Đặc điểm mòn răng theo kiểu cọ mòn được tiến hành nghiên cứu dọc trên sinh viên răng hàm mặt trong 4 năm, ghi nhận dữ liệu ở các thời điểm T1 (năm thứ nhất), T2 (năm thứ ba) và T3 (năm thứ năm). Báo cáo này trình bày kết quả quan sát được ở thời điểm T3. Mục tiêu: So sánh mức độ mòn răng trung bình của bộ răng, nhóm răng và từng răng theo chỉ số Woda giữa 3 thời điểm và xác định mối liên quan của sự tăng mòn các răng nanh và răng cối nhỏ hàm trên với các yếu tố ưa thích thức ăn cứng hay mềm, thói quen nhai một bên hay hai bên và nghiến/siết chặt răng. Đối tượng và phương pháp: 49 sinh viên tham gia cả 3 đợt. Các đối tượng trả lời bảng câu hỏi và được lấy dấu, đổ mẫu hai hàm. Mỗi răng trên mẫu hàm (trừ răng khôn) được đánh giá mức độ cọ mòn theo chỉ số Woda (1987). Kết quả và kết luận: Sau mỗi 2 năm, chỉ số mòn răng trung bình của mỗi răng, các nhóm răng và cả bộ răng đều tăng có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Sau 4 năm, chưa thấy có liên quan giữa sự tăng mòn các răng nanh và răng cối nhỏ hàm trên với các yếu tố ưa thích thức ăn cứng hay mềm, thói quen nhai một bên hay hai bên và nghiến/siết chặt răng, trừ R 14 ở đối tượng có thói quen nhai bên phải có nguy cơ tăng mòn cao hơn ở đối tượng nhai 2 bên hay nhai bên trái (OR=3,9, p<0,05).
6 trang |
Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 351 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm mòn răng trên sinh viên răng hàm mặt và một số yếu tố liên quan: Nghiên cứu dọc trong 4 năm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 170
ĐẶC ĐIỂM MÒN RĂNG TRÊN SINH VIÊN RĂNG HÀM MẶT
VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN: NGHIÊN CỨU DỌC TRONG 4 NĂM
Nguyễn Phúc Diên Thảo*, Đặng Vũ Ngọc Mai*
TÓM TẮT
Đặc điểm mòn răng theo kiểu cọ mòn được tiến hành nghiên cứu dọc trên sinh viên răng hàm mặt trong 4
năm, ghi nhận dữ liệu ở các thời điểm T1 (năm thứ nhất), T2 (năm thứ ba) và T3 (năm thứ năm). Báo cáo này
trình bày kết quả quan sát được ở thời điểm T3.
Mục tiêu: So sánh mức độ mòn răng trung bình của bộ răng, nhóm răng và từng răng theo chỉ số Woda
giữa 3 thời điểm và xác định mối liên quan của sự tăng mòn các răng nanh và răng cối nhỏ hàm trên với các yếu
tố ưa thích thức ăn cứng hay mềm, thói quen nhai một bên hay hai bên và nghiến/siết chặt răng.
Đối tượng và phương pháp: 49 sinh viên tham gia cả 3 đợt. Các đối tượng trả lời bảng câu hỏi và được lấy
dấu, đổ mẫu hai hàm. Mỗi răng trên mẫu hàm (trừ răng khôn) được đánh giá mức độ cọ mòn theo chỉ số Woda
(1987).
Kết quả và kết luận: Sau mỗi 2 năm, chỉ số mòn răng trung bình của mỗi răng, các nhóm răng và cả bộ
răng đều tăng có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Sau 4 năm, chưa thấy có liên quan giữa sự tăng mòn các răng nanh
và răng cối nhỏ hàm trên với các yếu tố ưa thích thức ăn cứng hay mềm, thói quen nhai một bên hay hai bên và
nghiến/siết chặt răng, trừ R 14 ở đối tượng có thói quen nhai bên phải có nguy cơ tăng mòn cao hơn ở đối tượng
nhai 2 bên hay nhai bên trái (OR=3,9, p<0,05).
Từ khóa: mòn răng, cọ mòn, nghiến răng.
ABSTRACT
TOOTH ATTRITION AND SOME OF ASSOCIATED FACTORS IN DENTAL STUDENTS:
A 4-YEAR LONGITUDINAL STUDY
Nguyen Phuc Dien Thao, Dang Vu Ngoc Mai
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - Supplement of No 2 - 2015: 170 - 175
The 4-year longitudinal study of tooth attrition on dental students was presented. The data were
obtained at T1 (first year students), T2 (third year students) and T3 (fifth year students). This article
reported the results at T3.
Aims: (1) to compare tooth attrition of every tooth, segment and whole dentition by Woda’s scale between T1,
T2 and T3, (2) to examine the relationship between the attrition increase of upper canines and premolars and some
factors such as soft or hard food chewing, unilateral mastication, and bruxism.
Methods: 49 students joined in the study. They answered the questionnaires and were got the maxillary and
mandibular casts. The level of attrition was recorded in every tooth on their casts (except wisdom teeth) using
Woda’s scale (1987).
Results and conclusions: After every two years, means of attrition level of every tooth, segment and
whole dentition increased significantly (p<0.05). After four years, the relationship between the attrition
increase of upper canines and premolars and those factors were not found, except the right upper first
premolars which had a higher risk of attrition increase on the right chewing group than the left and bilateral
chewing group (OR = 3.9, p<0.05).
Key words: Tooth wear, attrition, bruxism.
* Bộ môn Nha khoa cơ sở- Khoa RHM, Đại học Y Dược TP. HCM
Tác giả liên lạc: ThS Đặng Vũ Ngọc Mai ĐT: 0918325781 Email: dvngocmai@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 171
ĐẶT VẤN ĐỀ
Cọ mòn (attrition) là hiện tượng mòn do
các bề mặt răng cọ sát với nhau, đặc trưng bởi
những diện mòn nhẵn, bóng, có giới hạn rõ và
ăn khớp được với diện mòn ở răng đối diện.
Cọ mòn xuất hiện trên mặt nhai hay cạnh cắn
của răng do các hoạt động chức năng (nhai,
nuốt) hay hoạt động cận chức năng (nghiến,
siết chặt răng).
Cọ mòn cũng như các dạng khác của mòn
răng (ăn mòn/erosion, mài mòn/abrasion, mòn
cổ răng do lực uốn/abfraction) gần đây đã trở
thành một vấn đề có tính chất toàn cầu
(Bardsley, 2008)(2). Nhiều nghiên cứu gần đây
trên thế giới đã báo động về tình trạng mòn răng
xuất hiện ngày càng phổ biến hơn, sớm hơn và
tiến triển nhanh hơn ở người trẻ tuổi.
Ở Việt Nam, lần đầu tiên nghiên cứu về mòn
răng đã được Phạm Lệ Quyên thực hiện năm
2007 trên 150 sinh viên răng hàm mặt tuổi từ 18-
25, sử dụng chỉ số mòn răng TWI để khảo sát
tình trạng mòn răng và một số yếu tố liên quan
theo thiết kế nghiên cứu cắt ngang mô tả(5).
Trong nghiên cứu này, chúng tôi tiến hành
nghiên cứu dọc 4 năm đặc điểm mòn răng theo
kiểu cọ mòn trên sinh viên răng hàm mặt từ khi
học năm thứ nhất đến năm thứ năm với mục
tiêu: (1) đánh giá mức độ mòn răng trung bình
của từng răng, nhóm răng và cả bộ răng theo chỉ
số Woda (1987) ở 3 thời điểm nghiên cứu, (2) xác
định mối liên quan giữa sự tăng mòn các răng
nanh và răng cối nhỏ hàm trên với các yếu tố ưa
thích thức ăn cứng hay mềm, thói quen nhai một
bên hay hai bên và nghiến/siết chặt răng.
ĐỐI TƯỢNG –PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng
86 sinh viên răng hàm mặt năm thứ nhất
tham gia vào nghiên cứu, đến năm thứ năm còn
lại 49 sinh viên. Các đối tượng không tham gia
đủ 3 lần thu thập dữ liệu do mang phục hình
hay khí cụ chỉnh hình, hoặc do không muốn
tham gia nữa.
Phương pháp thu thập dữ liệu
Việc thu thập dữ liệu được thực hiện khi
sinh viên học năm thứ nhất (thời điểm T1), năm
thứ ba (thời điểm T2) và năm thứ năm (thời
điểm T3).
Các đối tượng trả lời bảng câu hỏi để ghi
nhận các yếu tố: ưa thích thức ăn cứng hay mềm,
thói quen nhai một bên hay hai bên, có
nghiến/siết chặt răng không
Các đối tượng được lấy dấu hai hàm bằng
alginate (AROMA) và đổ mẫu bằng thạch cao
cứng (GC). Diện mòn trên rìa cắn và mặt nhai
được đánh giá theo chỉ số Woda (1987)(6) (Hình
1). Quan sát dưới kính phóng đại 3,5 lần vị trí các
diện mòn và vẽ lại trên mẫu hàm.
Mức độ mòn ở răng trước:
-Độ 1. Một hay vài diện mòn chỉ ở mặt
trong/ngoài của răng.
-Độ 2. Một hay vài diện mòn chỉ ở trên rìa
cắn.
-Độ 3. Một hay vài diện mòn ở trên rìa cắn và
cũng có ở mặt trong/ngoài của răng nhưng
chiếm ít hơn 1/3 chiều cao thân răng.
-Độ 4. Một hay vài diện mòn ở trên rìa cắn và
cũng có ở mặt trong/ngoài của răng nhưng
chiếm nhiều hơn 1/3 chiều cao thân răng.
Mức độ mòn ở răng sau:
-Độ 1. Diện mòn chiếm ít hơn 1/3 sườn múi
theo chiều ngoài trong.
-Độ 2. Diện mòn chiếm nhiều hơn 1/3 sườn
múi theo chiều ngoài trong.
-Độ 3. Diện mòn chiếm toàn bộ sườn múi.
-Độ 4. Diện mòn có trên cả ba sườn múi
nhưng các diện này chưa nối với nhau theo
chiều ngoài trong.
-Độ 5. Diện mòn chiếm cả ba sườn múi và
các diện này nối với nhau theo chiều ngoài
trong.
Dữ liệu được phân tích bằng phần mềm
SPSS phiên bản 11.5.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 172
Hình 1. Chỉ số Woda đánh giá mức độ mòn cho răng
trước và răng sau (Kim,2001)(3).
KẾT QUẢ
Mức độ mòn của từng răng, các nhóm răng
và cả bộ răng theo chỉ số Woda
Chỉ số mòn trung bình của từng răng ở các
thời điểm T1, T2 và T3 được trình bày trong các
biểu đồ 1,2,3 và 4.
Biểu đồ 1. Chỉ số mòn trung bình của các răng trước
hàm trên ở 3 thời điểm
Biểu đồ 2. Chỉ số mòn trung bình của các răng trước
hàm dưới ở 3 thời điểm
Biểu đồ 3. Chỉ số mòn trung bình của các răng sau
hàm trên ở 3 thời điểm
Biểu đồ 4. Chỉ số mòn trung bình của các răng sau
hàm dưới ở 3 thời điểm
Bảng 1. Chỉ số mòn răng của các nhóm răng và cả bộ
răng
Nhóm răng T1 T2 T3
Răng trước trên
Răng sau trên
Răng trước dưới
Răng sau dưới
Bộ răng
1,60 ± 1,31
1,43 ± 1,30
1,22 ± 0,99
1,04 ± 1,00
1,48 ± 1,18
1,86 ± 1,21
1,65 ± 1,32
1,30 ± 0,96
1,14 ± 1,08
1,61 ± 1,15
2,13 ± 1,05
1,80 ± 1,27
1,37 ± 0,94
1,23 ± 1,06
1,31 ± 1,17
Chỉ số mòn răng trung bình của các nhóm
răng và cả bộ răng sau mỗi 2 năm đều tăng có ý
nghĩa thống kê (p<0,01, kiểm định t bắt cặp)
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 173
Liên quan giữa sự tăng mòn các răng nanh và răng cối nhỏ hàm trên với các yếu tố ưa thích
thức ăn cứng hay mềm, thói quen nhai một bên hay hai bên và nghiến/siết chặt răng.
Bảng 2. Nguy cơ tăng mòn các răng nanh và răng cối nhỏ hàm trên ở đối tượng nghiến/siết chặt răng
n Nghiến/siết răng Không nghiến/siết răng OR (KTC 95%) p
R13 tăng mòn
R13 không tăng mòn
49 7
11
6
25
2,652
(0,722-9,736)
0,184
R14 tăng mòn
R14 không tăng mòn
49 4
14
9
22
0,698
(0,180-2,708)
0,743
R15 tăng mòn
R15 không tăng mòn
48 4
13
11
20
0,559
(0,146-2,138)
0,521
R23 tăng mòn
R23 không tăng mòn
48 2
16
2
28
1,750
(0,224-13,648)
0,624
R24 tăng mòn
R24 không tăng mòn
49 2
16
4
27
0,844
(0,139-5,138)
1,000
R25 tăng mòn
R25 không tăng mòn
46 3
14
3
26
1,857
(0,330-10,446)
0,655
Yếu tố nghiến/siết chặt răng không có liên
quan với sự tăng mòn các răng nanh và răng cối
nhỏ hàm trên sau 4 năm (p>0,05, kiểm định
chính xác Fisher)
Bảng 3. Nguy cơ tăng mòn các răng nanh và răng cối nhỏ hàm trên ở đối tượng thích thức ăn cứng
n Thích thức ăn cứng Thích thức ăn mềm OR (KTC 95%) p
R13 tăng mòn
R13 không tăng mòn
49 8
19
5
17
1,432
(0,392-5,226)
0,586*
R14 tăng mòn
R14 không tăng mòn
49 10
17
3
19
3,725
(0,877-15,829)
0,065*
R15 tăng mòn
R15 không tăng mòn
48 7
19
8
14
0,645
(0,189-2,199)
0,482*
R23 tăng mòn
R23 không tăng mòn
48 2
24
2
20
0,833
(0,108-6,459)
1,000**
R24 tăng mòn
R24 không tăng mòn
49 2
25
4
18
0,360
(0,059-2,183)
0,388**
R25 tăng mòn
R25 không tăng mòn
46 2
22
4
18
0,409
(0,067-2,495)
0,405**
Yếu tố thích thức ăn cứng không có liên
quan với sự tăng mòn các răng nanh và răng cối
nhỏ hàm trên sau 4 năm (p>0,05, *kiểm định χ2,
**kiểm định chính xác Fisher)
Bảng 4. Nguy cơ tăng mòn răng nanh và răng cối nhỏ hàm trên bên phải ở đối tượng có thói quen nhai bên phải
n Nhai bên phải Nhai 2 bên hoặc bên trái OR (KTC 95%) p
R13 tăng mòn
R13 không tăng mòn
49 3
5
10
31
1,860
(0,376-9,204)
0,422
R14 tăng mòn
R14 không tăng mòn
49 5
3
8
33
6,875
(1,352-34,965)
0,023
R15 tăng mòn
R15 không tăng mòn
48 3
4
12
29
1,812
(0,351-9,355)
0,662
Đối tượng có thói quen nhai bên phải có
nguy cơ tăng mòn R14 sau 4 năm gấp 6,8 lần so
với đối tượng có thói quen nhai hai bên hoặc bên
trái (p<0,05, kiểm định chính xác Fisher).
Các yếu tố nghiến/siết chặt răng, thích thức
ăn cứng và giới tính không phải là yếu tố gây
nhiễu đối với nguy cơ tăng mòn R14 ở đối tượng
nhai bên phải.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 174
Yếu tố nhai bên trái không có liên quan với
sự tăng mòn răng nanh và răng cối nhỏ hàm trên
sau 4 năm (p>0,05, kiểm định chính xác Fisher).
Bảng 5. Mô hình hồi quy logistic về các yếu tố liên quan đến sự tăng mòn R14 sau 4 năm (hiệu chỉnh theo giới
tính và các tham số trong bảng)
Tham số OR thô (KTC 95%) OR hiệu chỉnh (KTC 95%) p
Nghiến/Siết chặt R
Thức ăn cứng
Nhai bên phải
0,698 (0,180-2,708)
3,725 (0,877-15,829)
6,875 (1,352-34,965)
2,455 (0,730-16,459)
0,589 (0,113-2,597)
3,906 (1,014-30,139)
0,118
6,443
0,048
Bảng 6. Nguy cơ tăng mòn răng nanh và răng cối nhỏ hàm trên bên trái ở đối tượng có thói quen nhai bên trái
n Nhai bên trái Nhai 2 bên hoặc bên phải OR (KTC 95%) p
R23 tăng mòn
R23 không tăng mòn
48 1
5
3
39
2,600
(0,225-30,045)
0,425
R24 tăng mòn
R24 không tăng mòn
49 1
5
5
38
1,520
(0,146-15,791)
0,564
R25 tăng mòn
R25 không tăng mòn
46 0
6
6
34
- 0,579
BÀN LUẬN
Mòn răng là một vấn đề thường gặp, do đó
trong nghiên cứu, nhiều tác giả đã đưa ra các chỉ
số khác nhau để đánh giá mức độ mòn răng. Tuy
nhiên chưa có chỉ số nào được thống nhất sử
dụng rộng rãi, gây khó khăn cho việc so sánh kêt
quả của các nghiên cứu khác nhau(4). Ngoài ra,
các chỉ số có thể đánh giá mòn răng nói chung
hay nhắm đến từng loại mòn răng như cọ mòn,
mài mòn, ăn mòn hay mòn do lực uốn. Nghiên
cứu này sử dụng chỉ số Woda là chỉ số đánh giá
mòn răng theo kiểu cọ mòn, cho thấy tất cả các
răng, các nhóm răng và cả bộ răng đều có mức
độ mòn răng tăng lên có ý nghĩa sau mỗi 2 năm.
Có nhiều yếu tố nguy cơ liên quan đến mòn
răng. Một nghiên cứu cắt ngang thực hiện trên
400 người cho thấy mức độ mất chất trên bề mặt
răng có liên quan với tuổi, số răng còn lại, nghiến
răng, nhai một bên, độ cứng của thức ăn, kỹ
thuật và số lần chải răng(1). Nghiên cứu này khảo
sát sự liên quan giữa các yếu tố nghiến răng,
thức ăn cứng hay mềm và nhai một bên với sự
tăng mòn của các răng nanh và răng cối nhỏ hàm
trên. Chúng tôi chọn các răng này vì chúng
thường là các răng hướng dẫn trong các vận động
nhai hay nghiến của hàm dưới. Kết quả chưa thấy
có sự liên quan giữa các yếu tố này với sự tăng
mòn sau 4 năm (trừ R14), có thể do cỡ mẫu chưa
đủ lớn và thời gian theo dõi chưa đủ dài.
KẾT LUẬN
1- Sau mỗi 2 năm, chỉ số mòn răng trung
bình của mỗi răng, các nhóm răng và cả bộ răng
đều tăng có ý nghĩa thống kê (p<0,05).
2- Sau 4 năm, chưa thấy có liên quan giữa sự
tăng mòn các răng nanh và răng cối nhỏ hàm
trên với các yếu tố ưa thích thức ăn cứng hay
mềm, thói quen nhai một bên hay hai bên và
nghiến/siết chặt răng, trừ R14 ở đối tượng có thói
quen nhai bên phải có nguy cơ tăng mòn cao
hơn 3,9 lần so với đối tượng nhai 2 bên hay nhai
bên trái.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Al-Zarea BK (2012): Tooth surface loss and associated risk
factors in Northern Saudi Arabia, International Scholarly
Research Network Dentistry, Vol 2012, article ID 161565: 1-5
2. Bardsley P.F. (2008): The evolution of tooth wear indices, Clin
Oral Investig.; 12(1): 15-19.
3. Kim S.K., Kim K.N., Chang I.T., Heo S.J. (2001): A study of the
effects of chewing patterns on occlusal wear, Journal of Oral
Rehabilitation, 28; 1048-1055.
4. Lopez-Frias FJ, Castellanos-Cosano L, Martin-Gonzalez J,
Llamas-Carreras JM, Segura-Egea JJ (2012): Clinical
measurement of tooth wear: tooth wear indices, J Clin Exp Dent,
4(1): e48-53
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 175
5. Phạm Lệ Quyên, Hoàng Tử Hùng, Nguyễn Thị Thanh Vân,
Nguyễn Phúc Diên Thảo (2007): Mòn răng và các yếu tố liên
quan nghiên cứu trên 150 sinh viên, Tạp chí Y học TP. Hồ Chí
Minh, tập 11, Phụ bản số 2: 219-227.
6. Woda A., Vigneron P., Kay D. (1979): Nonfunctional and
functional occlusal contacts: a review of the literature, The
Journal of Prosthetic Dentistry; 42(3): 335-41.
Ngày nhận bài báo: 01/02/2015
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 28/02/2015
Người phản biện: TS Huỳnh Kim Khang
Ngày bài báo được đăng: 10/04/2015