh chúng
tôi rút ra được kết luận sau:
‐ Tỷ lệ bệnh nhân lọc máu định kỳ có giảm
tiểu cầu (<140.000/ μL) là 34,44% cao hơn so với
chỉ 6,67% ở bệnh nhân lọc màng bụng (p<0,05).
Lọc máu gây biến chứng giảm tiểu cầu với tỷ số
chênh gấp 7,36 lần so với lọc màng bụng.
‐ Chưa xác định nguyên nhân gây giảm tiểu
cầu ở bệnh nhân lọc máu định kỳ, cần có nghiên
sâu hơn với số lượng bệnh lớn hơn nhưng kết
quả bước đầu ghi nhận sử dụng màng lọc low‐
flux (diacetate) kết hợp giảm tiểu cầu với tỷ lệ
39,22% cao hơn so với 28,22% ở bệnh nhân sử
dụng màng high‐flux (triacetate) nhưng không
có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Lọc máu với chống
đông bằng heparin không kết hợp với giảm tiểu
cầu so với lọc máu sử dụng enoxaparin.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cooper DH, Krainik AJ, Lubner SJ, Reno HEL (2008). Platelet
disorders. In: The Wasington Manual of Medical
Therapeutics. 32nd Edition.,. Wolters Kluwer/ Lippincott
Williams and Wilkins. pp. 513‐516.
2. Cronin RE and Reilly RF (2001). Unfractionated heparin for
hemodialysis: still the best option. Semin Dial ; 23 (5): 510‐515.
3. Davenport A (2011). What are the anticoagulation options for
intermittent hemodialysis ?. Nat Rev Nephrol, Jul 5; 7(9): 499‐
508.
4. Deprada L, Lee J, Gillespie A, Benjamin J. (2013).
Thrombocytopenia associated with one type of polysulfone
hemodialysis membrane: a report of 5 cases.. Am J Kidney
Disease. Jan; 61 (1): 131‐3.
5. Levy J; Brown E (2009). Choosing which dialysis modality. In:
Oxford handbook of dialysis. 3rd. Oxford University Press. pp.
54‐59.
6. Mulder I, Tan H.K, Bellomo R and Silverster R (2003), Platelet
loss across the hemofilter during continuous hemofiltration”.
International Journal of artificial Organs, Vol. 26, No 10, pp
906‐912.
7. National kidney foundation (2008). Classification of CKD
based on GFR as proposed by the Kidney Disease Outcomes
Quality Initiative (KDOQI) guidelines and modified by NICE
in 2008. Kidney International Supplements. Volume 3. Issue 2.
June, pp 109‐213.
8. Olafiranye F, Kyaw W et al (2011). Resolution of dialyzer
membrane‐associated thrombocytopenia with use of cellulose
triacetate membrane: a case report. Hindawi Publishing
Corporation Case Report in Medicine Volume, Article ID
134295.
9. Post JB (2010). Thrombocytopenia associated with use of a
biocompatible hemodialysis membrane: a case report. Am J
Kidney Disease, Jun; 55(6): pp 25‐8.
10. Shen JI, Wolgang C et al (2012). Use and safety of
unfractionated heparin for anticoagulation during
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Chuyên Đề Thận ‐ Niệu 158
maintenance hemodialysis. American Journal of Kidney
Diseases Vol 60, Issue 3, p 473‐486.
Ngày nhận bài báo 18‐05‐2013
Ngày phản biện nhận xé