Trong lịch sử loài người, nông nghiệp là nguồn chủ yếu cung cấp lương thực thực phẩm, và cho đến nay, nông nghiệp vẫn là ngành duy nhất tạo ra lương thực cho loài người. Ngoài việc cung cấp lương thực cho loài người, nông nghiệp còn có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế của mỗi nước, nhất là đối với những nước đang phát triển có tỉ lệ cơ cấu nông nghiệp giữ vị trí chủ đạo.
Ruộng đất và nông dân là những yếu tố cơ bản của nông nghiệp và nông thôn. Ruộng đất là tư liệu sản xuất quan trọng nhất, là tư liệu sản xuất đặc biệt không gì có thể thay thế được, còn nông dân lao động lại là nhân tố quyết định của quá trình sản xuất “ruộng đất là cha, đất là mẹ của của cải vật chất”.
Có thể nói ruộng đất là tư liệu sản xuất quan trọng, thứ tài sản quý giá của cư dân nông nghiệp. Ở Việt Nam, tuyệt đại đa số cư dân sống bằng nghề trồng lúa nước và làm nông nghiệp, cho nên, ruộng đất lại càng trở nên quan trọng và quý giá hơn. Bởi vậy mà đất đai cần phải được tổ chức, quản lý, khai thác và sử dụng một cách hợp lý và khoa học nhằm phục vụ đắc lực cho sự phát triển chung của cả nền kinh tế - xã hội. Giữa nông dân và ruộng đất có mối quan hệ: hoặc nông dân chỉ là người làm thuê trên mảnh đất của người khác hoặc họ sẽ là người làm chủ quá trình sản xuất và thu nhập từ đất đai khi họ là chủ ruộng.
65 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2209 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đảng bộ huyện Phú Lương (Thái Nguyên) lãnh đạo thực hiện chính sách ruộng đất (từ 1997 đến 2008), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Trong lịch sử loài người, nông nghiệp là nguồn chủ yếu cung cấp lương thực thực phẩm, và cho đến nay, nông nghiệp vẫn là ngành duy nhất tạo ra lương thực cho loài người. Ngoài việc cung cấp lương thực cho loài người, nông nghiệp còn có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế của mỗi nước, nhất là đối với những nước đang phát triển có tỉ lệ cơ cấu nông nghiệp giữ vị trí chủ đạo.
Ruộng đất và nông dân là những yếu tố cơ bản của nông nghiệp và nông thôn. Ruộng đất là tư liệu sản xuất quan trọng nhất, là tư liệu sản xuất đặc biệt không gì có thể thay thế được, còn nông dân lao động lại là nhân tố quyết định của quá trình sản xuất “ruộng đất là cha, đất là mẹ của của cải vật chất”.
Có thể nói ruộng đất là tư liệu sản xuất quan trọng, thứ tài sản quý giá của cư dân nông nghiệp. Ở Việt Nam, tuyệt đại đa số cư dân sống bằng nghề trồng lúa nước và làm nông nghiệp, cho nên, ruộng đất lại càng trở nên quan trọng và quý giá hơn. Bởi vậy mà đất đai cần phải được tổ chức, quản lý, khai thác và sử dụng một cách hợp lý và khoa học nhằm phục vụ đắc lực cho sự phát triển chung của cả nền kinh tế - xã hội. Giữa nông dân và ruộng đất có mối quan hệ: hoặc nông dân chỉ là người làm thuê trên mảnh đất của người khác hoặc họ sẽ là người làm chủ quá trình sản xuất và thu nhập từ đất đai khi họ là chủ ruộng.
Dưới thời kỳ phong kiến Việt Nam, Nhà nước phong kiến luôn luôn quan tâm đến vấn đề ruộng đất. Điều này được thể hiện ở việc các Nhà nước phong kiến Việt Nam luôn coi trọng việc khai hoang mở rộng diện tích ruộng đất. Tuy nhiên dưới thời kỳ phong kiến ruộng đất lại chủ yếu tập trung trong tay địa chủ, quan lại, quý tộc phong kiến, còn người nông dân lại hầu như không có ruộng đất để sản xuất.
Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt do Nguyễn Ái Quốc khởi thảo. Trong đó đã đề ra nhiệm vụ là chống đế quốc và chống phong kiến để giành lại độc lập dân tộc và ruộng đất cho dân cày. Với đường lối cách mạng đúng đắn nên Đảng đã nhận được sự hưởng ứng của đông đảo tầng lớp nhân dân lao động, từ đó đã làm nên thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám 1945 tiếp đó là cuộc kháng chiến chống Pháp (1945-1954).
Theo như lời của Mác trong Tuyên ngôn Đảng cộng sản (1848) thì “cách mạng ruộng đất là điều kiện để giải phóng dân tộc”. Bởi vậy mà sau khi miền Bắc hoàn toàn được giải phóng, Đảng và Chính phủ đã đề ra nhiều chính sách trong lĩnh vực ruộng đất, nông nghiệp và nông thôn. Đặc biệt tháng 11-1953, Ban chấp hành Trung Ương Đảng đã thông qua Cương lĩnh ruộng đất và quyết định cải cách ruộng đất trong kháng chiến. Đến tháng 12-1953, Quốc hội đã thông qua Luật cải cách ruộng đất và tiến hành cuộc cải cách ruộng đất. Sau đó từ năm 1958 trở đi, Đảng chủ trương tiến hành tập thể hoá nông nghiệp. Theo đó, toàn bộ miền Bắc trong đó có huyện Phú Lương - Thái Nguyên, hầu hết ruộng đất cũng như sản xuất nông nghiệp đều được tập thể hoá và đặt dưới sự quản lý của hợp tác xã. Tuy nhiên, trong quá trình tập thể hoá nông nghiệp, bên cạnh những mặt tích cực còn bộc lộ nhiều hạn chế, nhất là khâu quản lý và tổ chức sản xuất.
Năm 1975, đất nước được thống nhất, trước yêu cầu đổi mới và tiếp tục phát triển kinh tế nông nghiệp, ngày 5-4-1988, Nghị quyết 10 của Bộ chính trị, về đổi mới quản lý nông nghiệp ra đời. Theo đó, ruộng đất vẫn thuộc sở hữu của Nhà Nước nhưng người nông dân có quyền sử dụng ổn định, lâu dài. Ngoài ra họ còn có quyền chuyển nhượng, sang nhượng, cho thuê, thế chấp ruộng đất. Như vậy, về thực chất thì ruộng đất đã chuyển từ chế độ sở hữu tập thể sang chế độ công hữu tư dụng.
Kể từ sau Khoán 10 (1988) và đặc biệt sau khi thực hiện Nghị quyết về việc phân chia lại địa giới hành chính (6 -11 – 1996), thì huyện Phú Lương đã có nhiều thay đổi về điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội.Trên cơ sở của những sự thay đổi đó, đồng thời là dưới ánh sáng lãnh đạo của Trung ương Đảng, Đảng bộ huyện Phú Lương đã lãnh đạo nhân dân trong huyện thực hiện những chính sách ruộng đất mới một cách có hiệu quả. Nhờ đó mà kinh tế nông nghiệp nói riêng và toàn bộ nền kinh tế của huyện nói chung đã có nhiều những chuyển biến tích cực. Nhưng sự lãnh đạo của Đảng bộ Phú Lương trong việc thực hiện những chính sách ruộng đất mới như thế nào, những kết quả đạt được ra sao trong giai đoạn từ năm 1997 đến năm 2008 là một vấn đề lớn còn bỏ ngỏ. Nếu tìm hiểu được vấn đề này sẽ góp phần cho chúng ta thấy được cái nhìn tổng quát về quá trình lãnh đạo thực hiện chính sách ruộng đất của Đảng bộ Phú Lương và những kết quả to lớn mà Đảng bộ và nhân dân trong huyện đã đạt được, đồng thời rút ra được một số bài học kinh nghiệm trong quá trình lãnh đạo thực hiện chính sách ruộng đất của Đảng và nâng cao hiệu quả sử dụng ruộng đất cho người nông dân.
Xuất phát từ những lý do trên đây, tôi chọn đề tài: “Đảng bộ huyện Phú Lương (Thái Nguyên) lãnh đạo thực hiện chính sách ruộng đất (từ 1997 đến 2008)” làm khóa luận tốt nghiệp.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.
Từ trước đến nay, vấn đề ruộng đất đã được trình bày trong nhiều tác phẩm của các nhà lãnh đạo Đảng ta và các nhà nghiên cứu khoa học tự nhiên và xã hội.
Về lịch sử chế độ ruộng đất thời kỳ cổ trung đại và cận đại có các tác phẩm như: Chế độ ruộng đất ở Việt Nam thế kỷ XI-XVII của Trương Hữu Quýnh, Nxb Khoa học xã hội,tập 1, HN,1982, tập 2, HN, 1983.
Về vấn đề ruộng đất trong thời kỳ cách mạng dân tộc, dân chủ, trước hết phải kể đến tác phẩm: Vấn đề dân cày, Đức Cường, xuất bản năm 1937 của Qua Ninh và Vân Đình (Trường Chinh và Võ Nguyên Giáp); Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tập 1, tập2, Nxb Sự Thật, HN, 1975 của đồng chí Trường Chinh
Về vấn đề ruộng đất và nông nghiệp, nông thôn trong thời kỳ đổi mới có những tác phẩm như: Vấn đề ruộng đất ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, HN, 2007 của Lâm Quang Huyên.
Về vấn đề “Đảng bộ huyện Phú Lương (Thái Nguyên) lãnh đạo thực hiện chính sách ruộng đất của Đảng (1997-2008)” mới chỉ được trình bày một cách sơ lược ở các cuốn sách như: Quá trình thực hiện quyền sở hữu ruộng đất cho nông thôn ở Thái Nguyên (1945-1957), Nxb Chính trị quốc gia, HN, 2002 của TS. Nguyễn Duy Tiến, Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên, tập 1 (1936-1965), tập 2 (1965-2000) Xuất bản năm 2005. Lịch sử Đảng bộ huyện Phú Lương (1930-1954), huyện uỷ Phú Lương xuất bản năm 1996; Lịch sử Đảng bộ huyện Phú Lương (1955 – 2000), Huyện Uỷ Phú Lương xuất bản năm 2005; Luận văn Thạc sĩ của Phí Văn Liệu “sở hữu và sử dụng ruộng đất ở tỉnh Thái Nguyên (1988-2005)”…
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đây đã phác họa được bức tranh toàn cảnh về vấn đề ruộng đất, nông nghiệp ở nước ta thời kỳ phong kiến tự chủ đến nay. Nhưng vấn đề “Đảng bộ huyện Phú Lương lãnh đạo thực hiện chính sách ruộng đất của Đảng (1997-2008)” vẫn chưa có một công trình khoa học nào được công bố. Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu trước đây đã giúp cho tôi phương hướng và phương pháp tiếp cận để tiếp tục đi sâu nghiên cứu mà tôi đã đặt ra.
3. Đối tượng, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.
+ Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Tìm hiểu về quá trình lãnh đạo của Đảng bộ huyện Phú Lương trong việc thực hiện chính sách ruộng đất của Đảng (1997 – 2008).
+ Nhiệm vụ nghiên cứu
Tìm hiểu những chính sách về ruộng đất của Đảng trong giai đoạn (1997 – 2008) và biện pháp được Đảng bộ huyện Phú Lương lãnh đạo thực hiện trong giai đoạn trên
Đánh giá sự tác động của các chính sách ruộng đất ảnh hưởng tới huyện Phú Lương sau những chính sách đó.
Tìm hiểu những mặt mạnh, những vấn đề còn yếu kém ở địa phương trong quá trình sản xuất từ đó đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả, năng suất, chất lượng và giảm thiểu những khó khăn cho người nông dân.
+ Giới hạn nghiên cứu
Vấn đề Đảng lãnh đạo thực hiện chính sách ruộng đất là một vấn đề rộng, liên quan đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Do đó, trong đề tài này tôi chỉ giới hạn nghiên cứu ở những nội dung cơ bản sau:
- Nghiên cứu về quá trình lãnh đạo thực hiện chính sách ruộng đất của Đảng bộ Phú Lương trong giai đoạn (1997 – 2008).
- Kết quả những chính sách liên quan đến phát triển kinh tế nông nghiệp huyện Phú Lương (1997 – 2008), những thành tựu, hạn chế.
- Thời kỳ đất nước tiến hành công nghiệp hóa – hiện đại hóa, bộ mặt nông nghiệp, nông thôn đã thay đổi như thế nào và những phương pháp mới để nâng cao chất lượng ruộng đất và hiệu quả cây trồng.
+ Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi địa bàn được nghiên cứu của đề tài là toàn bộ huyên Phú Lương từ năm 1997 đến năm 2008.
- Phạm vi thời gian được đề tài nghiên cứu là từ khi có Nghị quyết về việc chia lại địa giới hành chính đến năm 2005.
4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
* Nguồn tài liệu.
Tài liệu thông sử: Giáo trình lịch sử Việt Nam, tập 1, tập 2, tập 3; Các tác phẩm thông sử khác được công bố và xuất bản…
Tài liệu lưu trữ: Các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng về việc thực hiện các chính sách ruộng đất, các báo cáo về tình hình ruộng đất, Niên giám thống kê, Tổng kiểm kê đất đai hiện đang được lưu trữ tại Uỷ ban nhân dân tỉnh Thái nguyên, Tỉnh uỷ Thái Nguyên, Uỷ ban nhân dân huyện Phú Lương , Huyện uỷ Phú Lương, Chi cục thống kê tỉnh Thái Nguyên…
Tài liệu chuyên khảo: quá trình thực hiện quyền sở hữu ruộng đất cho nông dân ở Thái Nguyên (1945-1957), Nxb Chính trị quốc gia, HN, 2002 của PGS, TS. Nguyễn Duy Tiến, Luận văn Thạc sĩ của Phí Văn Liệu “sở hữu và sử dụng ruộng đất ở tỉnh Thái Nguyên (1988-2005)”.
* Phương pháp nghiên cứu
Từ nguồn tư liệu trên, tác giả đã sử dụng phương pháp lịch sử, phương pháp logic là chủ yếu. Ngoài ra, đề tài còn sử dụng các phương pháp khác như: phương pháp thống kê, phân tích, so sánh. Trong đó thì việc phân tích các số liệu thống kê, các báo cáo tổng kết được coi trọng.
5. Đóng góp của đề tài.
- Làm rõ được quá trình lãnh đạo của Đảng bộ Phú Lương trong việc lãnh đạo thực hiện chính sách ruộng đất của Đảng, tình hình sở hữu và quan hệ sử dụng ruộng đất ở huyện Phú Lương từ 1997-2008 về các phương diện: Sở hữu ruộng đất, phương thức khai thác ruộng đất.
- Chỉ ra thực trạng khai thác ruộng đất ở Phú Lương trong những năm từ 1997-2008, đồng thời nêu ra được những bài học kinh nghiệm trong quá trình lãnh đạo thực hiện chính sách ruộng đất của Đảng, những giải pháp nhằm nâng cao hiệu suất sử dụng ruộng đất cho người nông dân. Qua đó, góp phần giúp các nhà hoạch định hiểu rõ và đề ra được những chính sách phù hợp để thúc đẩy nền kinh tế nông nghiệp của huyện phát triển, giúp nông dân Phú Lương sử dụng ruộng đất một cách hợp lý để không làm lãng phí nguồn tư liệu quý giá mà thiên nhiên đã ban tặng.
6. Cấu trúc của đề tài.
Đề tài gồm ba phần: Mở đầu, nội dung và kết luận.
Phần nội dung gồm có ba chương:
Chương 1. Khái quát về huyện Phú Lương.
Chương 2. Đảng bộ huyện Phú Lương (Thái Nguyên) lãnh đạo thực hiện chính sách ruộng đất của Đảng (1997 – 2008).
Chương 3. Những thành tựu, hạn chế và bài học kinh nghiệm trong quá trình lãnh đạo thực hiện chính sách ruộng đất của Đảng bộ huyện Phú Lương.
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN PHÚ LƯƠNG
1.1. Điều kiện tự nhiên.
Phú Lương là một huyện miền núi, nằm ở phía bắc của tỉnh Thái Nguyên, thuộc vùng trung du miền núi Bắc Bộ. Nhờ nằm ở vị trí đó mà Phú Lương nói riêng và Thái Nguyên nói chung là vùng đệm nối giữa các tỉnh trung du miền núi phía Bắc với đồng bằng sông Hồng. Phú Lương nằm cách thành phố Thái Nguyên 22km về phía Tây Bắc. Huyện Phú Lương thuộc tỉnh Thái Nguyên với diện tích là 368,82km2. Trong đó, đất nông nghiệp 119,79 km2, đất lâm nghiệp 164,98 km2 , diện tích đất nuôi trồng thủy sản 6,65km2 , đất phi nông nghiệp 46,63 km2, đất chưa sử dụng 31,64 km2. Phú Lương có 14 xã, 2 thị trấn và được giới hạn với hệ tọa độ địa lý như sau: 21035’23”- 21055’06” vĩ độ Bắc và 105037’04” - 105048’02” kinh độ đông. Phía Bắc giáp huyện Chợ Mới (Bắc Kạn), huyện Định Hóa tỉnh Thái Nguyên; phía đông giáp huyện Đồng Hỷ, phía Nam và Đông Nam giáp huyện Đại Từ, thành phố Thái Nguyên.
Về địa hình: Phú Lương nằm trong hệ kiến tạo hình thành địa hình của tỉnh Thái Nguyên, huyện Phú Lương thuộc phần cuối của cánh cung Ngân Sơn. Cho nên, đồi núi của Phú Lương có độ cao vừa phải, ngoài một số núi đá vôi thì phần nhiều là các đồi núi thấp được cấu tạo bằng các loại sa phiến thạch, sườn thoải, dạng đồi bát úp, hoặc đã được khai phá thành các ruộng bậc thang như hiện nay. Có thể nói địa hình của Phú Lương bao gồm có ba vùng rõ rệt đó là:
- Vùng núi cao, bao gồm các dãy núi cao nằm ở phía bắc của huyện. Đây là vùng có địa hình cao, chia cắt phức tạp do quá trình Castơ phát triển mạnh, có độ cao từ 500-1000 mét, độ dốc khoảng 25-300. Phân bố chủ yếu ở một số xã như Yên Ninh, Yên Lạc, Yên Trạch, Phủ Lý, Hợp Thành, Ôn Lương…
- Vùng đồi cao và núi thấp: là vùng chuyển tiếp giữa vùng núi cao ở phía bắc và vùng gò đồi ở phía nam. Vùng này bao gồm các dãy núi thấp đan chéo với các dãy đồi cao tạo thành các bậc thềm lớn và nhiều thung lũng. Được phân bố chủ yếu ở thị trấn Đu, xã Phấn Mễ, xã Động Đạt, thị trấn Giang Tiên, xã Vô Tranh… Vùng này thường có độ cao trung bình từ 100 đến 300 mét, độ dốc khoảng từ 150 - 250.
- Vùng gò đồi thường tập trung ở phía nam của huyện, là vùng thấp và đồng bằng. Địa hình tương đối bằng phẳng, xen giữa các đồi bát úp dốc thoải là các khu đất bằng. Vùng gò đồi được phân bố chủ yếu ở các xã như Giang Tiên, Cổ Lũng, Sơn Cẩm. Độ cao trung bình từ 30- 50 mét, độ dốc khoảng dưới 100.
Với địa hình, địa mạo như trên đã tạo cho Phú Lương có thế mạnh về quân sự. Trong điều kiện xảy ra chiến tranh thì Phú Lương có thể dễ dàng cùng với các địa phương khác trong tỉnh đoàn kết phát huy tác dụng hỗ trợ lẫn nhau, kết hợp giữa tấn công và phòng ngự. Bởi vậy mà trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược Phú Lương đã trở thành cửa ngõ bảo vệ cho An Toàn Khu (ATK), cơ quan đầu não của cách mạng. Hơn nữa với việc phân bố địa hình khá rõ nét thành các khu riêng biệt đã tạo điều kiện thuận tiện cho việc phân vùng kinh tế trong huyện với ba vùng đó là:
- Vùng Tây Bắc, gồm 6 xã Hợp Thành, Ôn Lương, Phủ Lý, Yên Đổ, Yên Ninh, Yên Trạch, tập trung phát triển kinh tế đồi rừng, mở rộng diện tích chè, trồng cây ăn quả, đảm bảo diện tích trồng cây lương thực.
- Vùng phía đông, gồm 4 xã Vô Tranh, Tức Tranh, Phú Đô, Yên Lạc, mở rộng diện tích chè, tăng diện tích chè cao sản, cải tạo diện tích chè hiện có, trồng cây ăn quả, cây lương thực.
- Vùng phía nam, gồm Động Đạt, thị trấn Đu, Phấn Mễ, thị trấn Giang Tiên, Cổ Lũng, Sơn Cẩm, tập trung đầu tư thâm canh cây lương thực, ổn định diện tích chè, cây ăn quả, phát triển công nghiệp- tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ.
Về tài nguyên khoáng sản: Phú Lương, nằm trong vùng sinh khoáng Đông Bắc Việt Nam, thuộc vành đai sinh khoáng Thái Bình Dương, cho nên, trong lòng đất của Phú Lương có nguồn tài nguyên khoáng sản phong phú về chủng loại cũng như trữ lượng, đặc biệt là các loại khoáng sản chiếm ưu thế trong nền kinh tế quốc dân như: than đá, quặng sắt (Phấn Mễ, Động Đạt), quặng Titan (Động Đạt)…
Về đất đai: Tài nguyên đất đai của Phú Lương khá đa dạng về nhiều loại đất nhưng trong đó chủ yếu là đất Ferarit, đất đá vôi, đất ruộng. Đặc điểm đất đai của Phú Lương phụ thuộc rất nhiều vào đặc điểm của đá mẹ và lớp phủ thực vật. Đá mẹ được cấu tạo chủ yếu bằng các loại khoáng có tính Bazơ hoặc trung tính. Trên thực tế đất nào có lớp phủ thực vật thì đất đai phì nhiêu hơn do đất quanh năm được giữ ẩm. Ngoài ra, ở Phú Lương đất đai còn có các loại đất ruộng khác như: đất cát, đất thịt, đất bùn, .. Khu vực đất đồi rất thích hợp cho việc trồng các loại cây công nghiệp như: cà phê, chè, …và các loại cây dược liệu khác như: quế, hồi, …Trong đó thì cây chè là một loại cây rất thích hợp với thổ nhưỡng của Phú Lương. Ngoài ra đây còn là nơi tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển các loại cây lấy gỗ khác như: keo, bạch đàn, mỡ…Vùng đồi còn là nơi rất thuận lợi cho việc chăn nuôi đại gia súc như: Trâu, bò, dê ….Vùng đất ruộng và những bãi bồi ven sông là nơi thuận lợi cho việc trồng các loại cây lương thực trong đó quan trọng nhất là cây lúa nước, ngoài ra là ngô, khoai, sắn, lạc…
Động thực vật: Phú Lương nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa nên mang đặc trưng của miền nhiệt đới, bởi vậy mà nguồn động thực vật của Phú Lương rất phong phú và đa dạng. Theo sách Đại Nam nhất thống trí của Quốc sử quán triều Nguyễn thì Phú Lương gồm có các loại thực vật như: Cỏ tranh, lá cọ, các loại mây, tre nứa, gỗ lim, gỗ sến, gỗ táu, gỗ xoan, …. Các loại động vật thì có: Hươu, gấu, ong, chim công …
Về sông ngòi: Phú Lương có mật độ sông suối khá lớn, bình quân 0,2km/km2, có trữ lượng nước đủ để cung cấp cho sản xuất và sinh hoạt của cư dân toàn huyện. Các sông, suối trên địa bàn huyện phân bố tương đối đều cho các xã, thuận lợi cho việc phát triển thủy lợi. Sông Đu và các nhánh sông của nó nằm ở phía bắc huyện, nhánh chính dài 10 km, tổng chiều dài của hệ thống sông Đu khoảng 45km. Nó có vai trò rất quan trọng đối với đời sống sinh hoạt và sản xuất của cư dân Phú Lương. Ngoài ra, hàng năm sông Đu cung cấp một nguồn thực phẩm dồi dào và cơ bản cho đồng bào Phú Lương, bởi vậy mà từ xa xưa trong nhân dân đã lưu truyền câu thành ngữ “Cơm làng Giá, cá làng Đu”. Sông Cầu là sông lớn nhất chảy qua địa bàn huyện Phú Lương, với chiều dài là 17km. Sông Cầu là nguồn cung cấp nước chủ yếu đảm bảo cho sinh hoạt và sản xuất cho các xã phía nam của huyện.
Về khí hậu: Phú Lương nằm hoàn toàn trong vùng nội chí tuyến nên Phú Lương có khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều, có hai mùa rõ rệt mùa nóng (mưa nhiều) từ tháng 5 đến tháng 10; mùa lạnh (ít mưa) từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, nhiệt độ trung bình năm của Phú Lương dao động từ 250 đến 300 C, lượng mưa trung bình từ 1800- 2000mm, độ ẩm trung bình khoảng 80%. Lượng nước bốc hơi hàng năm của huyện là khoảng 985,5mm, mùa lạnh lượng nước bốc hơi lớn hơn lượng mưa, độ ẩm (k) dưới 0,5 nên thường xuyên xảy ra khô, hạn.
Về giao thông đường bộ, huyện Phú Lương có 3 tuyến đường bộ chính là: Quốc lộ 3 (Hà Nội – Cao Bằng) chạy qua địa bàn 8 xã của huyện với chiều dài là 50km; Đường 254 từ km 31 lên Định Hóa; Quốc lộ 37 từ ngã ba Bờ Đậu (xã Cổ Lũng) qua địa bàn huyện Đại Từ sang tỉnh Tuyên Quang…Các tuyến giao thông này mang lại cho huyện Phú Lương nhiều thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội và an ninh - quốc phòng.
Với điều kiện tự nhiên thuận lợi như trên đã khẳng định Phú Lương là một huyện có nhiều tiềm năng và lợi thế để phát triển nền nông nghiệp, lâm nghiệp và công nghiệp. Bởi vậy mà xuất phát từ những đặc điểm về điều kiện tự nhiên và yêu cầu phát triển của địa phương mà Phú Lương hoàn toàn có điều kiện để vươn lên, phát triển kinh tế theo hướng toàn diện trên cơ sở nền nông nghiệp phát triển bền vững.
1.2. Điều kiện kinh tế, xã hội.
Theo số liệu thống kê, “trong giai đoạn trước năm 1945 Phú Lương có chưa tới 10.000 người, trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp là: 13.700 người, trong những năm 70 của thế kỷ XX là: 54.676 người, năm 1989: 107.390 người, năm 1996: 110.000người, tới năm 2006 Phú Lương có 106.257 người”.[3; Tr 293]. Phú Lương từ lâu là địa bàn cư trú của nhiều dân tộc. Hiện nay, Phú Lương có nhiều dân tộc anh em cùng chung sống, “dân tộc Kinh chiếm 54,2%, Tày 21,1%, Sán Chay 8,05%, Nùng 4,5%, Sán Dìu 3,2%, còn 4,82% là người dân tộc Thái, Hoa, H’Mông và một số dân tộc khác. Mật độ dân số là: 288,05 người/km2, Yên Ninh là xã có mật độ thấp nhất: 137 người/ km2, thị trấn Đu có mật độ cao nhất: 1962 người/ km2.Từ năm 2000 – 2005, tỷ lệ gia tăng dân số tự nhiên: 1,7%, dân số trong nông nghiệp: 81,6%, bình quân: 2,1 lao động/ ha đất nông nghiệp”.[3; Tr 293 – 294] Cư dân ở đây gồm nhiều bộ phận hợp thành. Một bộ phận vốn là dân bản địa có mặt từ lâu đời. Một bộ phận là dân phu được tuyển mộ vào làm thuê cho bọn chủ tư bản Pháp trong các đồn điền và hầm mỏ. Một bộ phận khác vốn là đồng bào ở các tỉnh miền xuôi phiêu bạt, di cư lên khai phá đồi nương, mở rộng làng bản, sinh cơ lập nghiệp.
Mỗi dân tộc có những sắc thái riêng về phong tục tập quán. Mặc dù vậy, đồng bào không sống biệt lập mà thường sống xen kẽ trong cùng một xóm. Họ trở thành những ng