Đặt vấn đề: Đồng thuận của vùng Châu Á – TBD khuyến cáo cần bắt đầu tầm soát ung thư đại trực tràng
(UTĐTT) kể từ tuổi 50. Tuy nhiên, một số báo cáo gần đây cho thấy có sự gia tăng tỉ suất UTĐTT mới mắc ở
lứa tuổi trẻ hơn. Đặc điểm của nhóm bệnh nhân UTĐTT này ở Việt Nam chưa được biết rõ.
Mục tiêu: Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và mô bệnh học của UTĐTT khởi phát sớm
(<50 tuổi).
Phương pháp: Nghiên cứu tiền cứu, mô tả cắt ngang được tiến hành tại BV ĐHYD TP HCM từ 03/2009
– 03/2011. Tất cả bệnh nhân được chẩn đoán xác định UTĐTT được đưa vào nghiên cứu. Đặc điểm của nhóm
UTĐTT khởi phát sớm được mô tả và phân tích so sánh với nhóm bệnh nhân ≥ 50 tuổi.
Kết quả: Tỉ lệ UTĐTT khởi phát sớm là 28% với tỉ lệ nam:nữ là 1,3. 22,3% (25/112) chỉ có triệu chứng
đau bụng và/hoặc thay đổi thói quen đi tiêu mà không kèm triệu chứng báo động. 42,9% (48/112) mô tả triệu
chứng tiến triển kiểu ngắt quãng, từng đợt. Tỉ lệ có tiền căn UTĐTT gia đình ở nhóm UTĐTT khởi phát sớm
cao hơn ở nhóm ≥ 50 tuổi (21,4% so với 7,6%, p<0,001). Phân bố vị trí của tổn thương ung thư ở trực tràng, đại
tràng đoạn xa và đoạn gần ở nhóm UTĐTT khởi phát sớm lần lượt là 51,8% (58/112), 26,8% (30/112) và 21,4%
(24/112); không có sự khác biệt so với nhóm bệnh nhân ≥ 50 tuổi (2, p = 0,29). Cũng không có sự khác biệt về tỉ
lệ UTĐTT biệt hóa kém giữa hai nhóm tuổi: 12,4% (14/112) ở nhóm < 50 tuổi so với 8,3% (24/288) ở nhóm ≥ 50
tuổi (2, p = 0,25).
Kết luận: Có một tỉ lệ đáng kể UTĐTT xảy ra sớm hơn độ tuổi được Đồng thuận vùng Châu Á – TBD
khuyến cáo bắt đầu tầm soát. Để nhận diện các trường hợp này cần phải có thái độ cảnh giác cao vì bệnh nhân có
thể không có triệu chứng báo động và mô tả triệu chứng kiểu ngắt quãng. Tiền căn UTĐTT gia đình là một yếu
tố nguy cơ của UTĐTT khởi phát sớm.
7 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 11/06/2022 | Lượt xem: 292 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm lâm sàng, nội soi và mô bệnh học của ung thư đại trực tràng khởi phát sớm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Ngoại Khoa 66
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, NỘI SOI VÀ MÔ BỆNH HỌC
CỦA UNG THƯ ĐẠI TRỰC TRÀNG KHỞI PHÁT SỚM
Quách Trọng Đức*, Nguyễn Thúy Oanh**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Đồng thuận của vùng Châu Á – TBD khuyến cáo cần bắt đầu tầm soát ung thư đại trực tràng
(UTĐTT) kể từ tuổi 50. Tuy nhiên, một số báo cáo gần đây cho thấy có sự gia tăng tỉ suất UTĐTT mới mắc ở
lứa tuổi trẻ hơn. Đặc điểm của nhóm bệnh nhân UTĐTT này ở Việt Nam chưa được biết rõ.
Mục tiêu: Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và mô bệnh học của UTĐTT khởi phát sớm
(<50 tuổi).
Phương pháp: Nghiên cứu tiền cứu, mô tả cắt ngang được tiến hành tại BV ĐHYD TP HCM từ 03/2009
– 03/2011. Tất cả bệnh nhân được chẩn đoán xác định UTĐTT được đưa vào nghiên cứu. Đặc điểm của nhóm
UTĐTT khởi phát sớm được mô tả và phân tích so sánh với nhóm bệnh nhân ≥ 50 tuổi.
Kết quả: Tỉ lệ UTĐTT khởi phát sớm là 28% với tỉ lệ nam:nữ là 1,3. 22,3% (25/112) chỉ có triệu chứng
đau bụng và/hoặc thay đổi thói quen đi tiêu mà không kèm triệu chứng báo động. 42,9% (48/112) mô tả triệu
chứng tiến triển kiểu ngắt quãng, từng đợt. Tỉ lệ có tiền căn UTĐTT gia đình ở nhóm UTĐTT khởi phát sớm
cao hơn ở nhóm ≥ 50 tuổi (21,4% so với 7,6%, p<0,001). Phân bố vị trí của tổn thương ung thư ở trực tràng, đại
tràng đoạn xa và đoạn gần ở nhóm UTĐTT khởi phát sớm lần lượt là 51,8% (58/112), 26,8% (30/112) và 21,4%
(24/112); không có sự khác biệt so với nhóm bệnh nhân ≥ 50 tuổi (2, p = 0,29). Cũng không có sự khác biệt về tỉ
lệ UTĐTT biệt hóa kém giữa hai nhóm tuổi: 12,4% (14/112) ở nhóm < 50 tuổi so với 8,3% (24/288) ở nhóm ≥ 50
tuổi (2, p = 0,25).
Kết luận: Có một tỉ lệ đáng kể UTĐTT xảy ra sớm hơn độ tuổi được Đồng thuận vùng Châu Á – TBD
khuyến cáo bắt đầu tầm soát. Để nhận diện các trường hợp này cần phải có thái độ cảnh giác cao vì bệnh nhân có
thể không có triệu chứng báo động và mô tả triệu chứng kiểu ngắt quãng. Tiền căn UTĐTT gia đình là một yếu
tố nguy cơ của UTĐTT khởi phát sớm.
Từ khóa: Ung thư đại tràng, ung thư trực tràng.
ASBTRACT
THE CLINICAL, ENDOSCOPIC AND PATHOGICAL CHARACTERISTICS OF EARLY-ONSET
COLORECTAL CANCER IN VIETNAMESE POPULATION
Quach Trong Duc, Nguyen Thuy Oanh
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 66 - 72
Background: The Asia Pacific consensus for colorectal cancer (CRC) recommends that screening program
should begin by the age of 50. However, there have been reports about increasing incidence of CRC at a younger
age (i.e. early-onset CRC). Little has been known about the features of early-onset CRC in Vietnamese population.
Aim: To describe the clinical, endoscopic and pathological characteristics of early-onset CRC in Vietnamese
population.
Method: A prospective, cross-sectional study was conducted at the University Medical Center from March
2009 to March 2011. All patients with definite pathological diagnosis of CRC were recruited. Early-onset CRC
Bộ môn Nội, ĐHYD TP. HCM ** Bộ môn Ngoại, ĐHYD TP. HCM
Tác giả liên lạc: TS. Quách Trọng Đức ĐT: 091.8080225, Email: drquachtd@ump.edu.vn
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Ngoại Tổng Quát 67
group were analyzed in comparison with the late-onset (i.e. ≥ 50-year-old) CRC group.
Results: The rate of early-onset CRC was 28% (112/400) with the male-to-female ratio of 1.3. 22.3%
(25/112) of patients only experienced abdominal pain and/or change in bowel habit without alarming symptoms.
42.9% (48/112) of patients considered their symptoms as intermittent pattern. The rate of familial history of CRC
in early-onset group was significantly higher that of the late-onset group (21.4% versus 7.6%, p<0.001). The
distribution of CRC lesions in rectum, distal and proximal colon were 51.8% (58/112), 26.8% (30/112) and
21.4% (24/112), respectively; which was not different from that in the late-onset group (2, p = 0.29). The rates of
poorly differentiated tumor were also not significantly different between the two groups: 12.4% (14/112) in early-
onset group versus 8.3% (24/288) in late-onset group (2, p = 0.25).
Conclusion: A high proportion of CRC appeared at an earlier age than that recommended for screening by
the Asia Pacific consensus. Family history was a risk factor of early-onset CRC. Diagnosis of early-onset CRC
requires a high suspicion because of the lack of alarming symptoms and the intermittent pattern of symptoms as
described by the patients.
Key words: colorectal cancer
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư đại - trực tràng (UTĐTT) là một
trong những ung thư thường gặp ở Việt Nam,
đứng hàng thứ 4 ở nam và thứ 6 ở nữ theo công
bố của Tổ chức Nghiên cứu Ung thư Quốc tế
năm 2008. Đồng thuận của vùng Châu Á – Thái
Bình Dương khuyến cáo nên tiến hành tầm soát
UTĐTT từ độ tuổi 50 tuổi(15). Tuy nhiên một số
nghiên cứu gần đây cho thấy tỉ suất bệnh mới
của UTĐTT đang có khuynh hướng gia tăng ở
các bệnh nhân trẻ hơn(3,13). Điều này đặt ra yêu
cầu cho các nhà lâm sàng là cần nghiên cứu các
đặc điểm của nhóm UTĐTT khởi phát sớm để từ
đó tầm soát, và phát hiện sớm hiệu quả hơn.
Nghiên cứu về UTĐTT khởi phát sớm tại các
nước cho thấy kết quả không đồng nhất. Cho
đến hiện nay, chưa có công trình nghiên cứu
trong nước về vấn đề này. Mục tiêu của nghiên
cứu này là xác định tỉ lệ, đặc điểm lâm sàng, nội
soi và mô bệnh học của các trường hợp UTĐTT
khởi phát sớm (< 50 tuổi) ở người Việt Nam.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng
Tất cả các bệnh nhân nội trú và ngoại trú là
người Việt Nam, ở độ tuổi < 50, đến khám tại
Khoa Nội soi, BV Đại Học Y Dược TP HCM từ
tháng 03/2009 đến tháng 03/2011 và có kết quả
giải phẫu bệnh là carcinôm đại - trực tràng.
Phương pháp
Nghiên cứu tiến cứu, mô tả cắt ngang. Tất
cả các bệnh nhân trong nghiên cứu được hỏi
chi tiết về triệu chứng lâm sàng, thời gian
khởi bệnh, kiểu diễn tiến của triệu chứng (liên
tục tăng dần hay ngắt quãng), tiền căn
UTĐTT gia đình ở người có quan hệ huyết
thống trực hệ (cha mẹ hoặc anh chị em ruột).
Tất cả bệnh nhân trong nghiên cứu đều được
nội soi đại tràng bằng hệ thống máy Olympus
Video CF AI – 160. Trên nội soi ghi nhận vị
trí, dạng tổn thương đại thể của UTĐTT. Trên
mô bệnh học, tổn thương ung thư được đánh
giá theo 3 mức độ biệt hóa (tốt, vừa, kém).
Quản lý và xử lý số liệu
Phần mềm SPSS (version 15.0, SPSS,
Chicago, IL, USA) được sử dụng để quản lý
số liệu và xử lý thống kê. Dùng thống kê mô
tả để tính các tỉ lệ, tần suất, và tuổi trung
bình. Dùng phép kiểm 2 để so sánh sự khác
biệt giữa tần suất tiền sử UTĐTT gia đình, vị
trí và độ biệt hóa của tổn thương UTĐTT giữa
nhóm < 50 và nhóm ≥ 50 tuổi. Carcinôm dạng
tế bào nhẫn nhẫn, dạng nhầy được phân tích
chung với nhóm có biệt hóa kém.
KẾT QUẢ
Đặc điểm lâm sàng
Từ tháng 03/2009 đến 03/2011, có 400
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Ngoại Khoa 68
trường hợp UTĐTT được chẩn đoán xác định
tại Khoa Nội soi, BV ĐHYD TP HCM. Có 112
(28%) trường hợp dưới 50 tuổi, bao gồm 63
nam (56,3%) và 49 nữ (43,8%). Tỉ lệ nam:nữ là
1,3:1. Số bệnh nhân ở độ tuổi < 40 là 44 (11%)
và từ 40 – 49 tuổi là 68 (17%). Bệnh nhân trẻ
nhất 17 tuổi. Có 46 trường hợp (11,5%) có tiền
căn UTĐTT gia đình. Khi tính riêng ở nhóm
354 bệnh nhân không có tiền căn UTĐTT gia
đình, số bệnh nhân ở độ tuổi < 40 là 34 (9,6%)
và từ 40 – 49 là 54 (15,3%).
Biểu đồ 1: Phân bố của UTĐTT theo nhóm tuổi.
Tiền căn UTĐTT gia đình ở nhóm < 50 tuổi
là 21,4% (24/112), cao hơn so với nhóm ≥ 50 tuổi
là 7,6% (22/288) (Kiểm 2, p < 0,001). Số người
thân bị UTĐTT ở 24 bệnh nhân < 50 tuổi có tiền
căn gia đình được trình bày ở bảng 1. Liên quan
giữa tuổi của các bệnh nhân này với tuổi của
người thân trẻ nhất lúc phát hiện bị UTĐTT
được trình bày ở bảng 2.
Bảng 1. Số người thân bị UTĐTT
Số người thân bị UTĐTT n %
3 1 4,2
2 3 12,5
1 20 83,3
Tổng cộng 24 100
Bảng 2. Liên quan giữa tuổi bệnh nhân so với tuổi
người thân trẻ nhất lúc phát hiện UTĐTT
STT Giới Tuổi
Tuổi người thân
trẻ nhất lúc phát
hiện UTĐTT
Ghi chú
1 Nữ 35 - Không biết rõ
chính xác tuổi
của người thân
lúc bị UTĐTT
2 Nam 37 -
3 Nữ 42 -
4 Nữ 46 -
5 Nam 36 23 Tuổi người thân
STT Giới Tuổi
Tuổi người thân
trẻ nhất lúc phát
hiện UTĐTT
Ghi chú
6 Nam 39 30 trẻ nhất khi bị
UTĐTT < 60 và
BN lớn tuổi hơn
người thân trẻ
nhất khi bị
UTĐTT < 10
7 Nữ 40 33
8 Nam 40 40
9 Nữ 45 40
10 Nam 46 50
11 Nữ 47 52
12 Nam 49 50
13 Nữ 27 52 Tuổi người thân
trẻ nhất khi bị
UTĐTT < 60 và
BN lớn tuổi hơn
người thân trẻ
nhất khi bị
UTĐTT ≥ 10
14 Nam 32 44
15 Nam 35 58
16 Nam 41 56
17 Nam 46 56
18 Nữ 34 66
Tuổi người thân
trẻ nhất khi bị
UTĐTT ≥ 60
19 Nữ 37 78
20 Nữ 38 78
21 Nam 40 68
22 Nam 42 73
23 Nữ 46 72
24 Nam 47 63
Tất cả bệnh nhân đều đến khám khi đã có
triệu chứng (bảng 3 và 4). Có 25 trường hợp
(22,3%) chỉ biểu hiện bằng đau bụng, rối loạn
thói quen đi tiêu (tiêu chảy và / hoặc táo bón)
mà không kèm các triệu chứng báo động (tiêu
máu, sụt cân, buốt mót và thiếu máu). 64 trường
hợp (57,1%) mô tả triệu chứng diễn tiến liên tục,
trong khi 48 trường hợp (42,9%) mô tả triệu
chứng ngắt quãng từng đợt.
Bảng 3. Triệu chứng của UTĐTT ở người < 50 tuổi.
Triệu chứng n %
Đau bụng 71 63,4
Tiêu chảy 24 21,4
Táo bón 27 24,1
Táo bón và tiêu chảy xen kẽ 11 9,8
Tiêu máu 58 58,1
Sụt cân 46 41,1
Buốt mót 38 33,9
Thiếu máu 03 2,7
Bảng 4. Thời gian có triệu chứng.
Thời gian có triệu chứng n % % tích lũy
< 1 tháng 12 10,7 10,7
1 – 3 tháng 53 47,3 58
> 3 – 6 tháng 20 17,9 75,9
6 - 12 tháng 19 17 92,9
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Ngoại Tổng Quát 69
> 12 tháng 8 7,1 100
Đặc điểm nội soi
90 (69,6%) trường hợp có tổn thương đã tiến
triển gây hẹp lòng đại tràng không thể đưa máy
soi lên thêm để khảo sát toàn bộ khung đại
tràng. Tỉ lệ ung thư đại tràng đoạn gần (từ đại
tràng xuống đến manh tràng) ở nhóm bệnh
nhân < 50 tuổi là 26,8% (30/112), không khác biệt
so với nhóm bệnh nhân ≥ 50 tuổi là 21,5%
(62/288) (kiểm 2, p = 0,29). Phân bố vị trí và
dạng đại thể trên nội soi của tổn thương được
trình bày theo bảng 5, 6.
Bảng 5. Phân bố của tổn thương UTĐTT.
Vị trí ung thư n % % tích lũy
Trực tràng 58 51.8 51.8
ĐT chậu hông 24 21.4 73.2
ĐT xuống 6 5.4 78.6
ĐT ngang 12 10.7 89.3
ĐT lên 12 10.7 100
Bảng 6. Dạng tổn thương trên nội soi.
n % % tích lũy
Sùi 85 75,9 75,9
Sùi loét 18 16,1 92
Polyp 3 2,6 94,6
Loét 1 0,9 95,5
Thâm nhiễm 5 4,5 100
Đặc điểm mô bệnh học
Mức độ biệt hóa tốt, vừa và kém (hoặc dạng
tế bào nhẫn, dạng nhầy) ở nhóm < 50 tuổi lần
lượt là 6,3%, 81,2% và 12,5%. Tỉ lệ ung thư biệt
hóa kém (hoặc dạng tế bào nhẫn, dạng nhầy) ở
nhóm < 50 tuổi là 12,5% (14/112) không khác biệt
so với nhóm bệnh nhân ≥ 50 tuổi là 8,3% (24/288)
(kiểm 2, p = 0,25).
BÀN LUẬN
Định nghĩa “khởi phát sớm” trong các
nghiên cứu về UTĐTT khởi phát sớm không
có sự thống nhất với nhau: một số nghiên cứu
lấy mốc < 40 trong khi một số khác lấy mốc là
< 50 tuổi. Trong nghiên cứu này chúng tôi
chọn mốc là < 50 vì đây là ngưỡng được Đồng
thuận về UTĐTT vùng Châu Á – TBD thống
nhất khuyến cáo tầm soát(15). Tỉ lệ UTĐTT
khởi phát sớm thay đổi rất nhiều tùy theo tùy
theo dân số nghiên cứu. Trong nghiên cứu
của chúng tôi, tỉ lệ bệnh nhân < 40 tuổi trong
nghiên cứu của chúng tôi là 11%. Tỉ lệ này ở
Thổ Nhĩ Kỳ, tỉ lệ là 13%(12). Ngay ở cùng một
quốc gia như Ần Độ, kết quả nghiên cứu cũng
rất khác biệt và tỉ lệ theo các báo cáo được
công bố gần đây dao động từ 12,6% -
39%(4,8,10).
Về phân bố giới tính, tỉ lệ nam:nữ trong
nghiên cứu của chúng tôi là 1,3 tương tự với
nhiều nghiên cứu trong nước trước đây. Tuy
nhiên các nghiên cứu tại Jordan và Israel cho
thấy ở UTĐTT khởi phát sớm gặp nhiều ở nữ
hơn so với nam giới(1,9). Điều này có lẽ do sự
khác biệt về chủng tộc hoặc một số yếu tố về
môi trường chưa được hiểu biết đầy đủ giữa
các quốc gia.
Một điểm cần cảnh giác vì có thể làm cho
bệnh nhân chủ quan và trì hoãn việc đi khám là
gần phân nữa trường hợp bệnh nhân tự đánh
giá các triệu chứng là ngắt quãng, 22,3% chỉ có
các triệu chứng đau bụng, rối loạn thói quen đi
tiêu mà không kèm các triệu chứng báo động.
Một điểm đáng lưu ý khác là 75,9% trường hợp
phát hiện triệu chứng trong vòng 6 tháng trong
khi 69,6% trường hợp khi phát hiện thì tổn
thương ung thư đã tiến triển gây bán hẹp lòng
đại tràng, máy nội soi không thể vượt qua để
khảo sát toàn bộ khung đại tràng. Điều này cho
thấy bệnh đã có thời gian tiến triển âm thầm
trong một thời gian dài. Y văn thế giới cho thấy
hầu hết UTĐTT đều phát triển từ các polyp
tuyến của vùng đại trực tràng và ở giai đoạn
sớm thường không gây triệu chứng(14). Cho đến
nay, đã có bằng chứng chắc chắn cho thấy cắt
polyp qua nội soi có hiệu quả làm giảm đáng kể
tỉ lệ bệnh mới UTĐTT(5,17). Tại Việt Nam hiện
chưa có chương trình tầm soát UTĐTT cấp quốc
gia và hầu hết bệnh nhân đến khám tự phát, do
đó nhận diện các đặc điểm để phát hiện ra
nhóm bệnh nhân này và khuyến cáo nội soi đại
tràng tầm soát sớm để cắt polyp phòng ngừa
ung thư là một vấn đề hết sức thiết thực. Tiền
căn UTĐTT gia đình ở nhóm UTĐTT khởi phát
sớm trong nghiên cứu của chúng tôi là 21,4%,
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Ngoại Khoa 70
cao hơn rõ rệt so với ở nhóm bệnh nhân ≥ 50
tuổi là 7,6%. Kết quả này cũng tương tự như
một số nghiên cứu nước ngoài(6,7) và cho thấy
tầm quan trọng của việc khai thác yếu tố nguy
cơ gia đình khi tiếp cận chẩn đoán các trường
hợp < 50 tuổi có biểu hiện rối loạn tiêu hóa kiểu
bệnh lý đại trực tràng, cũng như vai trò của việc
tư vấn và khuyến cáo đối với thân nhân của
người bệnh đã được xác định chẩn đoán
UTĐTT.
Số liệu từ bảng 2 về đặc điểm của các trường
hợp có tiền căn gia đình UTĐTT cũng cho thấy
một số điểm khiếm khuyết của hệ thống chăm
sóc sức khỏe và tư vấn hiện tại ở Việt Nam.
Đồng thuận của vùng Châu Á – Thái Bình
Dương năm 2008 đạt độ thống nhất cao về quan
điểm cho rằng thân nhân quan hệ huyết thống
trực hệ với người bệnh UTĐTT là đối tượng
nguy cơ cao và cần được tầm soát sớm hơn
những người khác, tuy nhiên chưa đưa ra được
mức tuổi cần thiết để tầm soát ở các đối tượng
này(15). Theo khuyến cáo của Trường Môn Tiêu
Hóa Mỹ năm 2008, người có tiền căn thân nhân
liên hệ huyết thống cấp I bị UTĐTT ở tuổi < 60
tuổi cần được tiến hành tầm soát sớm hơn tuổi
thân nhân trẻ nhất lúc bị UTĐTT ít nhất 10 năm
trở đi hoặc từ năm 40 tuổi trở lên(11). Riêng đối
với hội chứng Lynch (UTĐTT di truyền không
liên quan với tình trạng đa polyp _ Hereditary
non-polyposis colorectal cancer) được đề xuất
bắt đầu tầm soát từ độ tuổi 20 - 25. Các bệnh
nhân có tiền căn UTĐTT gia đình ở độ tuổi < 50
trong nghiên cứu của chúng tôi gồm có:
4/24 trường hợp có tiền căn gia đình UTĐTT
nhưng không nhớ tuổi chính xác của người thân
lúc bị UTĐTT.
8/24 trường hợp lớn tuổi hơn so với tuổi
người thân trẻ nhất lúc bị UTĐTT > 10: nhóm
này đúng ra nên được tư vấn và khuyến cáo tầm
soát sớm hơn, và có khả năng có thể phát hiện
được tổn thương ở giai đoạn sớm.
6/24 trường hợp có tiền căn UTĐTT gia đình
ở người thân < 50 tuổi: UTĐTT gặp ở độ tuổi <
50 là một trong những đặc điểm được khuyến
cáo tầm soát hội chứng Lynch theo hướng dẫn
Bethesda hiệu chỉnh(16). Hiện tại ở Việt Nam vẫn
chưa tiến hành được các xét nghiệm để chẩn
đoán hội chứng Lynch; ngay cả những tiêu
chuẩn lâm sàng chẩn đoán hội chứng Lynch
như tiêu chuẩn Amsterdam II cũng khó ứng
dụng do hiện tại chưa có hệ thống đăng ký giải
phẫu bệnh toàn quốc và sự kém hiểu biết của
người bệnh. Một trong những lý giải cho các
trường hợp UTĐTT xuất hiện sớm này là các
bệnh nhân thuộc hội chứng Lynch chưa được
chẩn đoán. Điều này cho thấy vấn đề phòng
ngừa, tầm soát để phát hiện sớm trước mắt căn
bản vẫn là dựa trên tiền căn người thân bị
UTĐTT. Nghiên cứu này cho cũng cho thấy nhu
cầu bức thiết cần phát triển các kỹ thuật di
truyền và giải phẫu bệnh nhằm xác định vai trò
đóng góp của các hội chứng UTĐTT gia đình
cũng như các nghiên cứu về các yếu tố nguy cơ
sinh ung có liên quan UTĐTT ở Việt Nam.
Tính riêng các trường hợp không có tiền căn
UTĐTT gia đình, khuyến cáo của vùng Châu Á
– Thái Bình Dương và Trường môn Tiêu hóa Mỹ
đều đề xuất bắt đầu tầm soát từ tuổi 50(11,15).
Riêng đối với người Mỹ gốc Phi, một trong
những điểm mới trong khuyến cáo năm 2008
của Trường môn Tiêu hóa Mỹ so với phiên bản
trước đó năm 2000 là hạ ngưỡng tuổi tầm soát
xuống 45(11). Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy
tỉ lệ bệnh nhân UTĐTT < 50 tuổi chiếm đến
24,9%. Điều này cho thấy ngưỡng tuổi 50 để tầm
soát UTĐTT của vùng Châu Á – Thái Bình
Dương có thể không phù hợp ở đối tượng
người Việt vì bỏ sót khá nhiều trường hợp. Các
nghiên cứu gần đây tại Ấn Độ cũng ghi nhận
kết quả tương tự như chúng tôi(4,8). Như vậy,
ngưỡng tuổi nên tiến hành tầm soát ở những
người không có tiền căn UTĐTT gia đình có thể
cần phải hạ thấp hơn ở một số dân số Châu Á
nhất định, trong đó có Việt Nam.
Dạng tổn thương đại thể chúng tôi thường
gặp nhất là dạng sùi và sùi loét, và hiếm khi gặp
dạng polyp, dạng loét hay dạng thâm nhiễm. Về
vị trí tổn thương ung thư trên khung đại tràng,
nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận 73,2%
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Ngoại Tổng Quát 71
trường hợp UTĐTT khởi phát sớm tập trung ở
đại tràng chậu hông và trực tràng, tương tự như
kết quả nhiều nghiên cứu UTĐTT khởi phát
sớm trên các cộng đồng khác(2,4,18). Kết quả này
cho thấy nội soi trực tràng - đại tràng chậu hông
tuy hiệu quả nhưng vẫn có thể bỏ sót khoảng
26,8% tổn thương UTĐTT và khẳng định vai trò
ưu thế của nội soi đại tràng ở nhóm bệnh nhân
trẻ. Do 90% trường hợp UTĐTT xảy ra ở tuổi ≥
40 tuổi và có một tỉ lệ đáng kể bệnh nhân mô tả
triệu chứng diễn tiến kiểu ngắt quãng, không
kèm triệu chứng báo động, về mặt lâm sàng
chúng tôi cho rằng đây là mốc tuổi thích hợp để
quyết định thăm dò bằng nội soi đại tràng nếu
triệu chứng vẫn tiếp tục diễn tiến kéo dài.
Về mức độ biệt hóa của tổn thương ung
thư, phần lớn nghiên cứu nước ngoài cho
thấy tổn thương carcinôm biệt hóa kém / dạng
nhầy hoặc dạng tế bào nhẫn ở nhóm UTĐTT
khởi phát sớm chiếm tỉ lệ cao hơn rõ rệt(1,2,4,6,8).
Lý do có sự khác biệt này có lẽ do chẩn đoán
giải phẫu bệnh trong nghiên cứu của chúng
tôi được thực hiện dựa trên mẫu mô sinh thiết
lấy qua nội soi đại tràng chứ không phải qua
phẫu thuật nên không phản ánh trung thực
độ biệt hóa thực sự của tổn thương ung thư
hoặc do sự khác biệt về các yếu tố sinh ung và
chũng tộc giữa các nghiên cứu. Cần có thêm
các nghiên cứu để so sánh độ sai biệt khi đánh
giá kết quả mô bệnh học về mức độ biệt hóa
của tổn thương UTĐTT giữa hai dạng bệnh
phẩm lấy qua nội soi và qua phẫu thuật.
KẾT LUẬN
Tỉ lệ UTĐTT ở người < 50 tuổi chiếm 28%.
73,2% tổn thương ung thư tập trung ở trực tràng
và đại tràng chậu hông. Không có sự khác biệt
về phân bố theo vị trí và độ biệt hóa của tổn
thương UTĐTT giữa 2 nhóm bệnh nhân ≤ 50 và
> 50 tuổi. Chẩn đoán UTĐTT ở người trẻ cần
phải có sự cảnh giác cao vì 42,9% trường hợp
bệnh nhân mô tả triệu chứng ngắt quãng từng
đợt có thể gây trì hoãn việc đi khám bệnh và
22,3% trường hợp chỉ biểu hiện bằng đau bụng
và rối loạn thói quen đi cầu nhưng không kèm
các triệu chứng báo động. Tiền căn UTĐTT gia
đình là yếu tố nguy cơ cao hơn rõ rệt, cần phải
được khai thác khi tiếp cận