Đại số đều trong giải tích phức

Nguyễn Khuyến là một trong những nhà thơ lớn của lịch sử văn học dân tộc nói chung và văn học cổ điển nói riêng. Thơ văn Nguyễn Khuyến là điểm sáng của văn học Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX - những năm đầu thế kỷ XX. Cùng với sự xuất hiện của nhiều ngòi bút cổ điển tên tuổi, Nguyễn Khuyến là người có đóng góp rất lớn cho sự phát triển của văn học dân tộc. Nguyễn Khuyến sáng tác nhiều thơ văn, câu đối cả bằng chữ Hán lẫn chữ Nôm. Có bài ông viết bằng chữ Hán rồi tự dịch ra chữ Nôm hoặc ngược lại, cả hai đều rất điêu luyện. Phần lớn thơ văn Nguyễn Khuyến là thơ văn biểu thị thái độ của ông đối với thời thế và trong thơ văn của ông – thơ văn chữ Hán chiếm tỷ lệ lớn. Song không phải do vậy mà thơ Nguyễn Khuyến trở nên khó hiểu, cứng nhắc, trái lại thơ chữ Hán Nguyễn Khuyến bình dị, tinh tế, mang nhiều màu sắc Việt Nam với những giá trị truyền thống đạo đức, văn hoá sâu sắc mà gốc rễ của nó đã ăn sâu vào đất Việt, góp phần tạo nên tâm hồn Việt. Nguyễn Khuyến là vị đại diện khá tiêu biểu cho lớp người do xã hội phong kiến đào tạo. Nhắc đến Nguyễn Khuyến là nhắc đến một nhà nho, một ông quan – mà cái trật tự của những quy phạm chặt chẽ của đạo Nho, của lễ giáo phong kiến không thể không có ảnh hưởng đến tư tưởng, tình cảm của ông. Song, vượt lên trên hết có thể nói rằng: giáo lí Nho gia khoa bảng và xiêm áo của triều đình đã không che lấp nổi nhà thơ nhân bản Nguyễn Khuyến, được nuôi dưỡng từ nhân bản Việt Nam – đó chính là tiếng cười bất hủ, cái điệu sống, hồn thơ gắn bó sâu nặng với quê hương, làng cảnh; tiếng nói nhân tình, dân tình và cả tấm lòng yêu nước ở mức Nguyễn Khuyến, theo kiểu Nguyễn Khuyến Tất cả, quy lại là giá trị nhân bản Việt Nam đã được kết tinh thành nghệ thuật trong thơ ca Nguyễn Khuyến. Đó là lí do như một lực hút nam châm, thúc đẩy chúng tôi đi đến tìm hiểu “Giá trị nhân bản trong thơ chữ Hán của Nguyễn Khuyến”. Đề tài này được khai thác ở một bình diện mới mà chúng tôi chỉ dám có vài ý kiến nhỏ góp phần giúp, hiểu rõ và hoàn thiện hơn bức tranh thế giới nghệ thuật, cũng như phong cách thơ, con người thơ của Tam Nguyên Yên Đổ.

doc24 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1540 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đại số đều trong giải tích phức, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU 1. Mục đích, ý nghĩa của đề tài Nguyễn Khuyến là một trong những nhà thơ lớn của lịch sử văn học dân tộc nói chung và văn học cổ điển nói riêng. Thơ văn Nguyễn Khuyến là điểm sáng của văn học Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX - những năm đầu thế kỷ XX. Cùng với sự xuất hiện của nhiều ngòi bút cổ điển tên tuổi, Nguyễn Khuyến là người có đóng góp rất lớn cho sự phát triển của văn học dân tộc. Nguyễn Khuyến sáng tác nhiều thơ văn, câu đối cả bằng chữ Hán lẫn chữ Nôm. Có bài ông viết bằng chữ Hán rồi tự dịch ra chữ Nôm hoặc ngược lại, cả hai đều rất điêu luyện. Phần lớn thơ văn Nguyễn Khuyến là thơ văn biểu thị thái độ của ông đối với thời thế và trong thơ văn của ông – thơ văn chữ Hán chiếm tỷ lệ lớn. Song không phải do vậy mà thơ Nguyễn Khuyến trở nên khó hiểu, cứng nhắc, trái lại thơ chữ Hán Nguyễn Khuyến bình dị, tinh tế, mang nhiều màu sắc Việt Nam với những giá trị truyền thống đạo đức, văn hoá sâu sắc mà gốc rễ của nó đã ăn sâu vào đất Việt, góp phần tạo nên tâm hồn Việt. Nguyễn Khuyến là vị đại diện khá tiêu biểu cho lớp người do xã hội phong kiến đào tạo. Nhắc đến Nguyễn Khuyến là nhắc đến một nhà nho, một ông quan – mà cái trật tự của những quy phạm chặt chẽ của đạo Nho, của lễ giáo phong kiến không thể không có ảnh hưởng đến tư tưởng, tình cảm của ông. Song, vượt lên trên hết có thể nói rằng: giáo lí Nho gia khoa bảng và xiêm áo của triều đình đã không che lấp nổi nhà thơ nhân bản Nguyễn Khuyến, được nuôi dưỡng từ nhân bản Việt Nam – đó chính là tiếng cười bất hủ, cái điệu sống, hồn thơ gắn bó sâu nặng với quê hương, làng cảnh; tiếng nói nhân tình, dân tình và cả tấm lòng yêu nước ở mức Nguyễn Khuyến, theo kiểu Nguyễn Khuyến…Tất cả, quy lại là giá trị nhân bản Việt Nam đã được kết tinh thành nghệ thuật trong thơ ca Nguyễn Khuyến. Đó là lí do như một lực hút nam châm, thúc đẩy chúng tôi đi đến tìm hiểu “Giá trị nhân bản trong thơ chữ Hán của Nguyễn Khuyến”. Đề tài này được khai thác ở một bình diện mới mà chúng tôi chỉ dám có vài ý kiến nhỏ góp phần giúp, hiểu rõ và hoàn thiện hơn bức tranh thế giới nghệ thuật, cũng như phong cách thơ, con người thơ của Tam Nguyên Yên Đổ. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Là một trong những cây đại thụ của nền văn học dân tộc, cuộc đời cũng như sự nghiệp thơ văn Nguyễn Khuyến từ trước tới nay đã có nhiều công trình nghiên cứu có giá trị. Thơ văn Nguyễn Khuyến được đăng tải đầu tiên là trên tạp chí Nam Phong vào trước những năm 20 của thế kỷ (đăng trong mục Thơ ca Yên Đổ trên Nam Phong Nhưng cũng phải đợi đến gần hai chục năm sau thì công tác văn học sử trên đường hình thành mới tìm đến Nguyễn Khuyến. Với công trình Việt Nam văn học sử yếu của Dương Quảng Hàm (Nha học chính Đông Pháp xuất bản, Hà Nội, 1943), ngành nghiên cứu văn học mà trước hết là Lịch sử văn học bắt đầu chú ý đến Nguyễn Khuyến. Dõi theo lịch trình nghiên cứu tác gia có phong cách tài hoa này, có thể thấy lịch trình ấy diễn ra qua bốn chặng đường. Chặng đường thứ nhất là trước 1945. Ở chặng đường này Nguyễn Khuyến còn ít được biết đến và nếu được biết đến cũng chủ yếu qua thơ Nôm của ông. Người có ý kiến về Nguyễn Khuyến sớm nhất (1918) có lẽ là Phan Kế Bính, trong công trình Việt – Hán văn khảo (1930), khi “luận riêng về phép làm thơ”. Chặng đường thứ hai, từ 1945 đến 1970. Ở chặng đường này, việc giới thiệu, tìm hiểu nghiên cứu về Nguyễn Khuyến đã có bước phát triển mới. Ngoài Nguyễn Khuyến với tư cách một nhà thơ trào phúng xuất sắc được tiếp tục khẳng định, thì nhiều tư cách nhà thơ khác của Nguyễn Khuyến (nhà thơ trữ tình – yêu nước, nhà thơ thiên nhiên) được phát hiện và tìm hiểu trên nhiều khía cạnh. Tìm hiểu những phương diện ấy trong tư tưởng - thẩm mỹ Nguyễn Khuyến, các tác giả cũng đã đề cập và phân tích ít nhiều đến bút pháp nghệ thuật của nhà thơ. Công trình bề thế nhất trong nghiên cứu về Nguyễn Khuyến chặng đường này là của Văn Tân với tên gọi Nguyễn Khuyến, nhà thơ Việt Nam kiệt xuất, gồm 204 trang, 5 chương. Chặng đường thứ ba, từ 1971 đến 1984. Bắt đầu từ năm 1971, NXB. Văn học, Hà Nội cho in cuốn Thơ văn Nguyễn Khuyến, dày ngót 500 trang do Xuân Diệu giới thiệu. Kể từ đây việc nhìn nhận, đánh giá Nguyễn Khuyến đã mở ra một giai đoạn mới. Năm 1984, Nguyễn Khuyến tác phẩm, công trình sưu tầm biên dịch, giới thiệu về Nguyễn Khuyến đầy đủ nhất ra đời do Nguyễn Văn Huyền thực hiện (NXB. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1984). Có thể coi đây như một năm mốc khép lại một chặng đường dài và chuẩn bị mở ra một chặng đường mới trong tìm hiểu nghiên cứu Nguyễn Khuyến. Chặng đường thứ tư, từ năm 1985 đến nay. Đây là chặng đường có thành tựu lớn nhất trong tìm hiểu nghiên cứu về Nguyễn Khuyến, trước hết được đánh dấu bằng Hội nghị khoa học lớn kỷ niệm 150 năm sinh nhà thơ (do Viện Văn học phối hợp với Sở Văn hóa thông tin và Hội Văn học nghệ thuật Hà Nam Ninh tổ chức ngày 15.2.1985). Nhiều phát hiện và ý kiến mới, có giá trị trong khảo cứu, nhận định về Nguyễn Khuyến, từ con người lịch sử đến con người thơ tác giả được công bố, phần lớn sau này được lựa chọn, tập hợp trong Thi hào Nguyễn Khuyến đời và thơ (Nguyễn Huệ Chi chủ biên, NXB. Giáo dục, Hà Nội, 1994). Có thể coi đây là công trình chuyên khảo quy mô nhất về Nguyễn Khuyến. Gần đây, cuối năm 1998, cuốn sách Nguyễn Khuyến, về tác gia và tác phẩm, do Vũ Thanh tuyển chọn và giới thiệu, NXB. Giáo dục, Hà Nội, 1998, “tập hợp một cách rộng rãi những bài viết và công trình khoa học tiêu biểu về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Khuyến từ xưa đến nay”. Ngoài ra, chúng tôi lần lượt đi khảo sát ở một số công trình nghiên cứu khác về con người cũng như thơ văn Nguyễn Khuyến. Đặc biệt tìm hiểu về giá trị nhân bản trong thơ chữ Hán của Nguyễn Khuyến có công trình nghiên cứu của Nguyễn Đình Chú (1985), “Nguyễn Khuyến với thời gian”, Tạp chí Văn học, số 4, đã khẳng định Nguyễn Khuyến là nhà thơ nhân bản của Việt Nam. Nguyễn Bá Thành (2006) với Bản sắc Việt Nam qua giao lưu văn học, Đại học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn, NXB. Quốc gia, Hà Nội, cũng khẳng định ý kiến đó. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Với đề tài này, chúng tôi khảo sát trên toàn tập thơ chữ Hán của Nguyễn Khuyến, đặc biệt đi sâu vào khảo sát bản dịch thơ chữ Hán của Nguyễn Khuyến trong Tuyển tập thơ chữ Hán của Nguyễn Khuyến do Trần Văn Nhĩ tuyển chọn và dịch thơ, NXB. Văn Nghệ Thành phố Hồ Chí Minh. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Giá trị nhân bản trong thơ chữ Hán của Nguyễn Khuyến. 4. Phương pháp nghiên cứu Thực hiện đề tài “Giá trị nhân bản trong thơ chữ Hán của Nguyễn Khuyến”, chúng tôi sử dụng các phương pháp: - Phương pháp thống kê. - Phương pháp phân tích. - Phương pháp so sánh, đối chiếu. - Phương pháp tổng hợp. - Phương pháp khái quát hoá. 5. Cấu trúc khoá luận Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, nội dung của khoá luận được tổ chức thành ba chương: Chương 1: Cuộc đời và sự nghiệp thơ ca của Nguyễn Khuyến Chương 2: Giá trị nhân bản trong thơ chữ Hán của Nguyễn Khuyến nhìn từ bình diện nội dung và phương thức biểu hiện Chương 3: Tư tưởng nhân bản của Nguyễn Khuyến trong dòng chảy chung văn học trung đại Ngoài ra còn có phần Tài liệu tham khảo với 36 công trình lớn nhỏ. PHẦN NỘI DUNG Chương 1: CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP THƠ CA CỦA NGUYỄN KHUYẾN 1.1. Cuộc đời: Nguyễn Khuyến sinh ngày 18 tháng giêng năm Ất Mùi, Minh Mệnh thứ 16 (tức 15/2/1835) ở quê mẹ làng Hoàng Xá, huyện Ý Yên, Nam Định; nhưng ông lớn lên và sống chủ yếu ở quê cha, làng Yên Đổ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Tên ông lúc đầu là Thắng, mãi đến 1865, thi Hội không đỗ mới đổi là Khuyến (Khuyến là cố gắng). Người địa phương quen gọi Nguyễn Khuyến lúc về già là cụ Tam (ba lần đậu đầu), cụ Hoàng Và (Và là tên Nôm của xóm Vị Hạ) hay cụ Hoàng Thắng (Hoàng là học vị Hoàng Giáp). Hiệu là Quế Sơn. Nguyễn Khuyến xuất thân trong một gia đình nhà nho nghèo, hai bên nội ngoại đều có truyền thống khoa bảng. Cha là Nguyễn Tông Khải, đỗ ba khoa tú tài, chuyên nghề dạy học. Cuộc sống thanh bạch, giản dị, trọng đạo lý và tính tình hào phóng của cụ đã ảnh hưởng sâu sắc đến nhà thơ sau này. Mẹ là Trần Thị Thoan, một ngưòi phụ nữ hiền lành, chịu thương, chịu khó, nuôi chồng, nuôi con ăn học và thi cử. Năm 17 tuổi (1852) nhà thơ lấy vợ và đi thi Hương lần thứ nhất với cha, song không đỗ. Năm sau (1853) địa phương có dịch thương hàn, cha và em ruột, bố mẹ vợ nhà thơ cùng nhiều họ hàng thân thuộc đều qua đời vì cơn dịch bệnh khủng khiếp ấy. Gia đình lâm vào cảnh khốn cùng. Năm 1854, nhà thơ đã nối lại nghề cha đi dạy học để lấy lương ăn và tiếp tục ôn thi, song ba khoa thi Hương tiếp theo 1855, 1858, 1861 ông đều không đỗ. Bấy giờ có tiến sĩ Vũ Văn Lý, người làng Vĩnh Trụ, huyện Nam Xang (tức huyện Lý Nhân) tỉnh Hà Nam thấy Nguyễn Khuyến học giỏi nhưng khoa cử lận đận nên đem về nuôi cho ăn học. Năm Giáp Tý (1864), nhà thơ đỗ đầu kì thi Hương ở Hà Nội. Tiếp theo ông lại trượt các kì thi Hội năm 1865, 1868, 1869. Năm Tân Mùi (1871), Nguyễn Khuyến đỗ đầu kì thi Hội, sau đó vào thi Đình, đỗ đầu kì thi Đình. Cả ba lần thi: thi Hương, thi Hội, thi Đình, nhà thơ đều đỗ đầu nên người ta gọi ông là Tam nguyên Yên Đổ, và vua Tự Đức ban cờ biển cho ông cũng viết hai chữ “Tam Nguyên”. Sau khi thi đỗ, Nguyễn Khuyến được cử làm quan ở Sử quán trong triều. Năm 1873, ông được cử ra làm Đốc học tỉnh Thanh Hoá, rồi Án sát tỉnh Thanh Hoá. Năm 1874, mẹ mất, ông xin về quê để tang mẹ. Mãn tang, ông vào kinh làm Biện lý Bộ hộ. Năm 1877, đổi làm Bố chánh tỉnh Quảng Ngãi; trong năm này, ông và các quan đầu tỉnh Quảng Ngãi bị phạt tội vì không kịp thời “đảo vũ” và không dẹp nổi loạn lạc. Năm 1879, Nguyễn Khuyến bị điều về kinh sung chức Trực học sĩ và làm Toản tu ở Quốc Sử quán. Năm 1883, triều đình Huế cử ông làm phó sứ cùng với Lã Xuân Oai làm chánh sứ đi công cán nhà Thanh, nhưng tình hình biến đổi: tháng 8 năm 1883 Thuận An (Huế) thất thủ. Việc đi sứ bị đình, ông lại về chức cũ. Tháng 12/1883, thực dân Pháp đem quân đánh chiếm Sơn Tây. Nguyễn Hữu Độ cử Nguyễn Khuyến làm Tổng đốc, nhưng ông dứt khoát từ chối. Mùa thu năm 1884, ông lấy cớ đau mắt nặng xin cáo quan trở về Yên Đổ, khi mới 50 tuổi. Tuổi già ông vừa dạy học vừa làm thơ, ông mất ngày 15 tháng giêng năm Kỷ Dậu (tức 5/2/1909), thọ 75 tuổi. 1.2. Sự nghiệp thơ văn Nguyễn Khuyến đã để lại cho văn học nước nhà một khối lượng thơ ca đồ sộ và vô cùng quý giá. Quế Sơn thi tập có trên 300 bài thơ chữ Hán, chữ Nôm, hát nói, câu đối. Yên Đổ thi tập. Bách Liêu thi văn tập. Cẩm ngữ và những bài ca, hát ả đào, văn tế, câu đối truyền miệng. Riêng về thơ chữ Hán, chúng tôi khảo sát trong cuốn Tuyển tập thơ chữ Hán Nguyễn Khuyến do Trần Văn Nhĩ tuyển chọn và dịch thơ, NXB. Văn Nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2005; gồm các tập: Yên Đổ tiến sĩ thi tập (72 bài). Quế Sơn thi tập (135 bài). Quế Sơn Tam nguyên thi tập (73 bài). Các tập thơ khác: Hải Vân Am thi tập (22 bài). Quế Sơn thi tập tục biên (33 bài) Yên Đổ Tam nguyên thi tập (13 bài) Quế Sơn cựu lục (4 bài) Sưu tầm (Bùi Văn Cường) (5 bài). Chương 2: GIÁ TRỊ NHÂN BẢN TRONG THƠ CHỮ HÁN CỦA NGUYỄN KHUYẾN NHÌN TỪ BÌNH DIỆN NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG THỨC BIỂU HIỆN 2.1. Nguyễn Khuyến – nhà thơ nhân bản của Việt Nam 2.1.1. Những vấn đề liên quan tới nhân bản và giá trị nhân bản Theo từ điển Tiếng Việt, Hoàng Phê chủ biên, NXB. Đà Nẵng, 2006: “Nhân bản là nhân văn, mà nhân văn thuộc về văn hoá của loài người. Nhân văn chủ nghĩa thuộc về chủ nghĩa nhân văn”. Theo quan niệm của Nho giáo, nhân văn (chủ nghĩa nhân văn) nghĩa đen là nét đẹp của con người. Trời cũng có nét đẹp của trời, gọi là thiên văn. Đất có nét đẹp của đất, gọi là địa lý. Đẹp của người gọi là nhân văn, nhưng lý của địa là nét đẹp hình thức. Văn của trời và người là nét đẹp nội dung, đẹp của tâm hồn. Từ điển Văn học (bộ mới), NXB. Thế giới, 2004 cũng đã đưa ra định nghĩa chủ nghĩa nhân văn khá đầy đủ. Chủ nghĩa nhân văn là một từ bao trùm chủ nghĩa nhân đạo. Nội dung nhân văn thực chất là nhân đạo, đều là mối quan hệ con người với con người, lấy con người làm gốc. Rõ ràng, những gì liên quan tới con người đều được gọi là nhân bản. Theo cách hiểu của Nguyễn Đình Chú trong công trình “Nguyễn Khuyến với thời gian”, nhân bản có nghĩa trước hết là đối lập với phi nhân bản. Nhân bản bao gồm mọi phẩm chất, mọi thuộc tính, mọi tư chất làm nên giá trị cao quý của con người với tư cách là động vật cao cấp, một thực thể tồn tại đẹp đẽ nhất, đáng quý trọng nhất của tạo hoá. Nhân bản bắt nguồn từ lao động của con người. Nhân bản mang tính xã hội. Nhân bản, trước hết và luôn luôn là sản phẩm của nhân dân tạo ra trong quá trình đấu tranh xã hội để xây dựng cuộc sống. Nhân bản vừa mang tính nhân loại, vừa mang tính dân tộc. Dân tộc Việt Nam có nhân bản Việt Nam và văn học Việt Nam vừa là sản phẩm vừa là hình thức biểu hiện phản ánh nhân bản Việt Nam. Khoa nghiên cứu văn học có thể dùng khái niệm nhân bản như là một khái niệm công cụ để tạo ra một hệ quy chiếu có hiệu quả mang tính chất tập trung trong việc nhận thức của tác giả, tác phẩm văn học mà Nguyễn Khuyến và thi phẩm của ông là một trường hợp. Với Nguyễn Khuyến, thơ văn cũng như con người đếu là những biểu hiện của ứng xử nhân bản. 2.1.2. Nguyễn Khuyến – hành trình nhân bản, cái nhìn về con người Con người bao giờ cũng là đối tượng nhận thức trung tâm của văn học nghệ thuật. Và sáng tác văn học nghệ thuật bao giờ cũng là một cái nhìn về các đối tượng nhận thức mà trước hết là con người. Marcel Proust (1871 – 1920, tác giả bộ tiểu thuyết vĩ đại Đi tìm thời gian đã mất, người từng “đi tìm giá trị cuộc sống trong bản thân con người”. Con người trong sáng tác Nguyễn Khuyến đã hiện lên với nhiều dạng thái phong phú, mới mẻ. Vừa có con người chức năng phận vị, con người giữ tiết lại có con người cá nhân - bản ngã. Nhưng có lẽ con người tiêu biểu nhất là con người nhân bản - đời thường, nghĩa là nhìn con người trong dạng thái một thực thể sinh động tự nhiên với những nhu cầu thể chất và tinh thần mà “cơ thể và nhân cách sống của con người có thể có được” (K.Marx). Nguyễn Khuyến là một trong những tác gia nói được một cách xúc động, thấm thía nhất về lo toan những đói no, ấm lạnh của người dân trong cuộc đời thường, những ly hợp, buồn vui của tình người muôn thuở. Nguồn sáng được chiếu rọi từ những cái nhìn như thế về con người chắc hẳn không bao giờ tắt. Con người trong sáng tác Nguyễn Khuyến ở dạng thái này có thể cô cao ngạo thế, đứng cao hơn mọi đối tượng, ở dạng thái kia có thể lo đạo chứ không lo nghèo… nhưng rồi vẫn không thoát khỏi những lo toan của bài toán sinh tồn, những dăng mắc của tình người, tình đời. “Tôi là người, và tất cả những gì thuộc về con người không hề xa lạ đối với tôi”, Xuân Diệu rất có cơ sở “vận” điều này vào Yên Đổ mà điển hình là bài “Nhân tặng nhục” (Có người cho thịt). Có thể nói bước trở về Yên Đổ đã hồi sinh và nhen tiếp cho ông ánh lửa ấm áp trong cảm nhận nhân bản đẹp đẽ về con người đời thường, mà suốt hơn mười năm làm quan ông không mấy khi có được. Từ đây, ông thực sự gắn mình với thế giới đời thường và con người đời thường, bản thân ông cũng thực sự là con người đời thường, nghĩa là con người dám tước bỏ hết mọi hào nhoáng, ràng buộc cách biệt mình với đồng loại nhân quần. Mối quan hệ hai chiều giữa bản thân nhà thơ với mọi người trở nên quá gần gũi, thân tình thậm chí suồng sã (đó là tình cảm giữa con người với con người, tình làng xóm, tình bè bạn, tình cảm vợ con...). Đến với Nguyễn Khuyến với thơ văn cũng như phong cách, con người Nguyễn Khuyến là đến với một nhân cách đột xuất, một nhà thơ của nhân bản Việt Nam. Chính cái tiếng cười bất hủ, cái điệu sống, hồn thơ gắn bó sâu nặng với quê hương làng cảnh, tiếng nói nhân tình, dân tình, và cả tấm lòng yêu nước ở mức Nguyễn Khuyến, theo kiểu Nguyễn Khuyến… Tất cả, quy lại là giá trị nhân bản Việt Nam đã được kết tinh thành nghệ thuật trong thơ ca Nguyễn Khuyến và từ lâu đã được trân trọng. Tuy nhiên đến nay, ý niệm nhân bản, nhìn lại ở từng khía cạnh, vẫn có thể thấy rõ thêm những ý nghĩa mới mẻ. Ví như trong tiếng cười của Nguyễn Khuyến, giá trị không phải ở chỗ biết cười cái đáng cười, mà thực ra, qua những tiếng cười cụ thể đó là đạo đức, tài năng, tâm huyết, là cái cao cả trước cái đê hèn, thậm chí là cái dũng khí trước cái bạo tàn, gọn lại là cái nhân bản trước cái phi nhân bản. Không cắm rễ sâu trong lòng dân tộc, không dễ gì có tiếng cười như tiếng cười Nguyễn Khuyến. Với ý niệm nhân bản Việt Nam, càng đọc thơ Nguyễn Khuyến càng thấy ánh lên bao nhiêu vẻ đẹp khác biệt lý thú: cái đôn hậu đối lập với cái bạo tàn; cái chân thành đối lập với cái hời hợt; cái vị tha đối lập với cái vị kỷ; cái thanh khiết đối lập với cái ô trọc; cái tự trọng đối lập với cái vô liêm sỉ; cái thuỷ chung đối lập với cái phụ bạc; cái thông minh đối lập với cái ngu đần; cái tài năng đối lập với cái kém cỏi… Và với Nguyễn Khuyến, có thể nói rằng: giáo lý Nho gia khoa bảng và xiêm áo của triều đình phong kiến đã không che lấp nổi nhà thơ nhân bản Nguyễn Khuyến, được nuôi dưỡng từ nhân bản Việt Nam, không vùi lấp được Nguyễn Khuyến, người từng là cậu học trò quen đánh dậm, có bà vợ “hay lam hay làm”. Chính cái nhân bản này đã là gốc rễ bền vững cho tài thơ, hồn thơ Nguyễn Khuyến có được cành lá sum suê rợp bóng và vĩnh viễn rợp bóng với thời gian. 2.2. Giá trị nhân bản trong thơ chữ Hán của Nguyễn Khuyến từ bình diện nội dung Phần lớn thơ văn của Nguyễn Khuyến được sáng tác trong thời gian về ẩn cho đến lúc chết, tức là thời kì mà phong trào Cần Vương dần dần đi đến chỗ tan rã và thất bại; xã hội thực dân nửa phong kiến đã bắt đầu hình thành. Thời đại thay đổi, kéo theo sự vận động thay đổi trong quan điểm lập trường, cách cảm, cách nghĩ của Nguyễn Khuyến; thể hiện một tấm lòng, một tâm hồn, nhân cách cao đẹp. Một nỗi niềm trăn trở với vận mệnh của đất nước, với những điều tai ương, phiền nhiễu của xã hội đương thời và cái nhìn đầy cảm thông, trìu mến, xúc động với cảnh sống nơi điền viên, thôn dã. Hoà vào cuộc sống tức hoà vào nhịp thơ của thiên nhiên và nhịp đập của trái tim với sức lay động trước cảnh sống của người dân lao động mà nhà thơ gắn bó. Tiếng nói nhân tình – dân tình; tinh thần yêu nước và tình yêu thiên nhiên, có lúc hoà tan như lớp sóng vỗ oàm, có lúc tách thành trăm con sóng nhỏ cứ miên man chảy, hiện lên trong thơ ông với đa sắc màu, đa giọng điệu chứa chan tình cảm. 2.2.1. Thơ chữ Hán của Nguyễn Khuyến - tiếng nói nhân tình và dân tình Từ bậc đỉnh vinh quang của giấc mộng ôm bảng vàng, phò vua giúp nước, Nguyễn Khuyến trở về vườn Bùi, về với cuộc sống ở làng quê, của cái lam lũ, nghèo nàn, xác xơ của đời sống lao động người nông dân. Nhưng giữa cái bùn đen ấy, Nguyễn Khuyến tìm được cái thanh nhàn trong tâm hồn, tìm lại đúng cái bản ngã của nhà thơ, được sống thoải mái bằng chính mình, không phải gò bó trước cái áo thụng, mũ quan và chính cuộc sống đó là suối nguồn thương yêu, luôn thấm đượm tình người, tình đời. Nguyễn Khuyến sống giữa đời 75 năm, trong đó 13 năm nhà thơ đi thi đỗ, ra làm quan, thời gian còn lại nhà thơ sống nơi điền viên thôn dân; biết, chứng kiến và nếm trải vui, buồn, hạnh phúc, khổ đau, cơ cực... của cuộc sống nơi thôn quê. Nguyễn Khuyến càng xa vua quan và thực dân Pháp bao nhiêu thì lại càng gần dân bấy nhiêu. Sống gần dân, giữa dân, nhà thơ không thể không thốt ra điều xót xa rằng sao đồng bào ta khổ cực đến thế? cuộc đời này sao lắm cảnh nhiễu nhương đến vậy? Đồng loại tương tranh trúc phọc trúc Lợi tâm vô yếm ngư thôn (Lòng tham không chán, cá nuốt cá Cùng sống tranh nhau, tre trói tre) (Độc thán) Nguyễn Khuyến từ quan về với đồng ruộng, không phải chỉ là thông cảm với nông dân mà chính mình cũng nông dân hoá. Nhà thơ hiểu, biết tất cả những công việc của nhà nông, của nỗi nhọc nhằn “điền tẩu”. Bấy giờ Nguyễn Khuyến nhường cái lo mất nước; cái sự thể lớn lao cho nỗi lo âu, vất vả khó khăn của một nhà nông khi vào vụ: nào là cuốc, cày, bừa, xới, làm cỏ, bón phân... nào lo mưa dầm, rét sớm, nắng hạn, gió khô, lo nạn chuột... Với một nhà nông quen thuộc – công việc của một nhà nông đã là khó khăn cực nhọc, quanh năm lam lũ với đồng áng, lo thiên tai dịch hoạ, lo thiếu thốn mất mùa… công việc đồng áng làm cho nhà n