Mục tiêu: Nghiên cứu đặc điểm phân bố theo tuổi, giới và các đặc điểm nội soi – mô bệnh học của ung thư
đại trực tràng (UTĐTT).
Đối tượng và phương pháp: Mô tả hàng loạt ca trên các trường hợp UTĐTT được chẩn đoán tại Bệnh viện
Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh trong thời gian từ 01/2009 đến 01/2013.
Kết quả: Có 1.033 bệnh nhân trong nghiên cứu với tuổi trung bình là 58,6 ± 13,7 (nhỏ nhất 16, lớn nhất 94)
và tỉ lệ nam:nữ là 1:1. Tỉ lệ bệnh ở độ tuổi < 50 là 24,1%. Tỉ lệ bệnh ở tuổi < 40 là 11,7%. Không có sự khác biệt về
tuổi mắc bệnh giữa nam và nữ (58,1 ± 13,6 so với 59,2 ± 13,9; p = 0,2). 71,9% tổn thương ở vùng trực tràng và
đại tràng chậu hông. 95% trường hợp UTĐTT được phát hiện khi đã có tổn thương tiến triển không thể điều trị
lành bằng phương pháp nội soi can thiệp. Tổn thương sùi hoặc sùi loét là dạng đại thể thường gặp nhất chiếm tỉ lệ
90%, trong khi dạng thâm nhiễm vốn dễ bị bỏ sót chiếm tỉ lệ 4,5%. Không có sự khác biệt giữa vị trí phân bố và
dạng đại thể trên nội soi giữa các nhóm tuổi; tuy nhiên ung thư biệt hoá kém thường gặp hơn ở nhóm bệnh nhân
< 50 tuổi so với nhóm ≥ 50 tuổi (14,9% so với 8,9%, p = 0,007).
Kết luận: Đa số UTĐTT được chẩn đoán ở giai đoạn tiến triển xa không thể chữa lành qua nội soi với một tỉ
lệ đáng kể được phát hiện ở độ tuổi < 50. Do đó, xây dựng một chương trình tầm soát bệnh ở độ lứa tuổi sớm hơn
là cần thiết.
5 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 13/06/2022 | Lượt xem: 363 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm nội soi và mô bệnh học của ung thư đại trực tràng: Nghiên cứu loạt ca trên 1.033 trường hợp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Nội Khoa 114
ĐẶC ĐIỂM NỘI SOI VÀ MÔ BỆNH HỌC CỦA UNG THƯ ĐẠI TRỰC TRÀNG:
NGHIÊN CỨU LOẠT CA TRÊN 1.033 TRƯỜNG HỢP
Quách Trọng Đức*, Nguyễn Trường Kỳ*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Nghiên cứu đặc điểm phân bố theo tuổi, giới và các đặc điểm nội soi – mô bệnh học của ung thư
đại trực tràng (UTĐTT).
Đối tượng và phương pháp: Mô tả hàng loạt ca trên các trường hợp UTĐTT được chẩn đoán tại Bệnh viện
Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh trong thời gian từ 01/2009 đến 01/2013.
Kết quả: Có 1.033 bệnh nhân trong nghiên cứu với tuổi trung bình là 58,6 ± 13,7 (nhỏ nhất 16, lớn nhất 94)
và tỉ lệ nam:nữ là 1:1. Tỉ lệ bệnh ở độ tuổi < 50 là 24,1%. Tỉ lệ bệnh ở tuổi < 40 là 11,7%. Không có sự khác biệt về
tuổi mắc bệnh giữa nam và nữ (58,1 ± 13,6 so với 59,2 ± 13,9; p = 0,2). 71,9% tổn thương ở vùng trực tràng và
đại tràng chậu hông. 95% trường hợp UTĐTT được phát hiện khi đã có tổn thương tiến triển không thể điều trị
lành bằng phương pháp nội soi can thiệp. Tổn thương sùi hoặc sùi loét là dạng đại thể thường gặp nhất chiếm tỉ lệ
90%, trong khi dạng thâm nhiễm vốn dễ bị bỏ sót chiếm tỉ lệ 4,5%. Không có sự khác biệt giữa vị trí phân bố và
dạng đại thể trên nội soi giữa các nhóm tuổi; tuy nhiên ung thư biệt hoá kém thường gặp hơn ở nhóm bệnh nhân
< 50 tuổi so với nhóm ≥ 50 tuổi (14,9% so với 8,9%, p = 0,007).
Kết luận: Đa số UTĐTT được chẩn đoán ở giai đoạn tiến triển xa không thể chữa lành qua nội soi với một tỉ
lệ đáng kể được phát hiện ở độ tuổi < 50. Do đó, xây dựng một chương trình tầm soát bệnh ở độ lứa tuổi sớm hơn
là cần thiết.
Từ khóa: Ung thư đại trực tràng.
ABSTRACT
ENDOSCOPIC AND PATHOLOGIC CHARATERISTICS OF COLORECTAL CANCER:
A CASE SERIES ON 1,033 PATIENTS
Quach Trong Duc, Nguyen Truong Ky
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - Supplement of No 1 - 2015: 114 - 118
Aims: To assess the disease distribution according to age, sex; and to describe the endoscopic and pathologic
characteristics of colorectal cancers.
Patients and Methods: This is a case series on patients with colorectal cancer diagnosed at the University
Medical Center at Hochiminh City from January 2009 to Januray 2013.
Results: There were 1033 patients in this study with the mean age of 58.6 ± 13.7 and the male-to-female
ration of 1:1. 24.1% of patients were under 50 and 11.7% were under 40 years of age. There was no significant
difference between the mean age of both sexes (58.1 ± 13.6 in male vs 59.2 ± 13.9 in female; p = 0.2). 71.9% of
lesions located at the rectal – sigmoid colon. 95% of lesions had already been so advanced that they could not be
cured with endoscopic treatment. The most common endoscopic growth forms were annular tumour with stenosis
or circular ulcerated tumour (90%). The infiltrative form, which was very easy to be missed, was found in 4.5%.
There were no difference in locations and endoscopic growth forms of cancers between the early-onset (< 50 years
of age) and the late-onset (≥ 50 years of age) subgroups. However, poor-differentiated tumour was more common
in early-onset subgroup compared with the late-onset subgroup (14.9% so với 8.9%, p = 0.007).
* Bộ môn Nội, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: TS. Quách Trọng Đức ĐT: 0918080225 Email: drquachtd@ump.edu.vn
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 115
Conclusion: Most of colorectal cancers have been diagnosed in advanced stage which endoscopic treatment
was incurable. In addition, a significant proportion of patients were under 50 years of age. Therefore, a screening
program which starts at a younger age is required.
Key words: Colorectal cancer.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư đại trực tràng (UTĐTT) là một trong
những ung thư thường gặp ở Việt Nam với tần
suất đứng hàng thứ 4 ở nam và hàng thứ 6 ở nữ
giới. Do hiện tại chưa có chương trình tầm soát
quốc gia nên đa số trường hợp được phát hiện ở
giai đoạn trễ dẫn đến phải can thiệp điều trị
bằng các phẫu thuật lớn và tiên lượng sống kém.
Gần đây các nghiên cứu cho thấy tuổi khởi phát
của bệnh có khuynh hướng trẻ hóa và tần suất
bệnh cũng có xu hướng tăng dần(3,12). Tuy nhiên,
hiện vẫn còn tương đối ít các nghiên cứu cập
nhật ở trong nước với số lượng bệnh nhân lớn để
tìm hiểu về đặc điểm phân bố của bệnh tại Việt
Nam. Mục tiêu của nghiên cứu này là dựa trên
một cỡ mẫu tương đối lớn để khảo sát đặc điểm
phân bố của UTĐTT theo tuổi, giới, vị trí ung
thư trên khung đại tràng và các đặc điểm nội soi
– mô bệnh học, từ đó cung cấp cơ sở cần thiết để
xây dựng các chương trình tầm soát thích hợp.
ĐỐI TƯỢNG -PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng
Bệnh nhân nội trú và ngoại trú tại BV Đại
Học Y Dược TP. HCM được khám và điều trị tại
bệnh viện Đại học Y Dược TP. HCM trong thời
gian 4 năm từ 01/2009 đến 01/2013 và thỏa các
tiêu chuẩn sau:
Tuổi ≥ 18
Được nội soi đại tràng hoặc trực tràng tại
Khoa Nội soi của Bệnh viện Đại học Y Dược TP.
HCM có hình ảnh nghi ngờ ung thư đại trực
tràng trên nội soi.
Có kết quả sinh thiết qua nội soi đại tràng
hoặc trực tràng xác định tổn thương phát hiện
trên nội soi là ung thư.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu hàng loạt ca.
Phương pháp tiến hành:
Tiến hành hồi cứu hồ sơ lưu trữ trên hệ
thống dữ liệu tất cả các trường hợp được nội soi
đại tràng – trực tràng trong thời gian kể trên.
Chọn lọc lại các bệnh nhân có hinh ảnh nội soi là
ung thư/polyp đại trực tràng đã được sinh thiết
hoặc cắt trọn và có kết quả mô bệnh học xác
nhận là ung thư đại trực tràng.
Quản lý và phân tích số liệu
Sử dụng phần mềm SPSS 20.0 để quản lý số
liệu và phân tích thống kê. Sử dụng thống kê mô
tả để tính trung bình và tỉ lệ; phép kiểm 2 để
khảo sát mối liên quan giữa hai biến định tính.
KẾT QUẢ
Biểu đồ 1: Phân bố tỉ lệ bệnh theo nhóm tuổi
Có 1,033 trường hợp được xác nhận chẩn
đoán là ung thư đại trực tràng tại Khoa Nội
soi Bệnh viện Đại học Y Dược trong thời gian
kể trên. Tuổi trung bình của bệnh nhân trong
nghiên cứu làà. Tỉ lệ nam:nữ là 1:1. Không có
sự khác biệt về tuổi trung bình mắc bệnh ở hai
giới: tuổi ở nam là 58,1 ± 13,6 so với ở nữ là
59,2 ± 13,9 (p = 0,2). Tỉ lệ bệnh khởi phát sớm
trước 50 tuổi là 24,1% (249/1033). Phân bố cụ
thể tỉ lệ mắc bệnh theo nhóm tuổi được trình
bày ở bảng 1 và biểu đồ 1.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Nội Khoa 116
Bảng 1: Phân bố tỉ lệ bệnh theo nhóm tuổi
Nhóm tuổi n % % tích lũy
< 20 4 0,4 0,4
20 – 29 20 1,9 2,3
30 – 39 69 6,7 9
40 – 49 156 15,1 24,1
50 – 59 298 28,8 53
60 – 69 236 22,8 75,8
≥ 70 250 24,2 100
Tổng 1033 100
Về đặc điểm nội soi và mô bệnh học của tổn
thương ung thư phát hiện qua nội soi, vị trí và
dạng đại thể của tổn thương được trình bày ở
bảng 2 và 3.
Bảng 2: Vị trí của ung thư đại trực tràng
Vị trí n %
Trực tràng 482 46,7
ĐT chậu hông 260 25,2
ĐTxuống 73 7,1
ĐTngang 94 9,1
ĐT lên 94 9,1
Manh tràng 30 2,9
Tổng 1033 100
Bảng 3: Dạng đại thể của ung thư đại trực tràng
Dạng đại thể n %
Sùi 800 77,4
Sùi loét 130 12,6
Loét 5 0,5
Thâm nhiễm 46 4,5
Dạng polyp 52 5,0
Tổng 1033 100
Mối liên quan giữa tuổi mắc bệnh với các đặc
điểm nội soi và mô bệnh học của ung thư được
trình bày ở các bảng 4 – 6.
Bảng 4: Liên quan giữa tuổi khởi bệnh và vị trí của
ung thư
Vị trí n %
Trực tràng 482 46,7
ĐT chậu hông 260 25,2
ĐTxuống 73 7,1
ĐTngang 94 9,1
ĐT lên 94 9,1
Manh tràng 30 2,9
Tổng 1033 100,0
Nhận xét: Không có sự khác biệt về vị trí khối
u ở hai nhóm bệnh nhân có khởi phát sớm hoặc
khởi phát muộn (p = 0,22)
Bảng 5:. Liên quan giữa tuổi khởi bệnh và dạng đại
thể khối u trên nội soi
Dạng đại thể
Nhóm tuổi
Tổng
< 50 ≥ 50
Sùi 193 607 800
Sùi loét 35 95 130
Loét 1 4 5
Thâm nhiễm 13 33 46
Dạng polyp 7 45 52
Tổng 249 784 1033
Nhận xét: Không có sự khác biệt về tuổi phát
hiện bệnh và dạng đại thể của khối u (p = 0,37)
Bảng 6: Liên quan giữa tuổi khởi bệnh và độ biệt hóa
của khối u
Độ biệt hóa
Nhóm tuổi
Tổng
< 50 ≥ 50
Tốt – vừa 212 714 37
Kém 37 70 107
Tổng 249 784 1033
Nhận xét: Nhóm bệnh nhân khởi phát sớm có
tỉ lệ ung thư đại trực tràng biệt hóa kém cao hơn
nhóm bệnh nhân khởi phát muộn (P = 0,007).
BÀN LUẬN
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tuổi
trung bình mắc UTĐTT là 58,6 ± 13,7 với phân bố
giới tính tương đối đồng đều. Chúng tôi không
ghi nhận có sự khác biệt về tuổi mắc bệnh theo
giới tính (bảng 5). Theo các khuyến cáo về tầm
soát UTĐTT của thế giới, tuổi bắt đầu nên được
tiến hành tầm soát là từ 50 trở lên nếu không có
tiền sử UTĐTT trong gia đình(10,13). Còn đối với
các gia đình có người thân bị UTĐTT thì người
thân cần phải tầm soát sớm hơn 10 năm so với
tuổi của người thân lúc được phát hiện
UTĐTT(10). Trong nghiên cứu trên cỡ mẫu khá
lớn này, chúng tôi ghi nhận có đến 24,1% trường
hợp mắc bệnh ở tuổi < 50, đặc biệt trường hợp
nhỏ tuổi nhất trong nghiên cứu là 16 tuổi. Điểm
yếu trong nghiên cứu này là do được tiến hành
hồi cứu nên đặc điểm tiền sử vê UTĐTT trong
gia đình không được ghi nhận chắc chắn. Tuy
nhiên một nghiên cứu trước đây của chúng tôi
cho thấy trong các trường hợp UTĐTT khởi phát
sớm (< 50 tuổi) thì tiền sử gia đình cũng chỉ được
ghi nhận trong khoảng ¼ trường hợp(9). Như
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 117
vậy, ¾ sô trường hợp UTĐTT khởi phát sớm còn
lại không tìm thấy mối liên quan trong gia đình
có thể là (i) dạng UTĐTT xuất hiện rải rác hoặc
(ii) dạng UTĐTT có liên quan đến hội chứng
Lynch với những người thân tuy có thể không bị
UTĐTT nhưng có thể bị ung thư tại một số cơ
quan khác có liên quan hội chứng Lynch (như
ung thư gan, ung thư tụy, ung thư phần phụ,
ruột non.). Hiện trong nước vẫn chưa có công
trình nghiên cứu nào cho biết tỉ lệ và đặc điểm
của hội chứng Lynch tại Việt Nam. Tuy nhiên y
văn thế giới cho thấy nhóm này cũng chỉ chiếm
tỉ lệ nhỏ vào khoảng dưới 10% tổng số trường
hợp bị UTĐTT(11). Do vậy, chúng tôi cho rằng
tuổi khởi phát UTĐTT ở những người không có
tiền sử UTĐTT ở nước ta nhiều khả năng cũng
thấp hơn so với y văn thế giới và việc tầm soát
bệnh ở lứa tuổi trẻ hơn 50 có thể là cần thiết.
Nghiên cứu này đặt ra câu hỏi nghiên cứu rằng
chúng ta nên khuyến cáo tầm soát UTĐTT ở Việt
Nam bắt đầu từ lứa tuổi bao nhiêu. Đây là câu
hỏi quan trọng vì nếu chọn lứa tuổi quá sớm thì
tăng gánh nặng cho ngành y tế, khó khả thi và
chi phí khá đáng kể cho chương trình tầm soát.
Ngược lại nếu chọn lứa tuổi cao thì lại có nguy
cơ bỏ sót nhiều trường hợp không thể phát hiện
được bệnh ở giai đoạn sớm. Số liệu nghiên cứu ở
phương Tây cho thấy tỉ lệ bệnh UTĐTT tăng vọt
tính từ độ tuổi 50 trở lên với khoảng 90% trường
hợp UTĐTT ở độ tuổi ≥ 50(4). Nghiên cứu này cho
thấy nếu lấy mốc tuổi tầm soát tương tự thì có
đến 24,1% trường hợp bị bỏ sót. Nếu lấy mốc
tương tự như nghiên cứu nước ngoài để giúp
phát hiện khoảng 90% trường hợp UTĐTT thì độ
tuổi ≥ 40 có lẽ là mốc phù hợp để tiến hành tầm
soát vì 91% trường hợp UTĐTT trong nghiên
cứu xảy ra ở độ tuổi này. Điều này cần được
kiểm chứng thêm bằng các nghiên cứu dịch tễ
xác định tỉ suất bệnh mới ở từng nhóm tuổi.
Về đặc điểm nội soi, chúng tôi ghi nhận tổn
thương thường gặp nhất là trực tràng (46,7%), kế
đến là đại tràng chậu hông (25,2%), đưa tổng số
trường hợp UTĐTT có thể phát hiện bằng nội soi
trực tràng – đại tràng chậu hông lên 71,8%. Như
vậy kết quả nghiên cứu này cho thấy vị trí tổn
thương của UTĐTT ở nước ta cũng không có sự
thay đổi đáng kể so với các nghiên cứu trong
nước trước đây. Về mặt đại thể, đến 95% trường
hợp UTĐTT đã ở giai đoạn tiến triển xa không
còn khả năng điều trị tiệt để bằng các phương
pháp nội soi can thiệp (bảng 3). Có 90% tổn
thương ở dạng sùi hoặc sùi loét do đó việc nhận
diện trên nội soi không mấy khó khăn. Tuy
nhiên có 5% trường hợp tổn thương ung thư ở
dạng thâm nhiễm, rất dễ bỏ sót khi nội soi đại
tràng (đặc biệt là khi chuẩn bị đại tràng chưa
sạch và tổn thương chưa tiến triển xa đến mức
độ gây bít hẹp lòng đại tràng và thao tác rút máy
quá nhanh). Một số ít trường hợp tổn thương
dạng thâm nhiễm này đã bị bỏ sót ở lần nội soi
đại tràng đầu tiên, nhưng nhở có triệu chứng
lâm sàng nghi ngờ, kết hợp thêm hình ảnh dày
thành đại tràng trên CT bụng khá rõ ràng nên
được thực hiện nội soi đại tràng lần 2 và phát
hiện được tổn thương. Có khoảng 5% trường
hợp ở dạng polyp. Đây thường là các trường hợp
ung thư còn ở giai đoạn sớm do polyp hóa ác
tính. Một số trường hợp có thể cắt bỏ tổn thương
hoàn toàn bằng phương pháp cắt polyp đơn giản
hoặc cắt niêm mạc qua nội soi. Một số trường
hợp khác cần phẫu thuật bổ sung do kết quả mô
bệnh học cho thấy tế bào u đã xâm lấn sâu xuống
mặt cắt và bờ an toàn nên có khả năng tái phát
cao. Điểm đáng lưu ý là nhiều trường hợp kết
quả sinh thiết qua nội soi có thể cho kết quả
không chính xác (thường nhất là chỉ ghi nhận
cấu trúc u tuyến với các hình ảnh nghịch sản,
không thể xác nhận ung thư) do mẫu mô sinh
thiết được lấy ở phần polyp chưa xảy ra tình
trạng ung thư hóa. Với tình hình trang thiết bị
nội soi hiện tại ở trong nước, sinh thiết ở phần
lõm xuống hoặc loét bề mặt của polyp, hoặc đôi
khi phải cắt trọn polyp là cần thiết để xác định
chẩn đoán. Một số phương tiện kỹ thuật nội soi
cao cấp hơn như nội soi nhuộm màu, nội soi
phòng đại với dãi băng hẹp cho phép xác định
tương đối chính xác tình trạng ung thư dựa trên
sự thay đổi cấu trúc hốc tuyến và hình dạng của
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Nội Khoa 118
mạng lưới mao mạch trên niêm mạc đại trực
tràng(6). So sánh giữa nhóm ung thư khởi phát
sớm (< 50 tuổi) và nhóm khởi phát trễ (≥ 50 tuổi),
chúng tôi không ghi nhận có sự khác biệt giữa vị
trí phân bố và dạng tổn thương đại thể trên nội
soi giữa hai nhóm.
Về đặc điểm mô bệnh học, nghiên cứu của
chúng tôi cho thấy độ biệt hóa của khối u thường
gặp nhất là mức độ trung bình chiếm tỉ lệ 86,3%.
Có 10,1% tổn thương có độ biệt hóa kém. Điểm
đáng lưu ý là dạng mô bệnh học biệt hóa kém
chiếm tỉ lệ cao hơn ở nhóm bệnh nhân khới phát
sớm cao so với nhóm bệnh nhân khởi phát trễ
(14,9% so với 8,9%, p = 0,007). Nghiên cứu trước
đây của chúng tôi tại cùng một trung tâm chưa
ghi nhận được sự khác biệt này có thể do có cỡ
mẫu nhỏ(9). Một số y văn thế giới cũng đã đề cập
đến đặc điểm tương tự ở các trường hợp ung thư
khởi phát sớm(1,2,5,7,8). Do đó chúng tôi nghĩ rằng
nhóm khởi phát sớm nhiều khả năng dự hậu xấu
hơn. Cần thực hiện nghiên cứu để làm sáng tỏ
hơn sự khác biệt về dự hậu của bệnh nhân
UTĐTT ở hai nhóm tuổi này.
KẾT LUẬN
Đa số UTĐTT được chẩn đoán ở giai đoạn
tiến triển xa không thể chữa lành qua nội soi. Có
một tỉ lệ đáng kể bệnh nhân được phát hiện ở độ
tuổi < 50. Do đó, xây dựng một chương trình tầm
soát bệnh ở độ lứa tuổi sớm hơn là cần thiết
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Al-Jaberi TM, Yaghan RJ, El-Heis HA (2003). Colorectal cancer
in young patients under 40 years of age. Comparison with old
patients in a well defined Jordanian population. Saudi Med J
24(8): 871-4.
2. Fazeli MS, Adel MG, Lebaschi AH (2007). Colorectal
carcinoma: a retrospective, descriptive study of age, gender,
subsite, stage, and differentiation in Iran from 1995 to 2001 as
observed in Tehran University. Dis Colon Rectum 50(7): 990-5.
3. Foroutan M (2008). Clinical features of colorectal cancer in
Iran: a 15-year review. Journal of Digestive Diseases 9(4): 225-
7.
4. Fuchs CS, Giovannucci EL, Colditz GA et al (1994). A
prospective study of family history and the risk of colorectal
cancer. N Engl J Med 331(25):1669-74.
5. Gupta S et al (2010). Colorectal Carcinoma in Young Adults: a
Retrospective Study on Indian Patients: 2000-2008. Colorectal
Dis 12: e182-9.
6. Hewett DG, Kaltenbach T, Sano Y et al (2012). Validation of a
simple classification system for endoscopic diagnosis of small
colorectal polyps using narrow-band imaging. Gastroenterol
143(3):599-607.
7. Karsten B (2008). Characteristics of colorectal cancer in young
patients at an urban county hospital. Am Surg 74(10): 973-6.
8. Nath J et al (2009). Rectal cancer in young adults: a series of
102 patients at a tertiary care centre in India. Colorectal Dis
11(5): 475-9.
9. Quach DT, Nguyen OT (2012). Clinical, Endoscopic and
Pathogical Characteristics of Early- Onset Colorectal Cancer in
Vietnamese. Asian Pacific J Cancer Pre 13(5): 1767 – 70.
10. Rex DK et al (2009). American College of Gastroenterology
guidelines for colorectal cancer screening 2009 [corrected]. Am
J Gastroenterol 104(3): 739-50.
11. Schulmann K, Reiser M, Schmiegel W (2002). Colonic cancer
and polyps. Best Pract Res Clin Gastroenterol 16(1): 91-114.
12. Siegel RL, Jemal A, Ward EM (2009). Increase in incidence of
colorectal cancer among young men and women in the United
States. Cancer Epidemiol Biomarkers Prev 18(6): 1695-8.
13. Sung JJ (2008). Asia Pacific consensus recommendations for
colorectal cancer screening. Gut 57(8): 1166-76.
Ngày nhận bài báo: 27/10/2014
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 30/10/2014
Ngày bài báo được đăng: 10/01/2015