Mở đầu: Gây mê kiểm soát nồng độ đích (TCI) đã được áp dụng ngày càng rộng rãi đặc biệt trong phẫu
thuật ngoại thần kinh. Gây mê kiểm soát nồng độ đích với theo dõi độ mê bằng BIS giúp điều chỉnh liều lượng
thuốc mê, giảm lượng thuốc mê dùng.
Mục tiêu nghiên cứu: Tổng liều Propofol sử dụng trong phẫu thuật. So sánh sự thay đổi mạch, huyết áp
trong các giai đoạn phẫu thuật. Xác định thời gian tỉnh mê và tỉ lệ cử động, thức tỉnh trong mổ. Nồng độ đích
(Ce) propofol tại các giai đoạn phẫu thuật và tương quan giữa Ce propofol với BIS.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng. 40 bệnh
nhân(BN) phẫu thuật u tuyến yên qua đường mũi đủ tiêu chuẩn được bốc thăm ngẫu nhiên thành 2 nhóm, mỗi
nhóm 20 BN: nhóm dùng TCI có BIS và nhóm dùng TCI không BIS.
Kết quả: Tổng lượng propofol trung bình ở nhóm BIS ít hơn nhóm không BIS 20,4 % (p=0,004). Trong các
giai đoạn phẫu thuật, nhóm BIS có tình trạng mạch, huyết áp ổn định hơn nhóm không BIS. Thời gian tỉnh mê
của nhóm BIS sớm hơn 5 phút so với nhóm không BIS (p< 0,001). Không có BN nào thức tỉnh trong mổ. Nồng
độ đích Ce propofol tại não ở các giai đoạn phẫu thuật (3,3 ± 0,5 so với 3,7 ± 0,7 mcg/ml). Có mối tương quan
thuận và chặt chẽ giữa BIS và Ce propofol.
6 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 289 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá hiệu quả của BIS trong gây mê kiểm soát nồng độ đích bằng Propofol trên phẫu thuật u tuyến yên qua mũi, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Ngoại Khoa 448
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA BIS TRONG GÂY MÊ KIỂM SOÁT NỒNG ĐỘ
ĐÍCH BẰNG PROPOFOL TRÊN PHẪU THUẬT U TUYẾN YÊN QUA MŨI
Hà Thị Kim Tuyến*, Nguyễn Ngọc Anh**, Hà Ngọc Chi**
TÓM TẮT
Mở đầu: Gây mê kiểm soát nồng độ đích (TCI) đã được áp dụng ngày càng rộng rãi đặc biệt trong phẫu
thuật ngoại thần kinh. Gây mê kiểm soát nồng độ đích với theo dõi độ mê bằng BIS giúp điều chỉnh liều lượng
thuốc mê, giảm lượng thuốc mê dùng.
Mục tiêu nghiên cứu: Tổng liều Propofol sử dụng trong phẫu thuật. So sánh sự thay đổi mạch, huyết áp
trong các giai đoạn phẫu thuật. Xác định thời gian tỉnh mê và tỉ lệ cử động, thức tỉnh trong mổ. Nồng độ đích
(Ce) propofol tại các giai đoạn phẫu thuật và tương quan giữa Ce propofol với BIS.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng. 40 bệnh
nhân(BN) phẫu thuật u tuyến yên qua đường mũi đủ tiêu chuẩn được bốc thăm ngẫu nhiên thành 2 nhóm, mỗi
nhóm 20 BN: nhóm dùng TCI có BIS và nhóm dùng TCI không BIS.
Kết quả: Tổng lượng propofol trung bình ở nhóm BIS ít hơn nhóm không BIS 20,4 % (p=0,004). Trong các
giai đoạn phẫu thuật, nhóm BIS có tình trạng mạch, huyết áp ổn định hơn nhóm không BIS. Thời gian tỉnh mê
của nhóm BIS sớm hơn 5 phút so với nhóm không BIS (p< 0,001). Không có BN nào thức tỉnh trong mổ. Nồng
độ đích Ce propofol tại não ở các giai đoạn phẫu thuật (3,3 ± 0,5 so với 3,7 ± 0,7 mcg/ml). Có mối tương quan
thuận và chặt chẽ giữa BIS và Ce propofol.
Từ khóa: Gây mê kiểm soát nồng độ đích (TCI), Bis spectral (BIS), phẫu thuật u tuyến yên qua mũi.
ABSTRACT
BISPECTRAL INDEX IN TARGET CONTROLLED INFUSION OF PROPOFOL
FOR TRANSSPHENOIDAL RESECTION OF PITUITARY TUMORS
Ha Thi Kim Tuyen, Nguyen Ngoc Anh, Ha Ngoc Chi
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - Supplement of No 1 - 2015: 448 - 453
Background: Target controlled infusion (TCI) of propofol has been widely applied exspecially in anethesia
for neurological procedures. TCI with monitor of anesthetic level by BIS helps anesthetic dose adjustment and
reduces the amount of anesthetics.
Objectives: Calculating the total dose of propofol during surgery in 2 groups. Comparing the change of
pulse, blood pressure at many stages of surgery in 2 groups. Determining recovery time and intraoperative awake
in two groups. Ce propofol at the stages of surgery in 2 groups and correlating between Ce propofol and BIS.
Methods: randomized control trial, 40 patients who were passed transsphenoidal resection of pituitary
tumors and met including criteria enrolled randomizedly into 2 groups of 20 patients: group TCI with BIS and
without BIS.
Results: The total average amount of propofol in group BIS less than 20.4% (p = 0.004). During the
operative period, pulse and blood pressure of the BIS group were more stable than the without BIS group.
Recovery time in BIS group was earlier than without BIS group (p <0.001). There was no case of intraoperative
awake. Ce propofol at the stages of surgery was (3.3 ± 0.5 vs 3.7 ± 0.7 mcg / ml).There was correlation between
BIS and Ce propofol at surgical stages.
* BV Nhân Dân 115 ** BMGMHS, ĐH Y Dược Tp.HCM
Tác giả liên lạc: BSCK2 Hà Thị Kim Tuyến, ĐT: 0983131332 Email: kimtuyen3470@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Gây Mê Hồi Sức 449
Key words: Anesthesia target control (TCI), spectral Bis (BIS), transsphenoidal resection of pituitary
tumors.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Gây mê tĩnh mạch có nhiều ưu điểm hơn
gây mê bằng thuốc mê hô hấp trong phẫu thuật
thần kinh. Tuy nhiên, gây mê tĩnh mạch toàn
phần khó khăn trong việc kiểm soát độ mê, có
thể thiếu hoặc quá liều, nguy cơ thức tỉnh, nhớ
lại trong mổ hoặc ảnh hưởng xấu trên tim mạch
và hô hấp(8). Ngày nay, việc phát minh ra
phương pháp gây mê kiểm soát nồng độ đích
(TCI), gây mê tĩnh mạch ngày càng được sử
dụng rộng rãi. Không giống như thuốc mê hô
hấp, kiểm soát độ mê dựa vào nồng độ phế nang
tối thiểu, kiểm soát độ mê gây mê tĩnh mạch với
TCI gặp nhiều khó khăn(11). Theo dõi độ mê bằng
BIS giúp điều chỉnh liều thuốc mê hợp lý, giảm
lượng thuốc mê dùng. Hiện nay, chưa có nhiều
nghiên cứu đánh giá hiệu quả của phương pháp
gây mê mới này trên cơ địa người Việt Nam.
Nên chúng tôi tiến hành nghiên cứu nhằm đánh
giá hiệu quả của BIS trong gây mê kiểm soát
nồng độ đích bằng propofol trong phẫu thuật u
tuyến yên qua mũi tại Bệnh Viện Nhân Dân 115.
Mục tiêu nghiên cứu
Xác định tổng liều Propofol sử dụng trong
mổ ở 2 nhóm. So sánh sự thay đổi mạch, huyết
áp trong các giai đoạn phẫu thuật ở 2 nhóm. Xác
định thời gian tỉnh mê và tỉ lệ cử động và thức
tỉnh trong mổ ở 2 nhóm. Nồng độ đích Ce
propofol tại các giai đoạn phẫu thuật ở 2 nhóm
và tương quan giữa Ce propofol với BIS.
PHƯƠNG PHÁP - ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có nhóm
chứng. Từ 5/2013 – 5 /2014 tại khoa Gây Mê
Hồi Sức Bệnh Viện Nhân Dân 115 thành phố
Hồ Chí Minh.
Đối tượng nghiên cứu
40 bệnh nhân (BN) có chỉ định phẫu thuật u
tuyến yên qua đường mũi được gây mê tĩnh
mạch kiểm soát nồng độ đích bằng propofol và
bốc thăm ngẫu nhiên chia thành 2 nhóm 20 BN
nhóm có BIS và 20 BN nhóm không BIS.Tri giác
và tâm thần bình thường, phân loại ASA I, II, III.
Không chọn BN dị ứng với thuốc Propofol,
nghiện rượu hay chất gây nghiện khác, bệnh tim
mạch nặng, tăng huyết áp không kiểm soát, suy
tim nặng (phân suất tống máu < 35%), thai sản.
Xử lý và phân tích số liệu
Các kết quả nghiên cứu được xử lý, phân
tích bằng phần mềm SPSS 16.0. Phép kiểm χ2 ở
biến định tính, biến phân nhóm, T-test với biến
định lượng. Giá trị p< 0,05 có ý nghĩa thống kê.
Phương pháp tiến hành
Bơm tiêm điện TERUMO TE-372
(Astrazeneca). Monitor theo dõi BIS (Bis VistaTM,
Covidien).Khám TM: đêm trước PT, làm XN tiền
phẫu. BN bốc thăm chọn 1 trong 2 nhóm: có BIS,
không BIS. Nhóm BIS: BN được lau trán bằng
alcool, đợi khô, dán điện cực theo dõi độ mê.
Các thời điểm thu thập số liệu
T0 : BNvào phòng mổ
T1 : Trước dẫn mê
T2 : Mất ý thức
T3: Trước đặt NKQ 1 phút
T4 : Đặt NKQ
T5: Sauđặt NKQ 1 phút
T6: Sau đặt NKQ 5 phút
T7: Sau gây tê 1 phút
T8: Sau gây tê 5 phút
T9 : Rạch da
T10 : Banh cuốn mũi giữa
T11: Mở rộng xoang bướm
T12 : Gặm xương bướm
T13 : Lấy u
T14: Trước kết thúc 10 phút
T15: Kết thúc
T16: Tỉnh mê
T17: Rút NKQ
Tiền mê: cả 2 nhóm: Midazolam: 0,05mg/kg.
Sufentanil: 0,2-0,3g/ml TMC. Sau 4 phút dẫn mê.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Ngoại Khoa 450
Dẫn mê: nhóm BIS: Thở oxy 5 l/p /3 phút.
Sau đó khởi mê trên máy TCI:
+ ASA: I, II. Cài Ce propofol 4g/ml.
+ ASA: III. Cài Ce propofol 2-3g/ml. Tăng
dần 0,5-1 g/ml/phút đến khi mất ý thức.
Tracrium 0,6 mg/kg (OAA/S =1). Đặt NKQ
và cố định ống NKQ bên trái của BN, nhét gạc
ẩm vào miệng đến sau họng hầu. Thở máy: FiO2
≥ 60%. Lưu lượng 1-1,5 l/phút, thể tích khí (Vt) 6-
10ml/kg, tần số 12-14 lần/phút, duy trì SpO2 >
95% và EtCO2 30-35 mmHg. Đánh giá độ sâu
gây mê: dựa vào các dấu hiệu lâm sàng, thang
điểm OAA/S cải biên, chỉ số BIS.
Duy trì mê: Đặt tư thế Transat. Trước rạch
da, gây tê tại chổ ở mũi và nướu trên với 10 ml
lidocain 1% với adrenalin (1:200000). Duy trì
nồng độ đích propofol 2-8 mcg/ml tùy đáp ứng
BN và kích thích phẫu thuật, dấu hiệu sinh tồn.
Theo dõi và duy trì BIS trong khoãng 40-60 và
HATB từ 55-85mmHg.
Nếu HATB <55mmHg: giảm liều propofol,
bù dịch tinh thể, dịch keo, ephedrine. Nếu
HATB >85mmHg: tăng dần liều propofol,
nicardipine 1mg/lần.
Mạch >100l/p: thêm sufentanil 5-10 g,
propofol. Mạch <50 l/p: atropine 0,5-1mg.
Khi BIS > 60 hay giảm < 40: tăng hay giảm
propofol 1 mcg/mL.
Mổ xong, ngưng thuốc mê. Hóa giải giãn cơ:
neostigmin 0,04mg/kg kết hợp atropine
0,01mg/kg.
Nhóm không BIS
Khởi mê- Duy trì mê: Tương tự như nhóm
BIS, độ mê được đánh giá dựa theo dấu hiệu lâm
sàng, thang điểm OAA/S.
Tỉnh mê: đánh giá cho cả 2 nhóm:
Chuyển BN ra phòng hồi sức. Nằm đầu cao
450, Rút nội khí quản kèm rút gạc nhét ở miệng
khi đủ tiêu chuẩn. Truyền perfalgan liều 15- 20
mg/kg trước kết thúc mổ 15 phút. Theo dõi nhịp
tim, SpO2, huyết áp mỗi 15 phút trong 2 giờ,
nước tiểu 3 giờ/ lần. Thở oxy qua miệng không
thở bằng mask.
- Mức độ nhận thức sau rút NKQ sau 5 và
10 phút: những câu hỏi kiểm tra định hướng
của bộ nhớ trong thời gian ngắn(4).(1) Ngày
hôm nay là ngày gì? (2) Năm nay là năm gì?
(3) Bạn hiện nay ở đâu? (3) Hãy đếm từ 1 đến
10. (4) Hãy đếm ngược lại từ 10 đến 1. Nếu BN
có thể nhớ lại và đếm sai tối thiểu (1 đến 3) là
tốt; với sai >3 là chấp nhận, nếu không thể nhớ
lại tất cả là kém.
- Thang điểm “Aldrete” (0-10): Đánh giá
mức độ phục hồi nhận thức sau rút NKQ 5 và 10
phút. Tổng số điểm là 10. BN > 8 điểm và hoặc
trở lại tình trạng trước đó(7). Tính thời gian đạt
thang điểm Aldrete ≥ 9 điểm (phút).
Bảng 1. Đánh giá giai đoạn hồi phục bằng thang
điểm “Aldrete”
Hô hấp Điểm SpO2 Điểm
Có thể thở sâu và
ho
2
Thở khí phòng Sp02>=
92%.
2
Khó thở hay thở
nông
1
Cần thở oxygen để
Sp02> 90%.
1
Ngưng thở. 0
Thở oxygen nhưng
Sp02< 90%.
0
Ý thức Tuần hoàn
Hoàn toàn tỉnh táo. 2 HA + 20 mmHg 2
Tỉnh táo khi gọi 1 HA + 20- 50 mmHg. 1
Không đáp ứng 0 HA + 50 mmHg 0
Màu da Hoạt động
Bình thường 2
Có khả năng di chuyển
tứ chi
2
Da xanh nhợt, sậm,
vàng
1
Có khả năng di chuyển
hai chi
1
Tím tái 0
Không khả năng di
chuyển chi
0
KẾT QUẢ
Đặc điểm bệnh nhân trước mổ:
Không có sự khác biệt về đặc điểm chung
của BN và các bệnh lý đi kèm và nội tiết giữa
2 nhóm.
Bảng 2.Tổng liều propofol sử dụng
Có BIS Không BIS P
Tổng liều Propofol(mg)
1089,5±5,8 1312±9,2 0,004
Số liệu trình bày: Trung bình ± Độ lệch
chuẩn.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Gây Mê Hồi Sức 451
Bảng 3: Thay đổi huyết áp trung bình qua các giai
đoạn
HA trung bình (mmHg) Có BIS Không BIS p
Sau gây tê 1phút 92,915,7 83,911 0,043
Rạch da 88,320,5 75,912 0,025
Bảng 4: So sánh sự thay đổi mạch, huyết áp ở 2 nhóm
Thời điểm Biến số Có Bis Không Bis p
T7
Mạch ↓ 3,70 ↓ 4,43 0,879
HATB ↑8,68 ↓ 1,64 0,089
T8
Mạch ↑0,49 ↑6,22 0,13
HATB ↑5,26 ↑10,34 0,451
T9
Mạch ↓ 3,55 ↓ 8,71 0,09
HATB ↓ 7,76 ↓ 14,83 0,219
T10
Mạch ↑3,84 ↑6,58 0,43
HATB ↑16,053 ↑ 22,76 0,389
T11
Mạch ↑4,65 ↑5,98 0,19
HATB ↓ 3,42 ↑0,87 0,26
T12
Mạch ↓4,28 ↑6,44 0,76
HATB ↓ 0,37 ↑3,39 0,41
T14
Mạch ↓ 0,21 ↓ 3,69 0,8
HATB ↓1,39 ↓ 5,12 0,31
T15
Mạch ↓ 2,03 ↓0,66 0,55
HATB ↑6,17 ↑2,63 0,415
T16
Mạch ↑4,75 ↑6,12 0,81
HATB ↑ 0,66 ↑12,87 0,012
*
(*) sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
Bảng 5. Thời gian tỉnh mê và thời gian đạt thang
điểm Aldrete ≥ 9 điểm
Có BIS Không BIS P
Thời gian tỉnh mê (phút)
Thời gian đạt ≥ 9 điểm (phút)*
8 ± 2
5 (2-15)
13,5 ±3
9 (5-18)
0,001
0,001
Số liệu trình bày:Trung bình ± độ lệch chuẩn,
trung vị (khoảng tứ phân vị)
Tỷ lệ thức tỉnh và cử động của 2 nhóm
Không có ca nào thức tỉnh trong mổ, cử
động nhẹ ở ngón chân ở T14 nhóm không BIS
nhiều hơn nhóm BIS (2 ca so với 3 ca).
Nồng độ đích Ce của propofol ở các giai
đoạn của phẫu
Nồng độ Ce propofol tại não nhóm BIS ở T7
là 3,2 ± 0,5 mcg/ml thấp hơn nhóm không BIS là
3,5 ± 0,7 (p=0,041).
Biểu đồ 1: Mối tương quan giữa giá trị BIS trung
bình và nồng độ Ce propofol ở não nhóm BIS qua các
giai đoạn (R =0,713, p = 0,004).
BÀN LUẬN
Đặc điểm chung nhóm nghiên cứu
2 nhóm BN có tuổi, giới tính, cân nặng, chiều
cao, BMI, phân loại ASA chủ yếu là I, II và bệnh
lý đi kèm nhiều nhất là tăng HA, bệnh lý nội tiết
tương đối khá đồng nhất.
Tổng liều Propofol trung bình
Tổng liều Propofol trung bình ở nhóm có BIS
là 1089 ± 5,7 mg thấp hơn nhóm không BIS là
1312 ± 9,2 mg với p=0,004. Giảm khoảng 20,42 %
so với nhóm không BIS. Nhiều nghiên cứu ngoài
nước đã ghi nhận BIS khoảng 40-60 để phòng
ngừa thức tỉnh trong mổ, giảm tổng lượng
propofol sử dụng từ 10%-40% so với không BIS.
Nguyễn Như Hà(9) nhận thấy trên BN mổ tim
nhóm BIS giảm tổng liều propofol khởi mê là
25% so với không BIS. Ngược lại, tác giả
P.Matute và cs(7) trong gây mê TCI mổ lồng ngực
dưới hướng dẫn của BIS thì lượng propofol sử
dụng tương tự ở 2 nhóm. Trong khi Paul A. W.
thấy sử dụng propofol ở nhóm BIS cao hơn 1 %
so với nhóm không BIS. Imagawa và cs(12) gây
mê Propofol có BIS không làm giảm lượng
Propofol sử dụng(2). Kết quả của chúng tôi khác
với Imagawa A(6) do Propofol được cho bằng liều
bolus lặp lại, còn chúng tôi là truyền liên tục,
kiểu gây mê TCI này làm cho thuốc có nồng độ
huyết tương và an thần ổn định hơn so với cách
liều tiêm lặp lại.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Ngoại Khoa 452
Sự thay đổi mạch, huyết áp trong các giai
đoạn phẫu thuật
Thay đổi HA TB ở nhóm có BIS có sự khác
biệt ý nghĩa ở T7, T9, HATB tăng nhẹ so với
nhóm không BIS (T7 là 93 15 so với
84 11mmHg (p=0,043), T9 là 88 20,5 so với
76 12mmHg (p=0,025)). Giá trị BIS ở T7 là
40,5 7 và T9 là 40,6 6. Nhóm không BIS có
HATB giảm ở T9. Cả 2 nhóm có HATB tăng ở
T10. Ali(2), Jeffrey(12) tương tự như nghiên cứu của
chúng tôi. Trong nghiên cứu chúng tôi,
Ephedrine nhóm không BIS là 6 (30%) cao hơn
nhóm có BIS là 5 (25%), nhóm BIS BN ít bị tụt
HA hơn. Như vậy, phương pháp gây mê TCI
phối hợp BIS giúp kiểm soát chặt chẽ độ sâu gây
mê, điều chỉnh liều thuốc mê chính xác, giúp
chúng ta quyết định sử dụng vận mạch hợp lý
hơn(10).
Không khác biệt về sự thay đổi mạch ở 2
nhóm. Có sự thay đổi HA các giai đọan phẫu
thuật ở nhóm BIS ổn định hơn nhóm không
BIS.Nhóm không BIS: tăng HATTr, TB ở T8, T10
>20% (P>0,05), tăng HATTr ở T12 là 9,74%
(p=0,012) nhiều hơn nhóm BIS, giảm HATTr ở
T13 là 5,62% (p=0,037) nhiều hơn nhóm BIS và
tăng HA nhiều hơn nhóm BIS ở tỉnh mê (p<0,05).
Hans P.(5) propofol TCI –BIS phẫu thuật mở sọ
tỉnh khác tác giả cho rằng giảm HA có liên quan
đến tăng tốc độ truyền.
So sánh thời gian tỉnh mê của 2 nhóm
Trong nghiên cứu của chúng tôi: Thời gian
tỉnh mê ở nhóm BIS ngắn hơn 5 phút so với
nhóm không BIS (8 so với 13,5 phút) (p*<0,001).
Do tổng liều propofol ở nhóm có BIS ít hơn
nhóm không BIS. Như vậy, sự đánh giá độ mê
của nhóm BIS chuẩn xác hơn nhóm không BIS.
Thời gian tỉnh mê của chúng tôi ở nhóm BIS dài
hơn 3 phút so với Ali Z.(1) (5,3±1,5* phút,
p<0,001), ở nhóm không BIS dài hơn 4 phút so
với Caferio T.(3) (9,7±5,3* phút).
Thời gian đạt thang điểm Aldrete >=9 điểm ở
nhóm BIS ngắn hơn nhóm không BIS (5 so với
8,5 phút, p<0,05). Nghiên cứu của chúng tôi cũng
giống như Ali Z(1) thời gian hồi phục nhận thức
là 8,6±0,5 phút. Caferio T(3) ở nhóm không BIS là
13 phút dài hơn nghiên cứu của chúng tôi.
Yeganeh Naser(12) gây mê propofol TCI giúp BN
hồi phục sớm hơn.
Tỷ lệ thức tỉnh trong mổ
Không có TH nào thức tỉnh trong PT do cở
mẫu nhỏ, phỏng vấn 1 lần. Có cử động nhẹ ngón
chân ở giai đoạn T14. Nguyễn Thị Hà(9) không có
ca nhớ lại. Zhang Chen(14) giảm 78% thức tỉnh
trong mổ
Nồng độ đích Ce propofol ở các giai đoạn
của phẫu thuật
Nồng độ propofol tại não ở T7 nhóm BIS là
3,3 ±0,5 mcg/ml thấp hơn nhóm không BIS là 3,7
± 0,7 mcg/ml (p=0,041< 0,05), ứng với BIS là 41.
Giá trị BIS ở nhóm BIS trong giới hạn ngủ đủ
(OAA/S: 0 hoặc BIS: 40-60), kiểm soát độ mê soát
ổn định và giảm đau đầy đủ theo các kích thích
của phẫu thuật.
Mối tương quan giữa BIS và nồng độ Ce
propofol trung bình trong các giai đoạn
phẫu thuật
Có mối tương quan thuận, rất chặt giữa BIS
và nồng độ propofol trung bình tại não (Ce
propofol) (R = 0,713, p = 0,004) trong các giai
đoạn của gây mê. Ce propofol càng tăng, an thần
càng sâu thì giá trị BIS càng thấp. Giá trị BIS của
chúng tôi duy trì mức độ an thần trung bình và
nồng độ Ce propofol tại não thấp đã làm BN mất
ý thức: BIS tỉnh táo là 90,mất ý thức là 54 và
nồng độ Ce propofol là 1,13 µg/ml. Nguyễn Thị
Qúy(10) nhận thấy BIS tỉnh táo là 95, Ce propofol
mất ý thức là 2,34 µg/ml và BIS = 71.
Sleigh tìm thấy mối tương quan tốt giữa giá
trị BIS với nồng độ propofol huyết tương.Hans
P.(5) trong phẫu thuật mở sọ tỉnh kết luận rằng
propofol TCI –BIS có mối tương quan tốt về mức
độ an thần hơn nồng độ đích của thuốc mê. Tuy
nhiên, Yeganeh và cs(12) không tìm thấy mối liên
quan giữa propofol huyết tương và BIS.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Gây Mê Hồi Sức 453
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu này chúng tôi nhận thấy
theo dõi độ mê với BIS khi sử dụng TCI giúp
giảm liều propofol, ổn định mạch, huyết áp và
có mối tương quan thuận và chặt chẽ giữa BIS
và Ce propofol tại não trong các giai đoạn
phẫu thuật.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ali Z, Prabhakar H, Bithal PK, Dash HH( 2009), Bispectral index-
guided administration of anesthesia for transsphenoidal resection of
pituitary tumors: a comparison of 3 anesthetic techniques, J
Neurosurg Anesthesiol, 21(1),pp.10-15.
2. Avidan MS, Zhang L, Burnside BA, et al (2008), Anesthesia
awareness and the bispectral index. N Engl J Med, 358,pp.1097-108.
3. Cafiero T, Cavallo LM, Frangiosa A, et al (2007), Clinical
comparison of remifentanil-sevoflurane vs remifentanil-propofol for
endoscopic endonasal transphenoidal surgery, European Journal of
Anesthesiology, 24, pp.441-446.
4. Citerio G, et al (2009),Anaesthesiological strategies in elective
craniotomy: randomized, equivalence, open trial- The NeuroMorfeo
trial, trials, licence BioMed Central, 10,pp.99.
5. Hans P, Bonhomme V, Born J, et al (2000), Target- controlled
infusion of propofol and remifentani combined with bispectral index
mornitoring for awake craniotomy, Anesthesia,55,pp.255-259.
6. Imagawa A, Fujiki S, Kawahara Y, et al (2008), Satisfaction with
bispectral index monitoring of propofol-mediated sedation during
endoscopic submucosal dissection: a prospective Randomized study,
Endoscopy, 40, pp. 905–909.
7. Matute P, Jimenez MJ, Fita G, et al (2002), Bispectral index
mornitoring during propofol and fentanyl anesthesia for thoracotomy,
European Academy of Anesthesi0logy, 19, pp.1-18.
8. Nguyễn Ngọc Anh (2012), “Propofol và AIVOC trong gây mê
thần kinh”, Tài liệu huấn luyện gây mê hồi sức. Bệnh viện Nhân
dân 115, Tạp chí Y học,(21),tr.167-176.
9. Nguyễn Thị Như Hà, Nguyễn Thị Quý (2013), Đánh giá lợi ích
của BIS trong việc theo dõi độ sâu gây mê trong quá trình phẫu thuật
tim hở. Y hoc TP Hồ Chí Minh, Bộ y tế xuất bản, 885(21) tr. 97.
10. Nguyễn Thị Quý và cs (2012), “Một vài nhận xét ban đầu trong
việc theo dõi độ sâu gây mê trong phẫu thuật tim hở với bis
spectral”,Tạp chí Y học Tp Hồ Chí Minh. Nhà xuất bản y học TP
Hồ Chí Minh tập 16, phụ bản số 2.tr.28-35.
11. Nguyễn Văn Chinh và Nguyễn Văn Chừng (2013). “Theo dõi
BIS trong gây mê tĩnh mạch kiễm soát nồng độ đích”, Tạp chí Y
học, ĐHYD TPHCM, tập 17(1), tr.169-173.
12. Pasternak JJ, Atkinson JL, Kasperbauer JL, Lanier WL (2004),
Hemodynamic responses to Epinephine-containing local anestheti
injection and emergence from general anesthesia in transsphenoidal
hypophysectomy patients,J Neurosurg Anesthesiol.16(3),pp.189-95.
13. Yeganeh N, Roshani B, et al (2010), Target- controlled infusion
anesthesia with propofol and remifentanil compared with manually
controlled infusion anesthesia in mastoidectommy surgeries,MEJ
Anesth, 20(6),pp.785-79.
14. Zhang C, Xu L, Ma YQ, Sun YX, Li YH, Zhang L, Feng CS, Luo
B, Zhao ZL, Guo JR, Jin YJ, Wu G, Yuan W, Yuan ZG, Yue Y
(2011), Bispectral index monitoring prevent awareness during total
intravenou