Một số vi khuẩn gây bệnh đã được phân lập từ cá rô đồng (Anabas testudineus), tuy nhiên hiện nay có rất
ít nghiên cứu về đặc tính kháng kháng sinh của chủng độc lực. Trong nghiên cứu này, chúng tôi khảo sát
các đặc điểm của các chủng vi khuẩn Vibrio và non-Vibrio phân lập từ cá rô đồng bằng cách kiểm tra độ
nhạy với các loại kháng sinh và kiểm tra độc lực gây chết cá. Tổng số 30 chủng vi khuẩn Vibrio (10
chủng) và non-Vibrio (20 chủng) có biểu hiện kháng với Amoxicillin, Ampicillin, Cefalexin,
Cloramphenicol, Clindamycin, Doxycycline, Erythromycin, Tetveryline. 11/12 chủng kháng với
Clindamycin, 10/12 chủng kháng Ampicillin, 9/12 chủng kháng Tetveryline, 8/12 chủng kháng
Cloramphenicol, 10/12 kháng Cefalexin, và 4/12 chủng kháng Doxycycline. Tất cả các chủng khảo sát đều
nhạy cảm với Ciprofloxacin nhưng việc sử dụng các kháng sinh này hiện nay đã bị cấm tại Việt Nam.
11/12 chủng có khả năng kháng với ít nhất năm loại kháng sinh. Những chủng kháng đa kháng kháng sinh
này có thể gây chết cá rô đồng giống (40-90%) trong thí nghiệm cảm nhiễm bằng cách tiêm trong màng
bụng ở 105CFU/con. Nghiên cứu này đặc biệt cho thấy rằng việc sử dụng thuốc kháng sinh dự phòng và
điều trị bệnh trong nuôi trồng thủy sản Việt Nam cần phải được kiểm soát nghiêm ngặt. Để đánh giá nguy
cơ phát tán các đặc tính kháng kháng sinh của các chủng vi khuẩn trong nghiên cứu này, các cơ chế phân
tử (gene kháng kháng sinh, plasmid) của việc khuếch tán các hoạt tính kháng kháng sinh cần phải được
nghiên cứu cụ thể hơn nữa trong các nghiên cứu tiếp theo.
7 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 18/06/2022 | Lượt xem: 242 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm hình thái và đặc tính xâm nhiễm của vi khuẩn kháng đa kháng sinh phân lập từ cá rô đồng (Anabas testudineus), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1056
ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI VÀ ĐẶC TÍNH XÂM NHIỄM CỦA VI
KHUẨN KHÁNG ĐA KHÁNG SINH PH N LẬP TỪ CÁ RÔ ĐỒNG
(ANABAS TESTUDINEUS)
Nguyễn Thành Luân*, Đặng Lê Thị Hồng Liên,
Tiêu Yến Hoa, Trần Thị Ánh Linh
1
Viện Khoa Học Ứng Dụng HUTECH, Đại học Công Nghệ Tp. Hồ Chí Minh
*
Email: nt.luan@hutech.edu.vn
TÓM TẮT
Một số vi khuẩn gây bệnh đã được phân lập từ cá rô đồng (Anabas testudineus), tuy nhiên hiện nay có rất
ít nghiên cứu về đặc tính kháng kháng sinh của chủng độc lực. Trong nghiên cứu này, chúng tôi khảo sát
các đặc điểm của các chủng vi khuẩn Vibrio và non-Vibrio phân lập từ cá rô đồng bằng cách kiểm tra độ
nhạy với các loại kháng sinh và kiểm tra độc lực gây chết cá. Tổng số 30 chủng vi khuẩn Vibrio (10
chủng) và non-Vibrio (20 chủng) có biểu hiện kháng với Amoxicillin, Ampicillin, Cefalexin,
Cloramphenicol, Clindamycin, Doxycycline, Erythromycin, Tetveryline. 11/12 chủng kháng với
Clindamycin, 10/12 chủng kháng Ampicillin, 9/12 chủng kháng Tetveryline, 8/12 chủng kháng
Cloramphenicol, 10/12 kháng Cefalexin, và 4/12 chủng kháng Doxycycline. Tất cả các chủng khảo sát đều
nhạy cảm với Ciprofloxacin nhưng việc sử dụng các kháng sinh này hiện nay đã bị cấm tại Việt Nam.
11/12 chủng có khả năng kháng với ít nhất năm loại kháng sinh. Những chủng kháng đa kháng kháng sinh
này có thể gây chết cá rô đồng giống (40-90%) trong thí nghiệm cảm nhiễm bằng cách tiêm trong màng
bụng ở 105CFU/con. Nghiên cứu này đặc biệt cho thấy rằng việc sử dụng thuốc kháng sinh dự phòng và
điều trị bệnh trong nuôi trồng thủy sản Việt Nam cần phải được kiểm soát nghiêm ngặt. Để đánh giá nguy
cơ phát tán các đặc tính kháng kháng sinh của các chủng vi khuẩn trong nghiên cứu này, các cơ chế phân
tử (gene kháng kháng sinh, plasmid) của việc khuếch tán các hoạt tính kháng kháng sinh cần phải được
nghiên cứu cụ thể hơn nữa trong các nghiên cứu tiếp theo.
Từ khóa: Antimicrobial susceptibility, Vibrio, Vietnamese Koi, virulence.
1. TỔNG QUAN
Cá rô đồng, Vietnamese Koi (Anabas testudineus) là loại cá sống tự nhiên và được nuôi phổ biến ở một số
tỉnh Đông Nam Bộ và ở vùng ĐBSCL. Tuy nhiên, với sự phát triển nhanh của các vùng nuôi cũng như
mật độ nuôi cao, một số dịch bệnh thường xuyên xảy ra như "đóng nhớt, đen thân, mủ gan” và gây thiệt
hại kinh tế lớn. Tỷ lệ cá chết sau các đợt dịch bệnh khá cao trong cả giai đoạn ương giống và nuôi thương
phẩm, đặc biệt đối với bệnh đen thân. Cá trong ao có thể hao hụt lên đến 20% sau mỗi đợt cá bị bệnh này.
Hiện nay, giải pháp kháng sinh trong phòng và điều trị bệnh được sử dụng rộng rãi trong nuôi trồng thủy
sản Việt Nam tuy nhiên liều lượng sử dụng không chính xác (Van 2005).
Trong nghiên cứu này chúng tôi tiến hành phân lập và đánh giá khả năng kháng các loại kháng sinh thông
thường của các chủng Vibrio spp. và non-vibrio thu được từ cá thương mại nghi nhiễm bệnh. Ngoài ra, các
chủng thể hiện khả năng đa kháng sẽ được kiểm tra độc lực gây chết cá. Chúng tôi đề xuất giải pháp phù
hợp để hạn chế sự bùng phát bệnh và sử dụng kháng sinh hợp lý.
1057
2. VẬT LIỆU PHƢƠNG PHÁP
2.1 Cá thí nghiệm
Mười ba mẫu cá rô đồng thương phẩm và cá giống có dấu hiệu lạ được thu mua từ chợ Thủ Đức
(~200g/con, 4 con), chợ Lê Văn Sĩ, (~45g/con, 6 con), và trại cá ML (~4g/con, 3 con) ở Tp.HCM. Các
mẫu lách, thận, mang và gan của mẫu cá còn sống được thu nhận vô trùng và cấy lên đĩa môi trường
Trypton Soy agar (TSA, Himedia, India), và TCBS (TMMedia, India). Đĩa cấy được ủ 24 giờ ở 28°C. Các
khuẩn lạc đã làm thuần được bảo quản trong môi trường TSA + 15% glycerol. Các vi khuẩn được tăng
sinh trên TSA 24 giờ trước khi sử dụng cho thử nghiệm tiếp theo.
2.2 Phƣơng pháp thử độ nhạy với kháng sinh
Thử nghiệm độ nhạy với kháng sinh được thực hiện trên môi trường thạch Muller-Hinton Agar (HiMedia,
India) theo phương pháp đĩa khuếch tán kháng sinh của Kirby-Bauer. Theo đó, dung dịch kháng sinh được
bổ sung vào giếng (d = 6 mm) đã chuẩn bị sẵn trên đĩa thạch trải đều vi khuẩn (108CFU/ml) để đạt nồng
độ cuối cùng tương ứng với từng loại là Amoxicillin (25µg), Ampicillin (10µg), Cefalexin (30µg),
Chloramphenicol (30µg), Ciprofloxacin (5µg), Clindamycin (10µg), Doxycycline (30µg), Erythromycin
(15µg), Tetracyline (30µg) mua từ công ty Mekophar, Việt Nam. Sau đó, các đĩa thạch được ủ 24 giờ ở
28°C và ghi nhận kháng theo phương pháp được đề xuất bởi CLSI (2008).
2.3 Thử nghiệm độc lực các chủng đa kháng
Cá thí nghiệm (~4g/con), màu sắc tươi sáng, phản ứng linh hoạt được nuôi thích nghi 1 tuần trong hệ
thống bể 300L, sục khí 24/24 giờ. Thí nghiệm được bố trí trên hệ thống bể 15L, sục khí 24/24 giờ, 10
con/bể, gồm 2 nghiệm thức: (1) nghiệm thức đối chứng, tiêm dung dịch nước muối sinh lý 0,85% NaCl
(0.1 ml/cá); (2) nghiệm thức cảm nhiễm tiêm (0.1 ml/cá) dung dịch chủng vi khuẩn (Bảng 1). Theo đó
sinh khối vi khuẩn sau khi tăng sinh trên TSA 24 giờ ở 28°C được huyền phù và điều chỉnh mật độ ~106
CFU/ml bằng nước muối sinh lý 0,85% NaCl. Mật độ gây cảm nhiễm là 105 CFU/cá bằng phương pháp
tiêm xoang bụng. Mật độ vi khuẩn xác định bằng phương pháp đếm số khuẩn lạc trên TSA. Các biểu hiện
của cá sau tiêm được theo dõi trong 7 ngày. Đối với cá chết trong thí nghiệm sẽ thu nhận gan và thận để
tái phân lập lại vi khuẩn gây bệnh bằng cách kiểm tra sự đồng nhất kiểu hình với của chủng gây bệnh.
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1 Dấu hiệu bệnh lý
Cá thí nghiệm có biểu hiện bên ngoài như cơ thể cá có màu đen bất thường, nhiều trường hợp cá xuất
huyết ở đầu (Hình 1A, B), và bơi bất thường trên mặt nước. Các biểu hiện bên trong gan có đốm trắng lạ
(Hình 1C). Các vi khuẩn phân lập được có sự đồng nhất cao (Hình 1D).
Hình 1. Cá rô đồng biểu hiện thân đen sậm (A), hình dạng các khuẩn lạc trên môi trường TCBS TSA (B), gan có dấu
hiệu lạ (C) và khuẩn lạc mọc đồng nhất trên môi trường TSA
1058
3.2 Đặc điểm hình thái, sinh lý và sinh hóa của vi khuẩn phân lập từ cá rô đồng
Tổng cộng 12/30 chủng vi khuẩn phân lập từ gan, thận, lách, và mang của các mẫu cá nghi nhiễm bệnh
trên môi trường TSA (20 chủng) và TCBS (10 chủng) (Bảng 1) được chọn để kiểm tra các đặc điểm về
hình thái, sinh lý, sinh hóa. Hầu hết đều xuất hiện khuẩn thuần sau 24 - 36 h ủ ở nhiệt độ 28°C (Hình 1D).
Đa số vi khuẩn phân lập được chứa cả hai loại tế bào vi khuẩn Gram âm, gram dương, dương tính với
Catalase và Oxidase (Bảng 1).
Kết quả nghiên cứu này tìm thấy vi khuẩn trong các mẫu phân lập thuộc nhóm Vibrio (3/12 cá bị nhiễm)
khuẩn lạc vàng (Hình 1). Vi khuẩn phát triển trên môi trường TSA sau 24 h ở 28°C, đường kính khuẩn lạc
khoảng 1 – 3 mm bao gồm cả khuẩn lạc màu trắng đục và trong suốt, bề mặt trơn láng và lồi (Bảng 1).
Các vi khuẩn phân lập được có khả năng phát triển đa dạng trong môi trường TSB có bổ sung NaCl (1-
6%) (Bảng 1).
Bảng 1. Đặc điểm hình thái, sinh lý và sinh hóa của các chủng vi khuẩn phân lập từ cá rô đồng
STT Code
Địa
điểm
Trọng
lƣợng
(g)
Dấu bệnh Hình thái#
Gram/
Catalase/
Oxidase
Conc. Of NaCl (%)
0 1 2 3 4 5 6
1 V2L Chợ, Q3 45 ND Tròn, trắng đục, lồi –/+/+ + + + + + – –
2 V2T Chợ, Q3 45 ND Tròn, trắng đục, lồi –/+/+ + + + + + – –
3 V7G Chợ, Q3 200 Thân đen Tròn, trắng đục +/+/+ + + + + + + –
4 V7L Chợ, Q3 200 Thân đen Tròn, trắng đục –/+/+ + + + + + + –
5 V3G Chợ, Q3 45 ND Trong suốt –/+/+ + + + + + + –
6 V3T Chợ, Q3 45 ND Tròn, trong suôt –/+/+ + + + + + – –
7 NV5G Chợ, Q3 200 Gan mủ Tròn, trắng đục –/+/+ + + + + + + –
8 NV5M Chợ, Q3 200 Gan mủ Tròn, trắng đục –/+/+ + + + + + – –
9 Đ1 ML, Q9 4 Bơi lờ đờ Tròn, trong suốt +/+/+ + + + + + + +
10 Đ2T ML, Q9 4 Bơi lờ đờ Tròn, trắng đục +/+/+ + + + + + + +
11 Đ2V ML, Q9 4 Bơi lờ đờ Tròn, trắng đục –/+/+ + + + + + + +
12 Đ3 ML, Q9 4 Bơi lờ đờ Tròn, trắng đục –/+/+ + + + + + + +
#, khuẩn lạc mọc trên môi trường TSA; dương tính, kháng: +; âm tính, không kháng: –; ND, không xác định; nt:
như trên
3.3 Kết quả kiểm tra độ nhạy kháng sinh
Kết quả kiểm tra độ nhạy của 12 chủng Vibrio và non-Vibrio với 9 loại kháng sinh đã cho kết quả kháng
hầu hết các loại kháng sinh (Bảng 1), cụ thể Clindamycin (11/12 chủng), Ampicillin (10/12),
Tetracyline (9/12 chủng), Chloramphenicol (8/12 chủng), Cefalexin (10/12 chủng), và Doxycycline (4/12
chủng). Mặc dù các chủng phân lập được trong nghiên cứu này đều nhạy cảm với Ciprofloxacin (0/12),
loại kháng sinh này đã bị cấm sử dụng trong sản xuất kinh doanh thủy sản (Thông tư số 10/2016/TT-
BNNPTNT ngày 01/6/2016 của Bộ Nông nghiệp và PTNT) (Bảng 3). Trong khi đó, hầu hết các chủng vi
khuẩn phân lập từ cá rô đồng đều nhạy cảm với kháng sinh Erythomycin (10/12 chủng) ngoại trừ chủng
V3T và NV5G, và nhạy cảm với Amoxicillin (9/12) ngoại trừ chủng Đ1, Đ2T, và Đ3, cả hai kháng sinh
trên đều thuộc danh hạn chế sử dụng. Tuy nhiên, theo kết quả nghiên cứu của chúng tôi, chủng V2L, V2T,
1059
V7G, V7L, V3G, NV5G, và NV5M kháng hoàn toàn với kháng sinh Amoxicillin (đường kính vòng kháng
= 0), tương tự 4 chủng Đ1, Đ2T, Đ2V, và Đ3 phân lập từ cá rô đồng giống (Bảng 2) kháng hoàn toàn với
kháng sinh Erythomycin. Điều này cho thấy rằng, cần nâng mức độ cảnh báo hoặc đề xuất cấm sử dụng cả
hai loại kháng sinh Amoxicillin và Erythomycin trong nuôi trồng thủy sản. Đặc biệt, các chủng vi khuẩn
phân lập từ cá thương mại trong nghiên cứu này đều nhạy cảm với kháng sinh Doxycycline (hiện không
thuộc danh mục cấm hay hạn chế sử dụng), tuy nhiên 4 chủng Đ1, Đ2T, Đ2V và Đ3 phân lập từ cá rô
đồng giống (Bảng 2) đều có khả năng kháng loại kháng sinh này, cho thấy rằng Doxycycline có thể đang
được sử dụng trong điều trị bệnh trên cá rô đồng và bắt đầu xuất hiện các chủng kháng Doxycycline. Do
đó, chúng tôi đề nghị cần thực hiện thêm các đánh giá nhiều hơn về các chủng vi khuẩn phân lập từ các
loài thủy hai sản có khà năng kháng Doxycycline.
Bảng 2. Đặc điểm kháng kháng sinh của các chủng vi khuẩn phân lập từ cá rô đồng
Thí nghiệm
Nồn
g độ
Tình
trạng#
Các chủng phân lập từ cá rô đồng
V
2
L
V
2
T
V
7
G
V
7
L
V
3
G
V
3
T
N
V
5
G
N
V
5
M
Đ
1
Đ
2
T
Đ
2
V
Đ
3
Kháng NaCl 4% + + + + + + + + + + + +
5% – – + + + – + – + + + +
6% – – – – – – – – + + + +
Kháng sinh
Clindamycin
10µ
g - R R R R R R S R R R R R
Ampicillin
10µ
g Cấm R R R R R R R R S S R R
Amoxicillin
25µ
g
Hạn
chế R R R R R R R R S S R I
Chloramphen
icol
30µ
g Cấm R R I R S R S R R S R R
Ciprofloxacin 5µg Cấm S S S S S S S S S S S S
Erythromycin
15µ
g
Hạn
chế R R R R R S S R R R R R
Doxycycline*
30µ
g - S S S S S S S S R R R R
Cefalexin
30µ
g - R I R R R R S R R R R R
Ratio (R/9) 7 6 5 7 6 5 2 7 6 5 8 7
*, following Biorad disc test with strain E. coli ATCC 25922; +, kháng; –, không kháng
S = Susceptible, I = Intermediate, R = Resistant;
# Thông tư số 10/2016/TT-BNNPTNT ngày 01/6/2016 của Bộ Nông nghiệp và PTNT
1060
3.4 Kết quả thí nghiệm độc lực
Kết quả cảm nhiễm nhân tạo 12 chủng vi khuẩn phân lập từ cá rô đồng cho thấy 10/12 chủng có thể gây
chết cá với tỉ lệ chết từ 40-90% (Hình 2A). Theo kết quả trình bày ở hình 2, các chủng Đ2V, Đ3, V7G, và
V3G cá bắt đầu chết ngày thứ 2 sau tiêm. Sau 5 ngày tiêm, tỉ lệ cá chết 50% được ghi nhận ở nhóm cá gây
nhiễm Đ3, 60% ở nhóm tiêm V3G và V7L. Sau 8 ngày cảm nhiễm, tỉ lệ cá chết cao nhất được ghi nhận ở
các nhóm gây nhiễm với chủng Đ2T (80%); V3G (80%); NV5M (90%); và V7L (90%) ở mật độ 106
CFU/ml. Trong khi đó, lô đối chứng và V2L, V2T cá vẫn hoạt động bình thường trong suốt thời gian thí
nghiệm. Vi khuẩn tái phân lập từ các mẫu cá chết có tính đồng nhất và bước đầu được xác định với các
đặc điểm hình thái giống như các chủng vi khuẩn gây cảm nhiễm ban đầu (Hình 2B, C).
Mặc dù hai chủng Vibrio spp. V2L và V2T không gây chết cá trong thí nghiệm này, nhưng chúng đều thể
hiện khả năng kháng tương ứng 6/9 và 7/9 loại kháng sinh khảo sát. Điều này cho thấy rằng khả năng
chúng có thể mang các plasmid có nhiều loại gene kháng kháng sinh khác nhau và có thể chuyển sang các
loài vi khuẩn khác sau đó làm tăng cường độc lực của các loài gây bệnh (Aoki 1988, Cabello và cộng sự,
2013). Ví dụ, plasmid chứa gene kháng với chloramphenicol, trimethoprim, sulphonamide và tetracycline
đã được xác định trong mầm bệnh cá (McPhearson et al. 1991). Các plasmid chuyển gene kháng với 5 loại
kháng sinh đã được xác định từ vi khuẩn gây bệnh ở cả hai nhóm cá biển và cá nước ngọt như Vibrio
anguillarum, V. salmonicida, Aeromonas salmonicida, A. hydrophila, Edwarsiella tarda và Yersinia
ruckeri (Aoki et al. 1987; Crumlish et al. 2002; Clinical and Laboratory Standards Institute (CLSI) 2008).
Hình 2. Kết quả gây cảm nhiễm với vi khuẩn phân lập từ cá rô đồng. A, Tỉ lệ chết của cá tiêm với 12 chủng vi khuẩn
kháng đa kháng sinh. B, Hình thái chủng NV5G thuần. C, Hình thái vi khuẩn tái phân lập từ cá chết ở nhóm cảm
nhiễm với chủng NV5G
Một số nhà nghiên cứu đã chỉ ra những vấn đề trong nuôi trồng thủy sản như nuôi trồng với mật độ cao,
xuất hiện nhiều các trang trại tự phát và thiếu các biện pháp vệ sinh trại đã tạo điều kiện cho sự lây lan
nhanh chóng của các tác nhân gây bệnh dẫn đến việc sử dụng kháng sinh dự phòng (Cabello 2006; Sørum
2006; Van 2005). Quá trình này đã dẫn tới một số bất lợi như sự xuất hiện của vi khuẩn kháng kháng sinh
trong môi trường nuôi trồng thủy sản và sự xuất hiện của chủng kháng kháng sinh gây bệnh cá. Điều này
1061
có thể dẫn đến việc chuyển các gene kháng thuốc từ thủy sản sang các nhóm vi khuẩn trên động vật trên
cạn và gây bệnh ở người, và còn làm thay đổi hệ vi sinh vật trong trầm tích và trong cột nước (Cabello
2004; Huys et al. 2001; Holmström et al. 2003; Lê và cộng sự 2005).
4. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Nghiên cứu hiện tại chỉ ra rằng 30 chủng phân lập từ cá rô đồng có thể là chủng Vibrio (10/30 chủng)
hoặc non-Vibrio (20 chủng). 11/12 chủng có khả năng kháng ít nhất với NaCl 4%, và kháng ít nhất năm
loại kháng sinh (trong tổng số 9 loại kháng sinh thử nghiệm). Những chủng vi khuẩn này có khả năng gây
chết cá trong thí nghiệm cảm nhiễm với cá rô đồng. Do đó, khi các chủng vi khuẩn kháng kháng sinh này
gây bệnh sẽ có thể đặc biệt khó kiểm soát. Hiện tượng này thậm chí có thể trở nên nghiêm trọng hơn khi
thực tế chỉ ra rằng nhiều gene kháng thuốc được truyền bởi plasmid và gây ảnh hưởng hiệu quả điều trị
bệnh thủy sản (Aoki 1988). Quá trình này đã dẫn tới một số bất lợi như sự xuất hiện của vi khuẩn kháng
đa kháng sinh trong môi trường nuôi trồng thủy sản và sự xuất hiện của chủng kháng kháng sinh gây bệnh
cá như trong nghiên cứu của chúng tôi.
Để hiểu rõ nguy cơ phát tán các đặc tính kháng kháng sinh của các chủng vi khuẩn trong nghiên cứu này,
các nghiên cứu tiếp theo cần làm sáng tỏ các cơ chế làm xuất hiện hiện tượng siêu kháng, phân tích các
đặc điểm phân tử của các gene kháng thuốc. Ngoài ra, có một nhu cầu nghiêm ngặt để kiểm soát cả việc
sử dụng thuốc dự phòng và chữa bệnh của các chất chống vi trùng trong nuôi trồng thủy sản Việt Nam.
Cùng quan điểm với Lim và cs (2016), chúng tôi kết luận rằng một yêu cầu nghiêm ngặt để kiểm soát cả
việc sử dụng kháng sinh dự phòng và điều trị bệnh trong nuôi trồng thủy sản Việt Nam là rất cần thiết hạn
chế sự bùng phát dịch bệnh cộng đồng và tổn thất kinh tế gây ra bởi các chủng có độc lực cao và kháng đa
loại kháng sinh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Al Faruk; Amir Hossain; et al. 2018. Asian Australas J Biosci Biotechnol. 3(2): 93-105.
[2] Nguyễn Hữu Thịnh, Bùi Thị Kim Cương, Đỗ Viết Phương, 2011. Khoa Thủy Sản, Trường Đại học
Nông Lâm TP. HCM
[3] Nguyễn Duy Khương, 2011. Luận văn tốt nghiệp đại học. Đại học Cần Thơ.
[4] Phạm Thị Thùy Mỹ, 2011. Luận văn tốt nghiệp đại học. Đại học Cần Thơ
[5] Từ, T.D., Huỳnh, T.N.T và Nguyễn, K.D. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, phần B:
Nông nghiệp, Thủy sản và Công nghệ Sinh học: 26 (2013): 96-103
[6] Đặng, T.H.O, Trương, Q.N., Nguyễn, Đ.H. Tạp chí Khoa học 2012:22c 194-202
[7] Hossain, M.S., et al. 2017. International Journal of Fisheries and Aquatic Studies 5(3): 520-524
[8] Dung T.T, Haesebrouck, F., Tuấn N.A., Sorgeloos P., Baele M., Decostere A. 2010. Tạp chí Khoa
học ĐH Cần Thơ:15a 162-171.
[9] Cabello F.C, Godfrey H.P, Tomova A., Ivanova L., Dölz H., Millanao A., Buschmann A.H. 2013.
Environ. Microbiol. 15:1917–1942.
[10] Aoki T. 1988. Microbiol. Sci. 5: 219-223.
[11] Mc Phearson, R.M., et al. Aquaculture. 99, Issues 3–4, December 1991, Pages 203-211
[12] Aoki T. and Takahashi A. 1987. Antimicrob. Agents and Chemother. 31: 1278-1280
1062
[13] Crumlish M., Dung T.T., et al. 2002. J. Fish Dis. 25: 733- 736.
[14] Clinical and Laboratory Standards Institute (CLSI). 2008. Clinical and Laboratory Standards
Institute, Wayne, USA.
[15] Cabello F.C. 2006. Environ. Microbiol. 8: 1137-1144.
[16] Sørum H. 2006. American Society for Microbiology Press, Washington, DC, USA, pp. 213-238.
[17] Van P.T. 2005. Chiang May, Thaïland. ISBN 88-901344-3-7.
[18] Holmström K., Graslund S., Wahlstrom A., Poungshompoo S., Bengtsson B. and Kautsky N. 2003.
In. J. Food Sci. Tech. 38: 255-266
[19] Huys, G., Gevers D., Temmerman R., Cnockaert M., Denys R., Rhodes G., Pichup R., McGann P.,
Hiney M., Smith P. and Swings J. 2001. Syst. Appl. Microbiol. 24: 122-130
[20] Le, T.X., Munekage Y., Kato S.I. 2005. Total Environ. 349: 95-105.
[21] Cabello, F.C. 2004. Fundacion Terram. Analisis de Politicas Publicas. 17: 11-16.
[22] Lim, Y.J., Kim, D.H., et al. 2016. Aquacult. Int. 24, 1153-1161.