Đặt vấn đề: Đề kháng kháng sinh (KS) là nguyên nhân chính dẫn đến thất bại trong điều trị tiệt trừ
Helicobacter pylori (H. pylori) hiện nay.
Mục tiêu: Đánh giá đề kháng KS của Helicobacter pylori ở bệnh nhân (BN) viêm loét dạ dày - tá tràng
(VLDDTT) đã điều trị tiệt trừ thất bại.
Đối tượng và phương pháp: 102 BN đến khám và được nội soi tiêu hóa trên tại bệnh viện Đại học Y Dược
TP.HCM từ tháng 11-2012 đến 05-2013. Kháng sinh đồ được thực hiện theo phương pháp pha loãng KS trong
thạch.
Kết quả: Tỷ lệ đề kháng chung của từng loại KS lần lượt là: amoxicillin 13,7%, metronidazole 44,1%,
tetracycline 23,5%, clarithromycin 56,9%, và levofloxacin 25,5%. Tỷ lệ đề kháng KS trong nhóm BN đã thất bại
với 1 phác đồ điều trị: amoxicillin 13,6%, metronidazole 36,3%, tetracycline 19,7%, clarithromycin 44%, và
levofloxacin 25,7%. Tỷ lệ đề kháng KS trong nhóm BN đã thất bại với 2 phác đồ điều trị: amoxicillin 16,7%,
metronidazole 60%, tetracycline 30%, clarithromycin 66,7%, và levofloxacin 23,5%. Tỷ lệ đề kháng KS trong
nhóm BN đã thất bại từ 3 phác đồ trở lên: amoxicillin không đề kháng, kháng cao nhất là clarithromycin 83,3%.
Tỷ lệ đề kháng clarithromycin và metronidazole tăng theo số đợt điều trị. Đa số kháng 2 loại KS 32,3%, kháng 5
loại là 1%. Đặc biệt, có đến 26,4% BN không bị đề kháng với các KS hiện dùng nhưng vẫn bị thất bại điều trị, có
lẽ có liên quan đến nhiều yếu tố: sự tuân thủ, ức chế toan chưa tốt, sử dụng KS chưa đúng cách
Kết luận: Tỷ lệ đề kháng KS cao nhất là clarithromycin, ít nhất là amoxicillin. Có tình trạng đa kháng, nhiều
nhất là 2 KS, và 26,4% trường hợp không bị đề kháng KS.
7 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 13/06/2022 | Lượt xem: 304 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá đề kháng kháng sinh của Helicobacter pylori trên bệnh nhân viêm loét dạ dày – tá tràng đã điều trị tiệt trừ thất bại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Nội Khoa 90
ĐÁNH GIÁ ĐỀ KHÁNG KHÁNG SINH CỦA HELICOBACTER PYLORI
TRÊN BỆNH NHÂN VIÊM LOÉT DẠ DÀY – TÁ TRÀNG
ĐÃ ĐIỀU TRỊ TIỆT TRỪ THẤT BẠI
Đinh Cao Minh*, Bùi Hữu Hoàng**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Đề kháng kháng sinh (KS) là nguyên nhân chính dẫn đến thất bại trong điều trị tiệt trừ
Helicobacter pylori (H. pylori) hiện nay.
Mục tiêu: Đánh giá đề kháng KS của Helicobacter pylori ở bệnh nhân (BN) viêm loét dạ dày - tá tràng
(VLDDTT) đã điều trị tiệt trừ thất bại.
Đối tượng và phương pháp: 102 BN đến khám và được nội soi tiêu hóa trên tại bệnh viện Đại học Y Dược
TP.HCM từ tháng 11-2012 đến 05-2013. Kháng sinh đồ được thực hiện theo phương pháp pha loãng KS trong
thạch.
Kết quả: Tỷ lệ đề kháng chung của từng loại KS lần lượt là: amoxicillin 13,7%, metronidazole 44,1%,
tetracycline 23,5%, clarithromycin 56,9%, và levofloxacin 25,5%. Tỷ lệ đề kháng KS trong nhóm BN đã thất bại
với 1 phác đồ điều trị: amoxicillin 13,6%, metronidazole 36,3%, tetracycline 19,7%, clarithromycin 44%, và
levofloxacin 25,7%. Tỷ lệ đề kháng KS trong nhóm BN đã thất bại với 2 phác đồ điều trị: amoxicillin 16,7%,
metronidazole 60%, tetracycline 30%, clarithromycin 66,7%, và levofloxacin 23,5%. Tỷ lệ đề kháng KS trong
nhóm BN đã thất bại từ 3 phác đồ trở lên: amoxicillin không đề kháng, kháng cao nhất là clarithromycin 83,3%.
Tỷ lệ đề kháng clarithromycin và metronidazole tăng theo số đợt điều trị. Đa số kháng 2 loại KS 32,3%, kháng 5
loại là 1%. Đặc biệt, có đến 26,4% BN không bị đề kháng với các KS hiện dùng nhưng vẫn bị thất bại điều trị, có
lẽ có liên quan đến nhiều yếu tố: sự tuân thủ, ức chế toan chưa tốt, sử dụng KS chưa đúng cách
Kết luận: Tỷ lệ đề kháng KS cao nhất là clarithromycin, ít nhất là amoxicillin. Có tình trạng đa kháng, nhiều
nhất là 2 KS, và 26,4% trường hợp không bị đề kháng KS.
Từ khóa: Helicobacter pylori, đề kháng kháng sinh, điều trị tiệt trừ thất bại.
ABSTRACT
EVALUATE ANTIBIOTIC RESISTANCE OF HELICOBACTER PYLORI CULTURED FROM GASTRO-
DUODENAL ULCER PATIENTS FAILED WITH ERADICATION.
Đinh Cao Minh, Bui Huu Hoang* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - Supplement of No 1 - 2015: 90 - 96
Background: Nowadays, antibiotic resistance is the major cause in failure of Helicobacter pylori (H. pylori)
eradication.
Aim: Determine antibiotic resistance of H. pylori isolated from peptic ulcer patients who failed with H. pylori
eradication treatment.
Patients and method: From November 2012 to May 2013, 102 patients enrolled and underwent upper
gastrointestinal endoscopy. Antibiotic susceptibility testing was carried out by using agar dilution method.
Results: The total resistance rates were 13.7% for amoxicillin, 44.1% for metronidazole, 23.5% for
tetracycline, 56.9% for clarithromycin, and 25.5% for levofloxacin. The resistance rates in the patients who failed
with 1st line treatment regimen were 13.6% for amoxicillin, 36.3% for metronidazole, 19.7% for tetracycline, 44%
* Bệnh viện đa khoa Đồng Nai, ** Bộ môn Nội, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: BS Đinh Cao Minh ĐT: 0913727377 Email: dinhcaominh@yahoo.com.vn
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 91
for clarithromycin, and 25.7% for levofloxacin. The resistance rates in the patients who failed with 2 treatment
regimens were 16.7% for amoxicillin, 60% for metronidazole, 30% for tetracycline, 66.7% for clarithromycin, and
23.5% for levofloxacin. In the patients who failed with more than three treatment regimens, there was no
amoxicillin resistance case observed and the resistance rate to clarithromycin was highest, at 83.3%. The
resistance rates to clarithromycin and metronidazole increased in correlation with the number of treatment
regimens. Most cases (32.3%) were resistant to two antibiotics. 1% patients were resistant to 5 antibiotics. 26.4%
patients were susceptible to all available antibiotics but still failed in treatment. This may be caused by many
factors such as patient compliance, inadequate acid control, incorrect antibiotic usage
Conclusion: The resistance rate to clarithromycin was the highest, whilst the resistance rate to amoxicillin
was the lowest. Multiple resistance was observed with more than two antibiotics. 26.4% cases who failed with
treatment were susceptible to all available antibiotics.
Key words: Helicobacter pylori, antibiotic resistance, eradication treatment failure .
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhiễm H. pylori là một trong những nhiễm
khuẩn mạn tính thường gặp nhất ở người với
khoảng 50% dân số trên thế giới đã bị nhiễm H.
pylori là nguyên nhân thường gây viêm teo dạ
dày mạn, loét dạ dày, u MALT và ung thư dạ
dày(14). Các báo cáo trong và ngoài nước cho thấy
tình hình kháng thuốc ngày càng gia tăng làm
cho hiệu quả của phác đồ điều trị chuẩn ngày
càng giảm dần dưới 80%(1,3,15). Chính vì vậy, việc
điều trị tiệt trừ H. pylori hiện nay đang trở thành
một thách thức lớn. Đề kháng KS là nguyên
nhân chính dẫn đến thất bại điều trị(8). Mặc dù đã
có một vài nghiên cứu trong nước về sự đề
kháng KS của H. pylori liên quan đến đề kháng
nguyên phát(7) hay đề kháng thứ phát(12) nhưng
các nghiên cứu này vẫn chưa phản ánh đầy đủ
tình hình đề kháng KS hiện nay. Chính vì vậy,
chúng tôi tiến hành nghiên cứu đánh giá tình
hình nhạy cảm của H. pylori đối với một số KS
hiện hành ở những BN đã thất bại điều trị tiệt
trừ để có thêm những cơ sở cần thiết cho việc
chọn lựa các phác đồ điều trị thích hợp hơn.
Mục tiêu nghiên cứu
Xác định tỷ lệ đề kháng đối với một số KS
hiện đang được sử dụng như amoxicillin,
metronidazole, tetracycline, clarithromycin,
levofloxacin ở những BN đã thất bại điều trị tiệt
trừ H. pylori.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Dân số nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành trên các BN bị
VLDDTT đến khám và nội soi tại Bệnh viện Đại
học Y Dược TP.HCM, đã thất bại điều trị tiệt trừ
H. pylori ít nhất một lần trong thời gian từ tháng
11-2011 đến tháng 05-2012.
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Trên 16 tuổi
Đã được chẩn đoán VLDDTT qua nội soi, và
được điều trị tiệt trừ H. pylori ít nhất một lần với
bất kỳ phác đồ nào, hiện tại vẫn còn dương tính
với test urease nhanh.
BN đồng ý tham gia nghiên cứu
Tiêu chuẩn loại trừ
Trước khi nội soi lần này BN đã dùng kháng
sinh, bismuth ít nhất trong 4 tuần, sử dụng PPI ít
nhất trong 2 tuần
BN bị xuất huyết tiêu hóa do loét dạ dày -
tá tràng
Thiết kế nghiên cứu
Cắt ngang mô tả, lấy mẫu theo phương pháp
thuận tiện:
Cỡ mẫu tính theo công thức: với N=96
2
1 / 2
2
Z p 1 p
n
d
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Nội Khoa 92
Phương pháp xử lý dữ liệu
Các dữ liệu sau khi thu thập được nhập và
xử lý bằng phần mềm phân tích thống kê
Epidata 3.02 và Stata 12.0.
KẾT QUẢ
Trong thời gian từ tháng 11-2011 đến tháng
05-2012, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu tại
khoa nội soi Bệnh viện Đại học Y Dược TP. HCM
và chọn được 102 BN thỏa các tiêu chí chọn bệnh
và loại trừ, có kết quả cấy Helicobacter pylori (+).
Đặc điểm tuổi, giới của dân số nghiên cứu
Tuổi
Bảng 1: Đặc điểm về tuổi của đối tượng nghiên cứu
(n=102)
Tuổi
Trung
bình
Độ lệch
chuẩn
Giá trị
nhỏ nhất
Giá trị
lớn nhất
Tuổi 42,1 10,2 17 67
Nhận xét: Tuổi trung bình của những người
tham gia nghiên cứu là 42,1 ± 10,2; trong đó nhỏ
nhất là 17 tuổi và lớn nhất là 67 tuổi. Có khoảng
57% đối tượng tham gia nghiên cứu có độ tuổi từ
40 trở lên.
Giới tính
Bảng 2: Đặc điểm về giới tính của đối tượng nghiên
cứu (n=102)
Giới tính Nam Nữ Tổng
n 33 69 102
% 32,4 67,6 100
Nhận xét: Đối tượng tham gia nghiên cứu
chủ yếu là nữ, chiếm tỷ lệ 67,6%.
Tỷ lệ đề kháng chung và tỷ lệ đề kháng
từng loại kháng sinh xét trên nhóm thất bại
với 1 đợt điều trị, 2 đợt điều trị và ≥ 3 đợt
điều trị
Bảng 3: Tỷ lệ đề kháng chung và tỷ lệ đề kháng từng
loại kháng sinh xét trên nhóm thất bại với 1 đợt điều
trị
Kháng sinh
Kháng sinh đồ
Đề kháng chung
Đề kháng sau thất bại
1 đợt điều trị
Kháng Nhạy Tổng Kháng Nhạy Tổng
Amoxicillin N 14 88 102 9 57 66
Kháng sinh
Kháng sinh đồ
Đề kháng chung
Đề kháng sau thất bại
1 đợt điều trị
Kháng Nhạy Tổng Kháng Nhạy Tổng
% 13,7 86,3 100 13,6 86,4 100
Clarithrom
ycin
N 58 48 102 29 37 66
% 56,9 43,1 100 44 56 100
Metronida
zole
N 45 57 102 24 42 66
% 44,1 55,9 100 36,4 63,6 100
Tetracyclli
n
N 24 78 102 13 53 66
% 23,5 76,5 100 19,7 80,3 100
Levofloxac
in
N 26 76 102 17 49 66
% 25,5 74,5 100 25,7 74,3 100
Bảng 4: Tỷ lệ đề kháng sau thất bại 2 đợt điều trị và ≥
3 đợt điều trị.
Kháng sinh Kháng sinh đồ
Đề kháng sau thất
bại 2 đợt điều trị
Đề kháng sau thất
bại ≥3 đợt điều trị
Kháng Nhạy Tổng Kháng Nhạy Tổng
Amoxicillin n 5 25 30 0 6 6
% 16,7 83,3 100 0 100 100
Clarithrom
ycin
n 20 10 30 5 1 6
% 66,7 33,3 100 83,6 16,4 100
Metronidaz
ole
n 18 12 30 3 3 6
% 60 40 100 50 50 100
Tetracyclli
n
n 9 21 30 2 4 6
% 30 70 100 33,3 66,7 100
Levofloxaci
n
n 7 23 30 2 4 6
% 23,3 76,7 100 33,3 66,7 100
Nhậnxét:Tỷ lệ kháng clarithromycin chiếm
cao nhất (44-83,3%), kế đến là kháng
metronidazole (chiếm 36,4-50%) và amoxicillin
có tỷ lệ đề kháng thấp nhất (13,6-16,7%).
Tỷ lệ đề kháng từng loại kháng sinh xét trên
nhóm thất bại với 1 phác đồ PPI-A-C và thất
bại với 2 phác đồ là PPI-A-C + PPI-A-L
Bảng 5: Tỷ lệ đề kháng từng loại kháng sinh xét trên
nhóm thất bại với 1 phác đồ PPI-A-C và thất bại với 2
phác đồ là PPI-A-C + PPI-A-L.
Kháng sinh
Kháng sinh đồ
Đề kháng sau thất
bại phác đồ PPI-A-C
Đề kháng sau thất
bại phác đồ PPI-A-L
Kháng Nhạy Tổng Kháng Nhạy Tổng
Amoxicillin
n 13 83 96 3 14 17
% 13,5 86,5 100 17,7 82,3 100
Clarithrom
ycin
n 51 45 96 13 4 17
% 53,1 46,9 100 76,5 23,5 100
Levofloxaci
n
n 22 74 96 6 11 17
% 22,9 77,1 100 35,3 64,7 100
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 93
Nhận xét: Tỷ lệ đề kháng cao nhất là
clarithromycin (53,1-76,5%), thấp nhất là
amoxicillin (13,5-17,7%). Xét trong 17 trường hợp
đề kháng 2 phác đồ PPI-A-C và PPI-A-L. Không
tìm thấy trường hợp nào kháng cả 3 loại kháng
sinh, 1 trường hợp không đề kháng với cả 3 loại
kháng sinh, 8 trường hợp kháng clarithromycin
và không kháng với 2 kháng sinh còn lại
Đặc điểm của nhóm không đề kháng với
bất kỳ loại kháng sinh nào
Trong 34 trường hợp không đề kháng với bất
kỳ kháng sinh nào, 27 trường hợp thất bại trong
lần đầu tiên với phác đồ PPI-A-C; 6 trường hợp
thất bại sau 2 đợt điều trị thì phác đồ PPI-B-T-M
phổ biến nhất và chỉ có 1 trường hợp điều trị ≥ 3
đợt, trong đó sử dụng cả phác đồ PPI-A-L.
Đánh giá số lượng kháng sinh bị đề kháng
Bảng 6: Số loại kháng sinh bị đề kháng(n=102)
Kháng
Không
kháng
1 loại 2 loại 3 loại 4 loại 5 loại Tổng
n 27 18 33 15 8 1 102
% 26,47 17,65 32,35 14,71 7,84 0,98 100
Nhận xét: Kết quả kháng nhiều nhất là 2 loại
KS: có 33 BN, chiếm 32,35%; 1 BN kháng 5 loại
KS. Đặc biệt có 27 BN không bị đề kháng với bất
kỳ KS nào, chiếm 26,47%.
BÀN LUẬN
Đặc điểm tuổi và giới của dân số nghiên cứu
Theo Lê Đình Minh Nhân, tuổi trung bình là
44,6. Tỷ lệ nam/nữ: 132/125(7). Còn theo Nguyễn
Thúy Vinh, tỷ lệ nam/nữ: 3/1. Tuổi tập trung ở
khoảng 36-59(12). So sánh với kết quả của chúng
tôi thì có sự khác biệt, có lẽ là do đối tượng
chúng tôi là những BN đã điều trị thất bại nên
không đại diện cho dân số chung.
Tỷ lệ đề kháng chung cho từng loại KS và
xét trên nhóm thất bại với 1 đợt điều trị, 2
đợt điều trị và 3 đợt điều trị
Đề kháng thứ phát đối với clarithromycin
Năm 2006 - 2008, một nghiên cứu tại miền
Nam Ba Lan đã cho thấy đề kháng
clarithromycin nguyên phát là 21% và thứ phát
là 80%(6). Tại Pháp, một nghiên cứu ở trẻ em năm
2002, tỷ lệ đề kháng clarithromycin trước điều trị
là 34,7% và sau điều trị là 52,1%(5). Tại Nhật Bản,
tỷ lệ đề kháng sau 1 đợt điều trị là 88%(13). Còn ở
Đài Loan, năm 2009 đã báo cáo tỷ lệ kháng thứ
phát sau điều trị là 78,7% so với tỷ lệ 10,6%
kháng nguyên phát(2). Ở Việt Nam năm 2003,
Nguyễn Thúy Vinh đã ghi nhận tỷ lệ kháng
clarithromycin trước điều trị là 21,6%, và sau
điều trị là 78,9%(12), theo Nguyễn Thị Út (2010), tỷ
lệ nhạy với clarithromycin là 18,4%(11). Còn kết
quả đề kháng của chúng tôi nếu tính chung là
57%, sau khi thất bại 1 lần, 2 lần thì tỷ lệ đề
kháng tăng theo số lần thất bại, lần lượt là
66,7% và 83,3%. Nếu đã thất bại với phác đồ có
chứa clarithromycin thì tỷ lệ đề kháng thứ phát
là rất cao.
Đề kháng thứ phát đối với amoxicillin
Trên thế giới, đề kháng thứ phát với
amoxicillin tại Pháp (2002) đã ghi nhận không có
kháng thứ phát sau điều trị ở trẻ em(5); tại Đài
Loan (2009) không thấy có đề kháng trước và sau
điều trị(2). Riêng tại Nhật Bản, đề kháng đối với
amoxicillin tăng dần theo số đợt điều trị có sử
dụng amoxicillin, sau từ 2 đến 3 lần điều trị thất
bại, tỷ lệ đề kháng tăng từ 49,5-72,7%(13). Tại Việt
Nam, theo Nguyễn Thúy Vinh (2003), đề kháng
thứ phát sau điều trị phác đồ có chứa amoxicillin
là 36,8%(12). Trong khi khảo sát tại Bệnh viện Nhi
Trung ương (2010) của Nguyễn Thị Út, đề kháng
với amoxicillin sau điều trị là 74%(11). Tuy nhiên,
đây là kết quả khảo sát trên đối tượng trẻ em nên
kết quả có thể khác so với người lớn. Trong kết
quả nghiên cứu của chúng tôi, dù thất bại 1,2, hay
3 lần, kể cả thất bại với 2 lần phác đồ điều trị có
chứa amoxicillin, tỷ lệ đề kháng với amoxicillin
cũng chỉ từ 13,7-17,7% mà thôi. Kết quả này có vẽ
ít khác biệt so với các nghiên cứu từ Pháp(5), Đài
Loan nhưng rất khác so với kết quả từ Nhật
Bản(13). Như vậy, đề kháng với amoxicillin là thấp.
Đề kháng thứ phát đối với levofloxacin
Vấn đề kháng thứ phát sau điều trị trong các
nghiên cứu trên thế giới đều cho thấy tỷ lệ đề
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Nội Khoa 94
kháng tăng hơn so với trước điều trị. Tùy tình
hình sử dụng KS của người bệnh, tỷ lệ đề kháng
có khác nhau, chẳng hạn như theo
Wueppenhorst ở Đức, nếu sau thất bại với phác
đồ điều trị có chứa levofloxacin, tỷ lệ đề kháng là
26,7%. Nếu các đối tượng tham gia nghiên cứu
trong tiền căn đã từng sử dụng các thuốc nhóm
Quinolone, tỷ lệ đề kháng sau điều trị thất bại là
44,5%(16). Tại Việt Nam, chưa có nghiên cứu nào
về đề kháng với levofloxacin. Kết quả đề kháng
của chúng tôi đối với levofloxacin là 25,7%, gần
giống các báo cáo trên thế giới; tỷ lệ này tăng lên
35,3% trong trường hợp thất bại với phác đồ có
chứa levofloxacin, cũng giống trường hợp đề
kháng tại Đức. Chính vì sự đề kháng với
levofloxacin ngày càng gia tăng cho nên việc chỉ
định sử dụng các phác đồ này phải hết sức thận
trọng. Cho đến nay, phác đồ bộ ba có chứa
levofloxacin chỉ được sử dụng ở hàng thứ hai
sau thất bại với phác đồ đầu tay, hoặc được sử
dụng như liệu pháp cứu vãn mà thôi.
Đề kháng thứ phát đối với tetracycline
Trên thế giới, tỷ lệ kháng tetracycline là thấp,
nhất là ở các nước phát triển. Tại Châu Âu, theo
Megraud (2008-2009), tỷ lệ này là 0,6 %, kết quả
tương tự như tại Châu Mỹ(4). Tại Châu Á, tỷ lệ
kháng chung là 2,4%(4); ở Đài Loan là 0-0,5%; ở
Hàn Quốc là 8,8%; cao nhất là tại Iran: 37,1%.
Tình hình kháng tetracycline tại các nước rất ít là
do tetracycline và bismuth không được lưu hành
ở nhiều quốc gia, trong khi đó, ở một số quốc gia
Châu Á và Châu Phi, bismuth được phép sử
dụng. Tại Việt Nam, kết quả của Phan Quốc
Hoàn (1998) và của Lê Đình Minh Nhân (2002),
tỷ lệ đề kháng là 10%(7). Năm 2010, báo cáo của
Nguyễn Đức Toàn và Nguyễn Thị Nguyệt cho
thấy tỷ lệ này tăng lên 20%(9,10). Kết quả đề kháng
của chúng tôi là 23,5%, gần giống với kết quả của
2 tác giả trên, cũng giống trong trường hợp đề
kháng với metronidazole. Số lượng phác đồ điều
trị có tetracycline rất ít, có lẽ là do thói quen
dùng thuốc ở các tuyến tỉnh không theo khuyến
cáo mà sử dụng theo thói quen và sự thuận tiện.
Đề kháng thứ phát đối với metronidazole
Kết quả của chúng tôi gần giống kết quả ở
phần lớn các nước như Bỉ,Tây Ban Nha, Chi Lê,
Alaska, Hàn Quốc, thấp hơn kết quả tại Iran là
65,5%(13), và cao hơn so với các báo cáo ở Đài
Loan(2). Tại Việt Nam, báo cáo từ Miền Bắc năm
2010 của Nguyễn Thị Nguyệt là 95,5%(10), và theo
Nguyễn Đức Toàn là 94,2%(9); tỷ lệ này cao hơn
nhiều so với kết quả ở Miền Nam của Lê Đình
Minh Nhân (2002) là 50,8%(7) và của chúng tôi là
44,1%. Mặc dù tỷ lệ đề kháng của chúng tôi là
thứ phát nhưng trong lô nghiên cứu, đối tượng
sử dụng phác đồ có chứa metronidazole trước
đó rất ít nên có thể xem là đề kháng nguyên
phát. Tình hình kháng metronidazole phổ biến
hơn ở các nước đang phát triển, nhất là khu vực
Châu Á. Tại Việt Nam, người ta nhận thấy tỷ lệ
kháng với metronidazole ở Miền Bắc cao hơn so
với ở Miền Nam và theo thời gian, tỷ lệ này
không tăng hơn, có thể là do tại Miền Nam ít sử
dụng phác đồ điều trị có chứa metronidazole so
với các thuốc khác.
Tỷ lệ đề kháng kháng sinh xét trên nhóm BN
đã điều trị thất bại lần 1 bằng phác đồ PPI-
AC, và lần 2 bằng phác đồ PAL
Trong kết quả nghiên cứu của chúng tôi có
17 trường hợp thất bại lần đầu với phác đồ PPI-
AC, và tiếp tục thất bại lần 2 với phác đồ PPI-AL,
chúng tôi phân tích kết quả đề kháng của 3
kháng sinh là amoxicillin, clarithromycin, và
levofloxacin thì nhận thấy: tỷ lệ kháng với
amoxicillin là 17,7%, với clarithromycin là 76,5%,
với levofloxacin là 35,5%. Trong khi tại Nhật, tỷ
lệ đề kháng với amoxicillin sau 2 lần thất bại là
49,5%, với clarithromycin là 88,8%(13). Kết quả
của chúng tôi có 1 trường hợp không đề kháng
với cả 3 kháng sinh, 8 trường hợp chỉ kháng với
clarithromycin nhưng 2 KS còn lại không bị đề
kháng, nhưng kết quả 8 trường hợp này vẫn thất
bại điều trị với phác đồ có 2 KS không bị đề
kháng là PPI-A-L. Điều này đã đặt ra nhiều vấn
đề cần phải xem xét lại, cả 2 loại KS không bị đề
kháng nhưng khi điều trị trên BN thì không hiệu
quả. Như vậy, phải chăng có sự khác biệt về đề
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 95
kháng KS trên in-vivo và in-vitro, chất lượng của
KS, hiệu quả của thuốc ức chế bơm proton đã sử
dụng cho BN, vấn đề tuân thủ của BN tại các cơ
sở điều trị ở Việt Nam.
Số lượng kháng sinh bị đề kháng
Nhóm đề kháng từ 1 loại đến 5 loại kháng
sinh
Trong nghiên cứu của chúng tôi có kết
quả kháng 1 loại KS là 18%, còn lại 56% là đa
kháng. Trong đó,đề kháng với 2 KS là nhiều
nhất, chiếm 32%; kháng với 3 KS là 15%; kháng
với 4 KS là 8%; đồng thời có 1% trường hợp bị đề
kháng với cả 5 loại KS. Kết quả này cũng giống
như kết quả của Nguyễn Đức Toàn(14): đa kháng
chiếm 56,4%. Tuy nhiên, trong nghiên cứu này,
đề kháng với 1 loại KS là nhiều nhất, có lẽ là do
nghiên cứu trên sự đề kháng nguyên phát.
Nguyễn Thị Út(11) cũng cho thấy tình hình kháng
2 loại KS là nhiều nhất; đề kháng với 3 loại, và có
cả đề kháng với 4 loại KS ở trẻ em. Trong khi ở
các nước như Ý, Hồng Kông, tình hình đa kháng
thuốc trung bình khoảng 10%; ở Bulgaria là 4,9%
và Thụy Điển là 0,6%(4). Điều này cho thấy rằng
tình hình đa kháng thuốc ngày càng phổ biến.
Đây thật sự là một vấn đề rất đáng lo ngại.
Nhóm BN không đề kháng với loại kháng
sinh nào
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ
không đề kháng với bất kỳ KS chiếm tỷ lệ khá
cao là 27%, so với nghiên cứu từ Iran chỉ có 3%.
Nguyễn Đức Toàn tại Việt Nam báo cáo tỷ lệ này
là 5,8%(9). Kết quả của chúng tôi cao hơn rất
nhiều so với các nghiên cứu khác. Kết quả các
phác đồ sử dụng trong nhóm này, đa phần là
phác đồ PPI-AC, có 6 trường hợp B