Đặc điểm mòn răng trên sinh viên RHM và một số yếu tố liên quan

Đặc điểm mòn răng theo kiểu cọ mòn được tiến hành nghiên cứu dọc trên sinh viên răng hàm mặt từ năm thứ nhất đến năm thứ sáu. Báo cáo này trình bày kết quả quan sát được trong năm đầu tiên với mục tiêu (1) đánh giá mức độ mòn răng trung bình trên từng răng, nhóm răng và bộ răng theo chỉ số Woda (1987) và (2) xác định sự khác biệt về mức độ mòn răng theo giới tính, chế độ ăn, thói quen nhai một bên và nghiến/siết chặt răng. Đối tượng và phương pháp: Các đối tượng (86 sinh viên RHM, tuổi từ 19-20) trả lời bảng câu hỏi và được lấy dấu, đổ mẫu hai hàm. Mỗi răng trên mẫu hàm được đánh giá mức độ cọ mòn theo chỉ số Woda (1987). Kết quả: độ mòn răng trung bình của bộ răng là 1,42 ± 1,24. Đối với răng sau, nhóm răng cối lớn dưới có độ mòn nhiều nhất (2,61±2,56). Đối với răng trước, nhóm răng cửa trên có độ mòn nhiều nhất (1,84±1,57). Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nam và nữ (t test, p=0,034). Không có sự khác biệt giữa chế độ ăn thức ăn cứng hay mềm (p=0,6). Độ mòn trên răng phía bên trái lớn hơn so với răng bên phải có ý nghĩa thống kê trên người có thói quen nhai bên trái (p<0,001). Có sự khác biệt có ý nghĩa giữa người không nghiến răng với người nghiến thường xuyên (p=0,002) cũng như giữa người thỉnh thoảng nghiến răng với người nghiến thường xuyên (p=0,005). Kết luận: cọ mòn là một yếu tố có liên quan đến thói quen nhai một bên và nghiến răng ở người trẻ tuổi.

pdf7 trang | Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 13/06/2022 | Lượt xem: 295 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm mòn răng trên sinh viên RHM và một số yếu tố liên quan, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 75 ĐẶC ĐIỂM MÒN RĂNG TRÊN SINH VIÊN RHM VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN Nguyễn Phúc Diên Thảo*, Đặng Vũ Ngọc Mai* TÓM TẮT Đặc điểm mòn răng theo kiểu cọ mòn được tiến hành nghiên cứu dọc trên sinh viên răng hàm mặt từ năm thứ nhất đến năm thứ sáu. Báo cáo này trình bày kết quả quan sát được trong năm đầu tiên với mục tiêu (1) đánh giá mức độ mòn răng trung bình trên từng răng, nhóm răng và bộ răng theo chỉ số Woda (1987) và (2) xác định sự khác biệt về mức độ mòn răng theo giới tính, chế độ ăn, thói quen nhai một bên và nghiến/siết chặt răng. Đối tượng và phương pháp: Các đối tượng (86 sinh viên RHM, tuổi từ 19-20) trả lời bảng câu hỏi và được lấy dấu, đổ mẫu hai hàm. Mỗi răng trên mẫu hàm được đánh giá mức độ cọ mòn theo chỉ số Woda (1987). Kết quả: độ mòn răng trung bình của bộ răng là 1,42 ± 1,24. Đối với răng sau, nhóm răng cối lớn dưới có độ mòn nhiều nhất (2,61±2,56). Đối với răng trước, nhóm răng cửa trên có độ mòn nhiều nhất (1,84±1,57). Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nam và nữ (t test, p=0,034). Không có sự khác biệt giữa chế độ ăn thức ăn cứng hay mềm (p=0,6). Độ mòn trên răng phía bên trái lớn hơn so với răng bên phải có ý nghĩa thống kê trên người có thói quen nhai bên trái (p<0,001). Có sự khác biệt có ý nghĩa giữa người không nghiến răng với người nghiến thường xuyên (p=0,002) cũng như giữa người thỉnh thoảng nghiến răng với người nghiến thường xuyên (p=0,005). Kết luận: cọ mòn là một yếu tố có liên quan đến thói quen nhai một bên và nghiến răng ở người trẻ tuổi. Từ khóa: mòn răng, cọ mòn, nghiến răng. ABSTRACT TOOTH ATTRITION AND SOME OF ASSOCIATED FACTORS IN DENTAL STUDENTS Nguyen Phuc Dien Thao, Dang Vu Ngoc Mai * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 2 - 2011: 75 – 81 Objectives: The occlusal tooth wear values, according to Woda’s scale, as well as some associated factors (gender, soft and hard food regimen, unilateral mastication, and bruxism) in first year dental students were evaluated. This is the first report of the six-year longitudinal research on attrition in dental students. Materials and methods: 86 subjects (mostly aged 19) answered the questionnaires, their maxillary and mandibular casts were analysed with a magnifying glass. Woda’s scale (1987) was used to quantify the oclusal wear facets. Means and standard deviations were calculated for each tooth and segment. Results: The average wear value was 1.42±1.24. The highest wear value among posterior teeth was observed on lower molars (2.61±2.56) and on upper incisors for anterior teeth (1.84±1.57). Wear values were of males were significantly greater in male than in female (t test, p<0.05). No significant difference was found between subjects with soft and hard food regime (p>0.05). Left teeth had significantly greater value of occlusal wear than their controlateral ones in left-chewing subjects (p<0.001). Significant difference was found between subjects with and without bruxism (p=0.002) as well as between subjects with different frequency of bruxism (p=0.005). Conclusions: Attrition was related to unilateral mastication and bruxism in young adults. Key words: Tooth wear, attrition, bruxism. *: Bộ môn Nha khoa cơ sở, Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh. Tác giả liên lạc: ThS. Nguyễn Phúc Diên Thảo, ĐT: 095 883 0493, Email: dienthao8misa@gmail.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 76 ĐẶT VẤN ĐỀ Cọ mòn (Attrition) là hiện tượng mòn do các bề mặt răng cọ sát với nhau, đặc trưng bởi những diện mòn nhẵn, bóng, có giới hạn rõ và ăn khớp được với diện mòn ở răng đối diện. Cọ mòn xuất hiện trên bề mặt nhai hay cạnh cắn của răng do các hoạt động chức năng (nhai, nuốt) hay hoạt động cận chức năng (nghiến, siết chặt răng). Cọ mòn cũng như các dạng khác của mòn răng (ăn mòn/erosion, mài mòn/abrasion, mòn cổ răng do lực uốn/abfraction) gần đây đã trở thành một vấn đề có tính chất toàn cầu (Bardsley, 2007)(1). Nhiều nghiên cứu gần đây trên thế giới đã báo động về tình trạng mòn răng xuất hiện ngày càng phổ biến hơn, sớm hơn và tiến triển nhanh hơn ở người trẻ tuổi (Bartlett 1998, O’Sullivan 1998, Wiegand 2006,)(2,3). Ở Việt Nam, lần đầu tiên nghiên cứu về mòn răng đã được Phạm Lệ Quyên(7) thực hiện năm 2007. Nghiên cứu này cũng được thực hiện trên người trẻ tuổi (150 sinh viên răng hàm mặt tuổi từ 18-25) và sử dụng chỉ số mòn răng TWI (Smith và Knight 1984) để khảo sát tình trạng mòn răng và một số yếu tố liên quan (theo phương pháp cắt ngang mô tả). Trong nghiên cứu này, chúng tôi tiến hành nghiên cứu dọc (6 năm) đặc điểm mòn răng theo kiểu cọ mòn trên sinh viên răng hàm mặt từ năm thứ nhất đến năm thứ sáu (tuổi từ 19 cho đến 24) để theo dõi quá trình và tiến triển của mòn răng cũng như một số yếu tố liên quan. Bài này trình bày kết quả quan sát được trong năm đầu tiên với mục tiêu (1) đánh giá mức độ mòn răng trung bình trên từng răng, nhóm răng và bộ răng theo chỉ số Woda (1987)(9) và (2) xác định sự khác biệt về mức độ mòn răng theo giới tính, chế độ ăn, thói quen nhai một bên và nghiến/siết chặt răng. Tình trạng mòn răng có thể được đánh giá trực tiếp trong miệng, trên sọ khô hay gián tiếp qua mẫu hàm thạch cao. Việc lựa chọn chỉ số đánh giá mòn răng tùy theo mục đích khảo sát(1): - Chỉ số TWI (Tooth Wear Index, Smith và Kight 1984): thường được sử dụng trong nghiên cứu cộng đồng. - Chỉ số Brothwell (1965), Molnar (1971): dùng trong khảo cổ học. - Chỉ số Eccles (1979): đánh giá lâm sàng. - Chỉ số Woda (1987): khảo sát lý thuyết và đánh giá lâm sàng. - Chỉ số Johannson (1993): đánh giá lâm sàng. Trong nghiên cứu của Phạm Lệ Quyên (Việt nam, 2007)(7) trên người trẻ tuổi, mòn răng được đánh giá trực tiếp trên lâm sàng ở tất cả các mặt răng và vùng cổ răng theo chỉ số TWI. Chỉ số này không phân biệt cơ chế gây mòn, không phân biệt các kiểu mòn như cọ mòn, mài mòn hay ăn mòn. Ưu điểm của chỉ số TWI là cho phép đánh giá mức độ mòn răng về khía cạnh bệnh học để có can thiệp xử lý thích hợp đối với từng mức độ (không mòn, mòn men, mòn đến ngà, mòn ngà nhiều và mòn tới tủy). Trong khi đó, muốn khảo sát các diện mòn mặt nhai (kiểu cọ mòn) liên quan trực tiếp đến sự tiếp xúc răng, chỉ số Woda là thích hợp vì cho phép ghi nhận chi tiết về mức độ và mô hình mòn trên mặt nhai hay rìa cắn của các răng sau và các răng trước (Gourdon, Woda, Buyle-Bodin 1983)(9). Sau đây là một số nghiên cứu liên quan đến yếu tố cọ mòn. Năm 2001, Kim và cộng sự(2) nghiên cứu hiệu quả của kiểu nhai đối với mòn răng, sử dụng chỉ số TWI và chỉ số Woda. Nghiên cứu được thực hiện trên hai nhóm: kiểu nhai theo chiều đứng và theo kiểu nghiền ngang. Kết quả cho thấy: khi sử dụng chỉ số TWI, giá trị mòn răng (ở tất cả các răng và trên từng nhóm răng) không có sự khác biệt giữa hai nhóm; trong khi đó, với chỉ số Woda, có sự khác biệt lớn giữa hai nhóm. Như vậy, chỉ số Woda thích hợp cho việc đánh giá, xác định giá trị mòn răng trên mặt nhai đối với kiểu cọ mòn trên răng. Năm 2006, Restrepo(8) sử dụng phương pháp chụp hình kỹ thuật số nghiên cứu mòn Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 77 răng trên mặt nhai để chẩn đoán nghiến răng ở trẻ em từ 8 đến 11 tuổi. Nghiên cứu thực hiện với mục tiêu là đánh giá, so sánh đặc điểm mòn răng trên trẻ có bộ răng hỗn hợp có nghiến răng và không nghiến răng để xác định mòn răng có thể được sử dụng như là tiêu chuẩn chẩn đóan nghiến răng hay không. Với kết quả có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai nhóm, tác giả kết luận: mòn răng có thể được sử dụng như là tiêu chuẩn để chẩn đóan nghiến răng ở trẻ có bộ răng hỗn hợp. Năm 2006, Kononen(3) tiến hành nghiên cứu dọc các diện mòn ở mặt trong các răng trước hàm trên trong các giai đoạn tuổi từ 14 đến 18 và từ 18 đến 23. Kết quả xác định tổng diện tích của các diện mòn của 35 đối tượng ở các nhóm tuổi 14 (29,5mm2), tuổi 18 (39,1mm2) và tuổi 23 (45,0mm2). Tổng diện tích các diện mòn tăng có ý nghĩa ở cả hai giai đoạn từ 14 đến 18 tuổi và từ 18 đến 23 tuổi (p<0,0001). Các tác giả kết luận mòn trên các răng trước vĩnh viễn là một hiện tượng liên tục ở tuổi vị thành niên và người trẻ. Năm 1991, Morel và Woda(4) tiến hành một nghiên cứu về vận động hàm dưới mà những vận động này được suy luận từ những vết cắt trên diện mòn mặt nhai. 11 diện mòn trên răng cối lớn thứ nhất hàm dưới được phân tích trên 4 đối tượng có bộ răng tự nhiên tốt sau 1,2,3 và 6 tháng. Các tác giả thấy rằng: (1) vận động hàm được thực hiện ở bất kỳ chiều hướng nào có thể được, (2) sự phân bố các vết cắt không là ngẫu nhiên; những chiều hướng thuận lợi hơn tồn tại, và những hướng hiện diện trên những diện mòn bên làm việc thì khác với bên không làm việc. Trong vận động sang bên của hàm dưới, các tiếp xúc hướng dẫn vận động trượt thường diễn ra trên múi hướng dẫn hàm trên (múi ngoài răng sau hàm trên) và/hoặc trên răng nanh của bên làm việc. Cũng trong vận động sang bên đó, tiếp xúc hướng dẫn còn có thể diễn ra trên các múi hướng dẫn răng dưới (múi trong răng sau hàm dưới) và/hoặc trên các răng bên không làm việc ở bộ răng tự nhiên. Đặc điểm tiếp xúc này được một số tác giả nghiên cứu và mô tả (Woda 1979(9), 1991(4); Kim 2001(2)). Ở Việt Nam, Nguyễn Thị Bích Chiêu (2003)(5) nghiên cứu đặc điểm tiếp xúc răng trên người Việt, trong đó, xác định tỉ lệ hướng dẫn răng nanh và hướng dẫn nhóm (tiếp xúc răng bên làm việc) trong vận động sang bên chứ không thấy đề cập đến các tiếp xúc bên không làm việc hay trên múi trong răng dưới. ĐỐI TƯỢNG –PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng 86 sinh viên răng hàm mặt tuổi 19,20 (40 nam và 46 nữ) còn ít nhất 12 răng trên mỗi hàm, không đang mang khí cụ chỉnh hình, không bị đau cấp tính vùng hàm mặt. Phương pháp thu thập dữ liệu Đối tượng trả lời bảng câu hỏi và được lấy dấu hai hàm bằng alginate (AROMA) và đổ mẫu thạch cao cứng (GC). Diện mòn trên rìa cắn và mặt nhai được phân tích như sau: quan sát (dưới kính phóng đại 3,5 lần) vị trí các diện mòn và vẽ lại các diện mòn đó trên mẫu hàm. Các diện mòn này có thể ăn khớp với nhau. Trên các răng sau, vị trí các diện mòn phân bố trên ba sườn múi chức năng bên làm việc và bên không làm việc theo sơ đồ hình 1. Sử dụng thang đo Woda đánh giá mức độ mòn cho răng trước và răng sau (Hình 2). Răng trước có 4 mức độ: Độ 1. Một hay vài diện mòn chỉ ở mặt trong/ngoài của răng. Độ 2. Một hay vài diện mòn chỉ ở trên rìa cắn. Độ 3. Một hay vài diện mòn ở trên rìa cắn và cũng có ở mặt trong/ngoài của răng nhưng chiếm ít hơn 1/3 chiều cao thân răng. Độ 4. Một hay vài diện mòn ở trên rìa cắn và cũng có ở mặt trong/ngoài của răng nhưng chiếm nhiều hơn 1/3 chiều cao thân răng. Răng sau có 5 mức độ: Độ 1. Diện mòn chiếm ít hơn 1/3 sườn múi theo chiều ngoài trong. Độ 2. Diện mòn chiếm nhiều hơn 1/3 sườn múi theo chiều ngoài trong. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 78 Độ 3. Diện mòn chiếm toàn bộ sườn múi. Độ 4. Diện mòn có trên cả ba sườn múi nhưng các diện này chưa nối với nhau theo chiều ngoài trong. Độ 5. Diện mòn chiếm cả ba sườn múi và các diện này nối với nhau theo chiều ngoài trong. + Theo sơ đồ hình 1, tỉ lệ phần trăm xuất hiện tiếp xúc răng diễn ra bên không làm việc (diện mòn 2) và trên múi trong răng dưới (diện mòn 3’) trong vận động trượt sang bên của hàm dưới cũng được xác định. Xử lý kết quả Số liệu được xử lý bằng phần mềm SPSS phiên bản 11.5. Sử dụng t test xác định sự khác biệt với p<0,05. Hình 1. Sơ đồ thể hiện vị trí các diện mòn phân bố trên ba sườn múi chức năng bên làm việc (1,1’,3,3’) và bên không làm việc (2,2’) (Kim, 2001)(2). Hình 2. Thang đo Woda đánh giá mức độ mòn cho răng trước và răng sau (Kim, 2001)(2). KẾT QUẢ Tình trạng mòn răng - Chỉ số mòn trung bình của bộ răng (chung cho nam và nữ): 1,42 ± 1,24. - Chỉ số mòn trung bình (CSMTB) của từng răng (Biểu đồ 1 và 2). - Chỉ số mòn trung bình của từng nhóm răng (Biểu đồ 3). Một số yếu tố liên quan - Giới tính: Chỉ số mòn trung bình của nam lớn hơn nữ có ý nghĩa (Bảng 1). - Chế độ ăn thức ăn cứng hay mềm: Không có sự khác biệt giữa hai chế độ ăn (Bảng 2). - Thói quen nhai: Khi nhai một bên phải hay trái, các răng bên đó có xu hướng mòn nhiều hơn bên đối diện. Trong nghiên cứu này, khi nhai bên trái, răng bên trái mòn nhiều hơn bên phải với sự khác biệt rất có ý nghĩa (Bảng 3). Nghiến/Siết chặt răng: Độ mòn răng trung bình tăng dần lên theo mức độ thường xuyên nghiến răng. Người nghiến răng thường xuyên có độ mòn khác biệt có ý nghĩa với người không nghiến hoặc thỉnh thoảng nghiến (Bảng 4). Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 79 do mon 0 0.5 1 1.5 2 2.5 R11 R12 R13 R21 R22 R23 R31 R32 R33 R41 R42 R43 do mon Biểu đồ 1. Chỉ số mòn trung bình của các răng trước. do mon 0 0.5 1 1.5 2 2.5 3 R14 R15 R16 R17 R24 R25 R26 R27 R34 R35 R36 R37 R44 R45 R46 R47 do mon Biểu đồ 2. Chỉ số mòn trung bình của các răng sau. do mon 0 0.5 1 1.5 2 2.5 R cua tren Rcua duoi Rnanh tren Rnanh duoi Rcoi nho tren Rcoi nho duoi Rcoi lon tren Rcoi lon duoi do mon Biểu đồ 3. Chỉ số mòn trung bình của từng nhóm răng. Bảng 1. So sánh chỉ số mòn trung bình của bộ răng giữa nam và nữ. Nam Nữ CSMTB của bộ răng 1,47 ± 1,36 1,36 ± 1,23 T test p< 0,05 Bảng 2. So sánh giữa hai chế độ ăn thức ăn cứng hay mềm. Thức ăn cứng Thức ăn mềm CSMTB của bộ răng 1,44 ± 1,26 1,42 ± 1,23 T test p> 0,05 Bảng 3. Sự khác biệt chỉ số mòn trung bình của bộ răng giữa bên phải và trái theo thói quen nhai một bên. Răng bên phải Răng bên trái CSMTB/Nhai bên phải 1,46 ± 1,20 1,34 ± 1,10 T test p> 0,05 (p = 0,149) CSMTB/Nhai bên trái 1,21 ± 1,27 1,61 ± 1,38 T test p< 0,05 CSMTB/Nhai hai bên 1,39 ± 1,25 1,42 ± 1,21 T test p> 0,05 Bảng 4. Sự khác biệt giữa người nghiến răng thường xuyên với người không nghiến hoặc thỉnh thoảng nghiến. Không nghiến Thỉnh thoảng nghiến Nghiến thường xuyên CSMTB/bộ răng 1,37 ± 1,24 1,41 ± 1,19 1,73 ± 1,43 T test p > 0,05 p < 0,05 (p = 0,005) p < 0,05 (p = 0,002) + Trong nghiên cứu này, chúng tôi bước đầu xác định tỉ lệ phần trăm xuất hiện tiếp xúc răng diễn ra bên không làm việc (diện mòn 2) và trên múi trong răng dưới (diện mòn 3’) trong vận động trượt sang bên của hàm dưới (trên 38 đối tượng có khớp cắn Angle hạng I, còn đủ bốn răng cối lớn thứ nhất và răng không bị sâu lớn). Kết quả cho thấy: - Số đối tượng có tiếp xúc răng diễn ra bên không làm việc (diện mòn 2) trên răng cối lớn là 18 người, chiếm 47,37%. - Số đối tượng có tiếp xúc răng diễn ra trên múi trong răng dưới (diện mòn 3’) là 16 người, chiếm 42,11%. BÀN LUẬN Mẫu nghiên cứu Mẫu trẻ (19, 20 tuổi) nhưng cũng đủ thời gian để xuất hiện các diện cọ mòn có thể quan sát thấy rõ. Đặc biệt, nghiên cứu dọc 6 năm có thể giúp định lượng được mức độ mòn, quá trình mòn sinh lý theo thời gian và có thể xác định được một số yếu tố liên quan, yếu tố gây mòn trên người trẻ để có những can thiệp kịp thời. Giống nghiên cứu của Kononen và cộng sự (2006)(3) trên cả đối tượng vị thành niên: nghiên cứu dọc hai giai đoạn tuổi (từ 14 đến 18 và từ 18 đến 23) trên 35 đối tượng để khảo sát mối liên quan giữa mức độ mòn và hoạt động cận chức năng và lực cắn tối đa. Các tác giả đi đến kết luận: mòn trên các răng trước vĩnh viễn là một hiện tượng liên tục ở tuổi vị thành niên (13 đến 17tuổi) cũng như trên người trẻ. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 80 Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu sẽ được tiến hành dọc theo dõi suốt 6 năm diễn tiến của sự cọ mòn trên răng và một số yếu tố liên quan. Tuy nhiên, đây là mô tả quan sát trong năm đầu tiên nên các kết quả này giống như kết quả của một thiết kế nghiên cứu cắt ngang. Tình trạng mòn răng Chỉ số mòn trung bình của bộ răng là 1,42±1,24, trong đó, chỉ số mòn trung bình của răng trước là 1,45±1,23 và răng sau là 1,39±1,25. So với kết quả của Kim (2001)(2), cũng sử dụng thang đo Woda đánh giá trên mẫu hàm thạch cao trên hai nhóm đối tượng có kiểu nhai khác nhau (nhai theo chiều đứng và theo kiểu nghiền ngang)(tuổi từ 23 đến 25), kết quả của chúng tôi đều có giá trị thấp hơn có thể do lứa tuổi thấp hơn (phần lớn là 19 tuổi). Sự so sánh sẽ được thực hiện vào cuối giai đoạn nghiên cứu dọc (khi các đối tượng được 24 tuổi). Tuy nhiên, số liệu vẫn được nêu trong bảng 5 để tham khảo. Bảng 5. Chỉ số mòn trung bình (CSMTB) theo thang đo Woda (1987). CSMTB Nghiên cứu này Nghiên cứu của Kim và cộng sự (2001)(2) Kiểu nhai đứng Kiểu nghiền ngang Bộ răng 1,42 ± 1,24 2,88 ± 0,38 3,18 ± 0,28 Răng sau hàm dưới 1,21 ± 1,11 2,16 ± 0,51 2,98 ± 0,40 Răng sau hàm trên 1,57 ± 1,34 3,23 ± 0,67 3,63 ± 0,27 Răng sau 1,39 ± 1,25 3,20 ± 0,55 3,80 ± 0,30 Răng trước hàm trên 1,69 ± 1,39 3,04 ± 0,58 3,02 ± 0,67 Răng trước hàm dưới 1,20 ± 0,99 2,09 ± 0,14 2,08 ± 0,12 Răng trước 1,45 ± 1,23 2,57 ± 0,32 2,56 ± 0,36 Răng cối lớn có mức độ mòn nhiều nhất (2,42 ± 2,01 ở R cối lớn trên; 2,61 ± 2,56 ở R cối lớn dưới). Không có sự khác biệt giữa hai nhóm răng cối lớn trên và dưới (t test, p > 0,05). Nhóm răng có độ mòn thứ nhì là răng cửa trên (1,84 ± 1,57). Răng cửa trên có mức độ mòn lớn hơn răng cửa dưới rất có ý nghĩa (p < 0,001). Răng cửa trên và răng nanh trên cũng có sự khác biệt có ý nghĩa (p = 0,002). Răng cửa dưới và răng nanh dưới có độ mòn tương đương nhau (răng cửa dưới: 1,34 ± 1,54; răng nanh dưới: 1,34 ± 1,13). Răng cối nhỏ dưới có độ mòn thấp nhất (0,73 ± 0,89). Tỉ lệ phần trăm xuất hiện các diện mòn bên không làm việc (diện mòn 2) Trong nghiên cứu này, chúng tôi có xác định tỉ lệ tiếp xúc răng diễn ra bên không làm việc trên răng cối lớn là 47,37%. Trong khi đó, Kim và và cộng sự (2001)(2) cho thấy tần số xuất hiện các diện mòn bên không làm việc cao hơn nhiều: 79%. Sự khác biệt này có thể là do sự khác biệt về tuổi của các đối tượng (như đã đề cập ở trên). Đối với đặc điểm tiếp xúc này, tác giả kết luận: sự hiện diện các diện mòn bên không làm việc là bằng chứng của các tiếp xúc bên không làm việc trong khi nhai, vì vậy, nếu có việc loại bỏ tất cả tiếp xúc bên không làm việc có nghĩa là loại bỏ phần lớn hiệu quả hoạt động nhai chức năng. Trong một tổng quan về các tiếp xúc nhai chức năng và không chức năng, Woda (1979)(9) cũng nhấn mạnh: trong khi nhai một bên, việc nhai thức ăn được thực hiện bởi các tiếp xúc bên làm việc cũng như bên không làm việc. Yếu tố liên quan Giới tính Mức độ mòn răng trên mặt nhai và cạnh cắn theo thang đo Woda có sự khác biệt có ý nghĩa giữa nam và nữ, phù hợp với nghiên cứu của Dalh và Oilo (1996). Các tác giả cho rằng nam bị mòn nhiều hơn nữ cùng độ tuổi một phần do lực của cơ nhai ở nam thường mạnh hơn nữ. Trong khi đó, theo nghiên cứu của Phạm Lệ Quyên (2007)(7), mức độ mòn răng trên mặt nhai và cạnh cắn theo chỉ số TWI không cho thấy có sự khác biệt giữa nam và nữ. Nghiến/Siết chặt răng Kết quả ở bảng 4 cho thấy mức độ thường xuyên nghiến răng liên quan rất nhiều đến sự cọ mòn trên răng (thể hiện qua chỉ số Woda). Nghiên cứu của Phạm Lệ Quyên trên người trẻ (2007)(7)sử dụng chỉ số TWI cũng khẳng định Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 81 thói quen nghiến r
Tài liệu liên quan