Vài năm trước, công ty của
Chris bước vào cuộc đàm
phán với một hãng nhỏ tại
châu Âu nhằm mua một thiết
bị cho sản phẩm chăm sóc
sức khỏe mới. Hai bên cùng
thống nhất công ty của Chris sẽ được độc quyền mua hàng. Tuy
nhiên, vào phút cuối, công ty châu Âu lại từ chối yêu cầu đó.
Các nhà đàm phán Mỹ vẫn mong muốn đạt được thỏa thuận, sẵn
sàng đưa ra những bảo đảm nhập tối thiểu một số lượng hàng
nhất định với mức giá cao. Nhưng trước sự ngạc nhiên của họ,
nhà cung cấp châu Âu vẫn từ chối bán hàng (ngay cả khi họ sẽ
không bao giờ có cơ hội bán được một số lượng hàng lớn/năm
như vậy nữa). Cuộc đàm phán đi vào bế tắc và các nhà đàm
phán Mỹ chán nản. Vậy Chris nên làm gì?
Chris vốn luôn được coi là nhà đàm phán thiên tài. Ông có thể
Richard Holbrookephá vỡ những bế tắc tưởng như không thể vượt qua. Và sau đây
là phương pháp giải quyết của ông: Sau khi lắng nghe mọi điều,
Chris hỏi công ty châu Âu một câu hỏi đơn giản: Tại sao? Tại
sao họ không thể cung cấp duy nhất cho công ty của ông, dù làm
vậy họ thậm chí sẽ bán được nhiều hàng hơn khả năng sản xuất
của mình? Câu trả lời đã làm Nhóm đàm phán Hoa Kỳ ngạc
nhiên. Nếu chỉ bán cho công ty của Chris thì người chủ công ty
Châu Âu sẽ buộc phải vi phạm thỏa thuận với người chú của
mình. Thỏa thuận đó ghi rõ, mỗi năm người chú sẽ mua 170 kg
thiết bị nhằm sản xuất sản phẩm tiêu thụ tại địa phương. Biết
được lý do, Chris bèn đề nghị một giải pháp, theo đó, nhà cung
cấp sẽ chỉ cung cấp độc nhất cho công ty của Chris, có điểm
ngoại trừ mỗi năm được quyền cung cấp thêm 250 kg thiết bị
cho công ty của người chú.
11 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 21/06/2022 | Lượt xem: 241 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đàm phán điều tra - Phương pháp mới mang lại thành công (Phần I), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đàm phán điều tra - phương pháp mới mang lại
thành công (Phần I)
Vài năm trước, công ty của
Chris bước vào cuộc đàm
phán với một hãng nhỏ tại
châu Âu nhằm mua một thiết
bị cho sản phẩm chăm sóc
sức khỏe mới. Hai bên cùng
thống nhất công ty của Chris sẽ được độc quyền mua hàng. Tuy
nhiên, vào phút cuối, công ty châu Âu lại từ chối yêu cầu đó.
Các nhà đàm phán Mỹ vẫn mong muốn đạt được thỏa thuận, sẵn
sàng đưa ra những bảo đảm nhập tối thiểu một số lượng hàng
nhất định với mức giá cao. Nhưng trước sự ngạc nhiên của họ,
nhà cung cấp châu Âu vẫn từ chối bán hàng (ngay cả khi họ sẽ
không bao giờ có cơ hội bán được một số lượng hàng lớn/năm
như vậy nữa). Cuộc đàm phán đi vào bế tắc và các nhà đàm
phán Mỹ chán nản. Vậy Chris nên làm gì?
Chris vốn luôn được coi là nhà đàm phán thiên tài. Ông có thể
Richard Holbrooke
phá vỡ những bế tắc tưởng như không thể vượt qua. Và sau đây
là phương pháp giải quyết của ông: Sau khi lắng nghe mọi điều,
Chris hỏi công ty châu Âu một câu hỏi đơn giản: Tại sao? Tại
sao họ không thể cung cấp duy nhất cho công ty của ông, dù làm
vậy họ thậm chí sẽ bán được nhiều hàng hơn khả năng sản xuất
của mình? Câu trả lời đã làm Nhóm đàm phán Hoa Kỳ ngạc
nhiên. Nếu chỉ bán cho công ty của Chris thì người chủ công ty
Châu Âu sẽ buộc phải vi phạm thỏa thuận với người chú của
mình. Thỏa thuận đó ghi rõ, mỗi năm người chú sẽ mua 170 kg
thiết bị nhằm sản xuất sản phẩm tiêu thụ tại địa phương. Biết
được lý do, Chris bèn đề nghị một giải pháp, theo đó, nhà cung
cấp sẽ chỉ cung cấp độc nhất cho công ty của Chris, có điểm
ngoại trừ mỗi năm được quyền cung cấp thêm 250 kg thiết bị
cho công ty của người chú.
Giải pháp của Chris có vẻ như là đương nhiên ngay từ đầu.
Nhưng khi chúng ta bước vào cuộc đàm phán tại thế giới thực,
cũng như chúng ta đóng vai những nhà đàm phán trong lớp học,
thì dạng giải pháp này hiếm khi được chú ý tới. Đó là do hầu hết
mọi người khi đàm phám đều tưởng rằng mình biết rõ động cơ
của đối thủ, và do đó không tìm hiểu thêm gì nữa. Các thành
viên trong Nhóm đàm phán người Mỹ cũng mắc sai lầm tương
tự, vì họ cho rằng mình biết tại sao nhà cung cấp Châu Âu khó
chịu: họ nghĩ rằng người châu Âu muốn đòi giá cao hơn hoặc
không muốn tương lai của mình phải phụ thuộc vào khách hàng.
Bạn đã bao giờ mắc sai lầm tương tự chưa? Khi Deepak
Malhotra và Max H. Bazerman đưa ra tình huống này hỏi những
nhà lãnh đạo lão luyện nhất trong khóa học dạy về đàm phán tại
trường Harvard Business School, hầu hết họ đều mắc sai lầm
như nhóm đàm phán người Mỹ. 90% câu trả lời của những nhà
lãnh đạo lão luyện luôn là: “Họ đòi hỏi một hợp đồng có số
lượng mua tối thiểu lớn hơn”; “Đòi hỏi thời gian mua độc quyền
rút ngắn lại”; “Đòi tăng giá”Vậy đấy! Tất cả đều mắc sai lầm
giống nhau: vội đưa ra đơn thuốc cho một người bệnh mà không
chuẩn đoán kỹ càng.
Chris thành công vì ông dám xét lại các giả định ban đầu và biết
thu nhận thông tin cần thiết liên quan đến nguyện vọng của mỗi
bên. Đây chính là bước đầu tiên trong cái gọi là “đàm phán điều
tra”. Phương pháp đàm phán này tương tự như cách người thám
tử đặt mình vào vị trí tội phạm nhằm tưởng tượng ra tình huống
và phản ứng phạm tội. Đàm phán điều tra dựa trên 5 nguyên tắc
chính:
Nguyên tắc 1: Đừng chỉ bàn luận đối thủ đàm phán muốn gì, mà
hãy tìm hiểu tại sao đối thủ muốn nó.
Nguyên tắc này đặc biệt hiệu nghiệm trong những cuộc đàm
phán thẳng thắn, trung thực, giống như cuộc đàm phán của
Chris. Nó cũng có thể được áp dụng trong những cuộc đàm phán
đa phương phức tạp. Hãy xem xét tình thế tiến thoái lưỡng nan
của Richard Holbrooke vào cuối năm 2000, khi ông giữ vị trí đại
sứ Mỹ tại Liên hiệp quốc. Và thời gian đó, Mỹ còn đang nợ Liên
hiệp quốc hơn 1 tỷ US$ nhưng không muốn trả, trừ khi Liên
hiệp quốc đồng ý cải tổ. Kết quả, các đại diện của Mỹ bị cấm
tham gia các cuộc họp Hội đồng Liên hiệp quốc, và Hoa Kỳ
phải đối mặt với khả năng mất phiếu bầu của mình tại Đại Hội
đồng. Căng thẳng hơn, khá nhiều nghị sỹ Mỹ thậm chí còn kêu
gọi Mỹ nên rút lui khỏi tổ chức này.
Tại sao lại xảy ra tình trạng hỗn loạn này? Trong nhiều thập kỷ
qua, Mỹ luôn cung cấp 25% tài chính cho Liên hiệp quốc. Phía
Mỹ cho rằng số tiền mình đóng góp chiếm một tỷ lệ quá lớn, vì
vậy Quốc hội Mỹ quyết định giữ lại hơn 1 tỷ US$ khoản nợ của
mình cho đến khi Liên hiệp quốc (bao hàm các quốc gia khác)
đồng ý giảm tỷ lệ cung cấp ngân sách của Mỹ từ 25 xuống 22%.
Các thành viên Liên hiệp quốc thì lại nhìn nhận đây là hành
động bất chính.
Vậy đấy. Đại sứ Holbrooke đã phải đối mặt với một thách thức
khó khăn. Theo đúng điều lệ của Liên hiệp quốc, bất kỳ thay đổi
nào cũng cần nhận được sự đồng thuận của tất cả 189 thành
viên. Thêm vào đó, không dễ để giải quyết được vấn đề này, vì
nếu cho đến 01/01/2001 khoản tiền 1 tỷ US$ không được
chuyển sang tài khoản của Liên hiệp quốc, thì số tiền kia sẽ
được chuyển sang sử dụng ở mục đích khác, và Liên hiệp quốc
sẽ vĩnh viễn mất nó.
Nhóm của Holbrooke hy vọng rằng, Nhật và một số nước Châu
Âu sẽ sẵn lòng bù vào khoản đóng góp mà Hoa Kỳ dự định
giảm. Nhưng thật không may, Nhật Bản (nước đóng góp nhiều
thứ hai, sau Mỹ) đã từ chối ý kiến này, và một số nước Châu Âu
cũng không hơn gì. Vậy Holbrooke có thể làm gì để giải quyết
tình trạng khó khăn này?
Đồng hồ đang điểm từng giờ trôi qua, Holbrooke đã quyết định
không cần quá tập trung vào việc thuyết phục các thành viên
Liên hiệp quốc đồng ý đề nghị của Mỹ, thay vào đó mọi người
cần tìm hiểu yêu cầu của đối phương. Bất cứ khi nào có một
thành viên từ chối tăng khoản đóng góp của mình, Holbrooke
đều cố gắng tìm hiểu tại sao quốc gia đó không thể (hay không
muốn) đóng góp nhiều hơn. Rất nhanh chóng, Nhóm của
Holbrooke tìm ra nguyên nhân chính yếu: Nhiều nước có thể
đồng ý tăng khoản đóng góp, nhưng họ không thể làm việc này
trong năm tài khóa 2001, vì mọi khoản chi tiêu đã được quốc hội
lên kế hoạch. Vì vậy thời hạn 01/01 là không thể thực hiện.
Từ khi hiểu rõ nguyên nhân, vấn đề trở nên dễ dàng giải quyết
hơn. Holbrooke đã đề xuất việc Liên hiệp quốc chấp nhận đề
nghị giảm khoản đóng góp của Mỹ từ 25% xuống còn 22%, theo
đúng yêu cầu của Quốc hội Mỹ, nhưng sẽ tạm dừng khả năng
buộc các nước khác tăng khoản đóng góp cho đến năm 2002
(thay vào đó, người sáng lập CNN là Ted Turner đã đồng ý đóng
cho Liên hiệp quốc 34 triệu US$). Tuy nhiên, ta thấy rằng, chìa
khóa để giải quyết cuộc khủng hoảng ngoại giao ở đây nằm ở 2
vấn đề (chứ không phải chỉ một vấn đề như Nhóm Holbrooke
nghĩ ban đầu), đó là: Thời gian và mức độ đóng góp của mỗi
thành viên Liên hiệp quốc.
Nguyên tắc 2: Cố gắng hiểu những khó khăn của đối phương và
không tạo cảm giác thúc ép
Những nhân tố bên ngoài có thể hạn chế khả năng đàm phán
thành công. Chúng ta sẽ cảm thấy mình bị ép phải thỏa thuận
qua những lời khuyên của luật sư, hoặc chính sách doanh nghiệp
vốn không cho phép nhân nhượng, hay do sợ tạo ra một tiền lệ
nguy hiểm, hoặc do đã từng chịu ơn đối thủ đàm phán, hoặc sức
ép thời gianTương tự, đối thủ đàm phán cũng có những sức ép
khiến họ có hành động vượt khỏi dự tính. Tất cả những điều này
có thể dẫn tới đổ bể và gây thiệt hại cho cả hai bên. Tuy nhiên,
thật không may, ta hầu như không bao giờ có thể biết được đối
thủ hiện đang phải chịu những sức ép gì.
Tất cả những nhà đàm phán thành công đều cố gắng phát hiện ra
những sức ép mà đối thủ hiện đang phải chịu, rồi giúp họ vượt
qua nó. Trên thực tế, các nhà đàm phán điều tra không bao giờ
coi những sức ép đối thủ hiện phải chịu đơn giản chỉ là “vấn đề
của riêng họ”.
Kinh nghiệm của một công ty có tên HomeStuff sẽ giải thích
cho chúng ta nguyên nhân tại sao. HomeStuff là một công ty sản
xuất đồ gia dụng. CEO của hãng hiện đang đàm phán hợp đồng
mua thiết bị kỹ thuật của một nhà cung cấp có tên là Kogs. Hai
vấn đề chính cần được đưa ra bàn thảo là giá và ngày giao hàng.
HomeStuff muốn trả giá thấp và nhận hàng tức thì, trong khi
Kogs lại muốn bán giá cao và cần nhiều thời gian hơn để giao
hàng.
Cuối cùng, hai bên nhất trí giá lô hàng ở mức 17 triệu US$ và
giao trong vòng 3 tháng. Đại diện của Kogs nói: “Đáp ứng được
thời hạn cuối là điều khó khăn, nhưng rồi công ty tôi sẽ cố gắng
thực hiện”. Vị CEO của HomeStuff giờ đã có thể kết thúc cuộc
nói chuyện ở đây (thỏa thuận đã đạt được và việc đáp ứng thời
hạn giao hàng giờ là vấn đề của nhà cung cấp), nhưng ông quyết
định phải tìm hiểu rõ hơn. Rồi ông biết, việc giao hàng trong
vòng 3 tháng sẽ khiến nhà cung cấp phải chi phí thêm gần 1
triệu US$, vì vậy ông nghĩ rằng, HomeStuff có thể chấp nhận
thời hạn giao hàng muộn hơn, nếu Kogs giảm giá chút ít. Tuy
nhiên, đại diện của Kogs trả lời: “Chúng tôi đánh giá cao lời đề
nghị, nhưng tôi không thể giảm giá một khối lượng hàng lớn
như thế”.
Tò mò, vị CEO của HomeStuff hỏi dồn: “Tôi rất ngạc nhiên khi
thấy việc giao hàng trong vòng 3 tháng lại gây thiệt hại cho công
ty của ông. Hãy cho tôi biết về quy trình sản xuất của Kogs để
tôi có thể hiểu rõ tại sao công ty không thể sản xuất rẻ hơn trong
cùng thời gian”. Đại diện của Kogs đã trả lời: “À, dây chuyền
sản xuất không phải là vấn đề, chúng tôi có thể dễ dàng sản xuất
khối lượng sản phẩm này trong vòng 3 tháng, nhưng chúng tôi
không thể có được hợp đồng vận chuyển bằng tàu thủy rẻ trong
khoảng thời gian này”.
Vị CEO của HomeStuff nghe vậy cảm thấy rất ngạc nhiên. Công
ty ông thường phải vận chuyển hàng nhanh và luôn chuẩn bị sẵn
hợp đồng với các công ty tàu thủy. Sử dụng dịch vụ này,
HomeStuff thậm chí có thể giao hàng trong khoảng thời gian
ngắn hơn với mức giá phải trả thấp hơn.
Vậy là vị CEO đưa ra lời đề nghị tiếp theo, và ngay lập tức được
phía nhà cung cấp chấp nhận: HomeStuff sẽ chuẩn bị đưa tàu
của mình đến nhận hàng trong vòng 2 tháng rưỡi, và nhà cung
cấp sẽ phải chi trả chi phí đó. Kết cuộc, giá tổng hợp đồng được
giảm từ 17 triệu xuống còn 16,5 triệu US$.
Vậy đấy. Câu chuyện này đã chứng minh: Vấn đề của đối
phương có thể dễ dàng trở thành vấn đề của chính bạn. Thông
thường, khi đối thủ đàm phán từ chối đáp ứng các yêu cầu bạn
đưa ra, thì có nhiều khả năng đó là do lợi ích bản thân đối
phương đang bị xâm hại, nhưng trên thực tế cái gì cũng có
nguyên nhân. Thông qua điều tra, nhà đàm phán hoàn toàn có
thể thấy mình sẽ giúp ích được cho đối phương, giúp họ cởi bỏ
áp lực và biến điều đó thành lợi thế của mình.