NGÔN NGỮ : Người Cơ Ho, còn gọi là Cờ Ho, Kơ Ho, hoặc Kơho, K'Ho , là một dân tộc trong số 54 dân tộc tại Việt Nam. Người Cơ Ho nói tiếng Cơ Ho, ngôn ngữ thuộc ngữ chi Ba Na thuộc Ngữ hệ Nam Á
DÂN SỐ: Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Cơ Ho ở Việt Nam có dân số 166.112 người, cư trú tại 46 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Cơ Ho cư trú tập trung tại các tỉnh: Lâm Đồng, Bình Thuận, Khánh Hòa , Ninh Thuận
BỘ TỘC : người Cơ Ho được phân biệt bởi địa bàn cư trú, sinh hoạt cũng như ngôn ngữ, và được chia thành các nhóm như : Cơ Ho Srê, Cơ Ho Chil , Cơ Ho Lạch, Cơ Ho Nộp, Cơ Ho Cờ Dòn, Cơ Ho T'ring ...
4 trang |
Chia sẻ: candy98 | Lượt xem: 779 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Dân tộc K’Ho - Lâm Đồng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
DÂN TỘC K’HO
Đến Lâm Đồng,không ai nói không biết dân tộc K'Ho.Họ đại diện cho phần lớn dân tộc thiểu số vùng cao nguyên Lâm Viên.
NGÔN NGỮ : Người Cơ Ho, còn gọi là Cờ Ho, Kơ Ho, hoặc Kơho, K'Ho , là một dân tộc trong số 54 dân tộc tại Việt Nam. Người Cơ Ho nói tiếng Cơ Ho, ngôn ngữ thuộc ngữ chi Ba Na thuộc Ngữ hệ Nam Á
DÂN SỐ: Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Cơ Ho ở Việt Nam có dân số 166.112 người, cư trú tại 46 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Cơ Ho cư trú tập trung tại các tỉnh: Lâm Đồng, Bình Thuận, Khánh Hòa , Ninh Thuận
BỘ TỘC : người Cơ Ho được phân biệt bởi địa bàn cư trú, sinh hoạt cũng như ngôn ngữ, và được chia thành các nhóm như : Cơ Ho Srê, Cơ Ho Chil , Cơ Ho Lạch, Cơ Ho Nộp, Cơ Ho Cờ Dòn, Cơ Ho T'ring ...
PHONG TỤC – TẬP QUÁN : người Cơ Ho Thờ nhiều thần linh như thần Mặt Trời, thần Núi, thần Sông... người cơ ho có tổ chức gia đình theo “ Chế Độ Mẫu Hệ “,Người con gái đóng vai trò chủ động trong hôn nhân ( tục lệ bắt chồng ). Hôn nhân một vợ, một chồng bền vững, đôi vợ chồng sống tại nhà vợ. con mang họ của mẹ.
SINH HOẠT : Người Cơ Ho thường ăn ba bữa, theo tập quán ăn bốc, lương thực chính là gạo ăn với thực phẩm như cá, thịt, rau . Các món ăn thường chế biến khô để thuận tiện cho ăn bốc. Thức uống là nước suối, được trữ nước uống là những quả bầu khô. Mọi sinh hoạt chủ yếu (ăn uống, nghỉ ngơi, tiếp khách) đều diễn ra quanh bếp lửa trong nhà.
NHÀ Ở: của người Cơ-ho là nhà sàn dài, mái lợp tranh, phía trước cửa nhà có cầu thang lên xuống. Nhiều nhà quây quần lại thành làng.
TRANG PHỤC: trang phục của đàn ông là khố bằng vải bản rộng, dài khoảng 1,5 – 2 m, có hoa văn theo dải dọc. Phụ nữ dùng váy bằng một tấm vải quấn quanh người rồi giắt cạp. Vay nền đen, có diềm hoa văn trắng. Nếu thời tiết lạnh, họ khoác thêm chăn (ùi) ra ngoài. Phụ nữ dùng vòng cổ, vòng tay, cườm và khuyên căng tai làm đồ trang sức.
LỄ HỘI: Hàng năm, người Cơ Ho tổ chức ăn Tết khi mùa màng đã thu hoạch xong (thường vào tháng 12 dương lịch). Tết này có ý nghĩa đón lúa về nhà. Theo tập quán, các gia đình thay phiên nhau mỗi năm hiến một con trâu để cả bon tổ chức lễ đâm trâu.Thịt trâu được chia cho từng gia đình, còn máu trâu bôi vào trán những người dự lễ như một sự cầu phúc. Lễ tết kéo dài 7 - 10 ngày. Sau Tết, người ta mới được ăn lúa mới và thực hiện các công việc lớn như làm nhà, chuyển làng...
VĂN HÓA – VĂN NGHỆ : Dân tộc K’ho có đời sống văn nghệ phong phú, độc đáo. Thơ ca của họ đậm chất trữ tình giàu nhạc điệu. Vũ khúc cổ truyền được trình diễn trong các lễ hội. Nhạc cụ truyền thống như bộ cồng chiêng 6 chiếc, kèn ống bầu, đàn ống tre, trốngtạo thành những dàn hòa âm hoặc độc tấu.
KINH TẾ : Sống chủ yếu bằng lúa rẫy và lúa nước. Công cụ làm rẫy gồm rìu, xà gạt, xà bách, gậy chọc lỗ...
Ngày nay bà con người K’ho đã có sự giao lưu, tiếp nhận cuộc sống hiện đại cùng các dân tộc khác, nhưng cộng đồng người K’ho vẫn trân trọng gìn giữ nền văn hoá truyền thống, bản sắc của dân tộc mình. Các thành viên của buôn làng K’ho luôn có ý thức củng cố sự bền vững và đoàn kết của dòng họ, giữ gìn đất rừng, nguồn nước, những tài sản được coi là của chung, tuân thủ và thực hiện tự giác các luật tục truyền thống của dân tộc mình.
Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên
Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên được UNESCO công nhận là Kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại vào ngày 15 tháng 11 năm 2005. Sau Nhã nhạc cung đình Huế, đây là di sản thứ hai của Việt Nam được nhận danh hiệu.
Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên trải rộng suốt 5 tỉnh Đắk Lắk, Gia Lai, Kon Tum, Đắk Nông và Lâm Đồng, Chủ nhân của loại hình văn hóa đặc sắc này là cư dân các dân tộc Tây Nguyên như Êđê, Ba na, Xơ đăng, Gia rai, M’nông, Cơ ho
Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên bao gồm các yếu tố bộ phận sau: cồng chiêng, các bản nhạc tấu bằng cồng chiêng, những người chơi cồng chiêng, các lễ hội có sử dụng cồng chiêng (Lễ mừng lúa mới, Lễ cúng Bến nước...), những địa điểm tổ chức các lễ hội đó (nhà dài, nhà rông, rẫy, bến nước, nhà mồ, các khu rừng cạnh các buôn làng Tây Nguyên,...), v.v.
Cồng chiêng là loại nhạc khí bằng hợp kim đồng, có khi pha vàng, bạc hoặc đồng đen . thường được dùng trong các buổi cúng tế và trong các lễ hội. Cồng là loại có núm, chiêng không núm. Nhạc cụ này có nhiều cỡ, đường kính từ 20cm đến 60cm, loại cực đại từ 90cm đến 120cm. Cồng chiêng có thể được dùng đơn lẻ hoặc dùng theo dàn, bộ từ 2 đến 12 hoặc 13 chiếc, thậm chí có nơi từ 18 đến 20 chiếc. Trong một bộ chiêng, chiếc chiêng mẹ (chiêng cái) là quan trọng nhất. Cồng chiêng có thể được gõ bằng dùi hoặc đấm bằng tay.
Cồng chiêng gắn bó mật thiết với cuộc sống của các tộc người Tây Nguyên, là tiếng nói của tâm linh, tâm hồn con người, để diễn tả niềm vui, nỗi buồn trong cuộc sống, trong lao động và sinh hoạt hàng ngày của họ. Cồng chiêng càng cổ thì quyền lực của vị thần càng cao. Cồng chiêng còn là tài sản quý giá, biểu tượng cho quyền lực và sự giàu có. Đã có thời một chiếc chiêng giá trị bằng hai con voi hoặc 20 con trâu.
Nhằm quảng bá hình ảnh không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên đồng thời bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa của cư dân các dân tộc, hằng năm người ta tổ những lễ hội Cồng Chiêng Tây Nguyên như: lễ Đâm trâu, Mừng nhà rông, Mừng lúa mới, Mừng đám cưới, Mừng được mùa, Bỏ mả Hiện tại, ở các vùng có cồng chiêng như ở Tây nguyên, Lễ hội Cồng chiêng được tổ chức hàng năm là một hoạt động vừa có ý nghĩa bảo tồn bản sắc văn hóa vừa là một sản phẩm du lịch ăn khách.
Cồng Chiêng Đà Lạt: Đến với không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên tại Đà Lạt du khách sẽ được hòa mình vào những giai điệu, những âm vang cồng chiêng của dân tộc k’ho, bên ánh lửa hồng bập bùng, ấm áp. Và được tìm hiểu khám phá rõ hơn và tham gia những nghi lễ tập tục truyền thống của người dân k’ho vùng cao nguyên lộng gió. Cồng chiêng Đà Lạt là 1 nét văn hóa đặc sắc du lịch của du lịch Đà Lạt
Theo quan niệm của người Tây Nguyên, đằng sau mỗi chiếc cồng, chiêng đều ẩn chứa một vị thần. Cồng chiêng càng cổ thì quyền lực của vị thần càng cao. Cồng chiêng còn là tài sản quý giá, biểu tượng cho quyền lực và sự giàu có. Vào những ngày hội, hình ảnh những vòng người nhảy múa quanh ngọn lửa thiêng, bên những vò rượu cần trong tiếng cồng chiêng vang vọng núi rừng, tạo cho Tây Nguyên một không gian lãng mạn và huyền ảo. Cồng chiêng do vậy góp phần tạo nên những sử thi, những áng thơ ca đậm chất văn hóa Tây Nguyên vừa lãng mạn, vừa hùng tráng.
Đà Lạt mộng mơ là điểm đến vừa yên bình nên thơ với thảm thực vật rực rỡ sắc màu, vừa ngập tràn tiếng cồng chiêng mỗi khi đêm về bên bếp lửa hồng.
Được UNESCO công nhận là "Kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại" vào năm 2005, cồng chiêng trở thành đại diện thứ hai của nước ta đón nhận danh hiệu này. Theo quan niệm của đồng bào dân tộc Tây Nguyên, trong từng chiếc cồng, chiếc chiêng luôn có hiện thân của những vị thần nên đây là nhạc cụ không thể thiếu của những buổi lễ quan trọng như: lễ thổi tai cho trẻ sơ sinh, lễ chúc sức khoẻ, lễ mừng nhà rông mới, mừng chiến thắng, lễ cầu an cho cây lúa Cồng chiêng còn là hiện thân của tính cộng đồng và gắn liền với tính cách mạnh mẽ của con người cao nguyên.
chương trình giao lưu văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên diễn ra hàng đêm tại khu du lịch Đồi Mộng Mơ, du khách sẽ được hòa mình vào đêm hội văn hóa Tây Nguyên với vũ điệu rộn ràng, thưởng thức những xiên thịt nướng thơm lừng và nếm những ngụm rượu cần ấm nồng.
Trong ánh lửa bập bùng, không gian văn hóa của đồng bào bản địa nơi đây được tái hiện, du khách sẽ được nghe những bài ca núi rừng và cùng tôn vinh kiệt tác văn hóa phi vật thể của nhân loại. Tất cả đã tạo thành một nét đẹp văn hóa đa sắc màu riêng biệt của Đà Lạt mà bất cứ ai cũng không nên bỏ qua.
Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên trải rộng suốt 5 tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đăk Lăk, Đăk Nông và Lâm Đồng. Chủ nhân của di sản văn hóa quý giá và đặc sắc này là 17 dân tộc thiểu số thuộc nhóm ngôn ngữ Nam Á (Austro-Asian) và Nam đảo (Austronesian) sống trên khu vực cao nguyên trung bộ của Việt Nam. Chứa đựng bên trong mỗi chiếc chiêng, chiếc cồng là một vị thần. "Cồng chiêng càng già thì thần linh càng mạnh và càng thiêng". Hầu như nhà nào cũng có cồng chiêng, thậm chí có gia đình có tới vài bộ. Điều này thể hiện sự giàu có và quyền thế, đồng thời cũng là vật che chắn, bảo vệ cho gia đình.
Bao đời nay, cồng chiêng gắn với Tây Nguyên như một phần không thể thiếu trong suốt vòng đời mỗi con người và trong hầu như tất cả sự kiện quan trọng của cộng đồng: từ lễ thổi tai cho trẻ sơ sinh, lễ cưới xin, lễ tiễn đưa người chết, lễ đâm trâu trong ngày bỏ mả cho đến lễ cúng máng nước, mừng lúa mới, lễ đóng cửa kho, lễ mừng nhà rông mới Ngày 25/11/2005, Tổng giám đốc Tổ chức Văn hóa - Khoa học và Giáo dục Liên Hợp Quốc (UNESCO) Koichiro Matsuura đã trân trọng trao bằng công nhận kiệt tác di sản phi vật thể “Văn hóa cồng chiêng các dân tộc Tây Nguyên - Việt Nam”.
Nhằm gìn giữ và phát huy giá trị của di sản văn hóa cồng chiêng, các cơ quan chức năng cùng cộng đồng cần có những hành động cụ thể nhằm khôi phục các giá trị truyền thống, trả lại cho cồng chiêng linh hồn và cuộc sống đích thực của nó. Đồng thời, kêu gọi các doanh nghiệp ngành du lịch đừng quá ỷ lại vào thế mạnh của thiên nhiên, của di sản.. mà quên đi việc tạo ra các sản phẩm tương đồng thu hút du khách.