Mục tiêu: Đánh giá kết quả phẫu thuật nội soi khâu sụn chêm khớp gối.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu, từ tháng 7/2006 đến tháng 7/2010, chúng tôi nghiên cứu
45 bệnh nhân, từ 17 đến 50 tuổi, được chẩn đoán rách sụn chêm gối và được phẫu thuật nội soi khâu sụn chêm
bằng kỹ thuật outside-in, inside-out và all inside.
Kết quả: qua 45 bệnh nhân trong nghiên cứu chúng tôi tỷ lệ nam chiếm 62,2%, gấp gần 2 lần so với nữ là
37,8%. Nguyên nhân chủ yếu là do chấn thương trong thể thao chiếm tỷ lệ khá cao 64,7%. Lứa tuổi hay gặp nhất
là từ 21 đến 30 (46,7%). Kết quả sau phẫu thuật: 16/45 (35,6%) là rất tốt, 26/45 (66%) tốt, 2/45 (4,4%) vừa,
1/45(2,2%) xấu.
Kết luận: chỉ định khâu những tổn thương sụn chêm trong chấn thương ngày càng được chú ý và đem lại
kết quả tốt hơn về chức năng khớp gối cho bệnh nhân, giảm các biến chứng về lâu dài như thoái hóa khớp
4 trang |
Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 323 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá kết quả phẫu thuật nội soi khâu rách sụn chêm khớp gối trong chấn thương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất TP. HCM 2012 240
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ PHẪU THUẬT NỘI SOI
KHÂU RÁCH SỤN CHÊM KHỚP GỐI TRONG CHẤN THƯƠNG
Võ Thành Toàn*, Nguyễn Tiến Bình**, Trần Đình Chiến**
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá kết quả phẫu thuật nội soi khâu sụn chêm khớp gối.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu, từ tháng 7/2006 đến tháng 7/2010, chúng tôi nghiên cứu
45 bệnh nhân, từ 17 đến 50 tuổi, được chẩn đoán rách sụn chêm gối và được phẫu thuật nội soi khâu sụn chêm
bằng kỹ thuật outside-in, inside-out và all inside.
Kết quả: qua 45 bệnh nhân trong nghiên cứu chúng tôi tỷ lệ nam chiếm 62,2%, gấp gần 2 lần so với nữ là
37,8%. Nguyên nhân chủ yếu là do chấn thương trong thể thao chiếm tỷ lệ khá cao 64,7%. Lứa tuổi hay gặp nhất
là từ 21 đến 30 (46,7%). Kết quả sau phẫu thuật: 16/45 (35,6%) là rất tốt, 26/45 (66%) tốt, 2/45 (4,4%) vừa,
1/45(2,2%) xấu.
Kết luận: chỉ định khâu những tổn thương sụn chêm trong chấn thương ngày càng được chú ý và đem lại
kết quả tốt hơn về chức năng khớp gối cho bệnh nhân, giảm các biến chứng về lâu dài như thoái hóa khớp.
Từ khóa: khâu sụn chêm
ABSTRACT
DETERMINE THE OUTCOMES OF ARTHROSCOPIC MENISCUS SUTURE
Vo Thanh Toan, Nguyen Tien Binh, Tran Dinh Chien
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 240 - 243
Objective: evaluate the results arthoscopic meniscus suture.
Method: prospective study. From 7/2006 to 7/2010, we studied 45 patients, from 17 to 50 years old, were
diagnosed with tearing meniscus and were treated arthroscopic meniscus suture by outside-in, inside-out and all
inside techniques.
The result: over 45 patients in our study, the rate of men accounted for 62.2%, almost 2 times higher for
women is 37.8%. The main reason is due to sport a high percentage of 64.7%. The most common age is between
21 and 30 (46.7%). Results after surgery: 16/45 (35.6%) is very good, 26/45 (66%) good, 2/45 (4.4%) medium,
1/45 (2.2%) bad.
Conclusion: The indication suture meniscus tear in trauma more attention and give better results on knee
function for patients, reducing the long-term complications such as osteoarthritis
Key word: meniscus suture
ĐẶT VẤN ĐỀ
Những năm gần đây, cùng với sự gia tăng
các phương tiện giao thông và phong trào tập
luyện thể dục thể thao ngày càng phát triển sâu
rộng, làm cho số lượng chấn thương khớp gối
nói chung và thương tổn sụn chêm nói riêng
ngày càng tăng. Thương tổn sụn chêm do chấn
thương thường gặp nhiều hơn so với các loại
tổn thương sụn chêm do các nguyên nhân khác,
chiếm 68-75%(8).
* Bệnh viện Thống Nhất TP.Hồ Chí Minh ** Học viện Quân Y
Tác giả liên lạc: ThS. BS. Võ Thành Toàn ĐT: 0918554748 Email:vothanhtoan1990@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất TP. HCM 2012 241
Phẫu thuật nội soi khớp gối lần đầu tiên
được tiến hành trên thế giới vào ngày 9 tháng 3
năm 1955 do Watanabe.M thực hiện(2). Từ đó
phẫu thuật nội soi đã có nhiều sự phát triển
nhanh chóng, từng bước hoàn thiện và được
ứng dụng rộng rãi như hiện nay nhờ vào nhiều
ưu điểm: không những chẩn đoán chính xác các
thương tổn bên trong khớp gối, mà còn xử trí
các thương tổn đó. Bệnh nhân giảm được thời
gian nằm viện và phục hồi chức năng sau mổ,
nhanh chóng trở lại sinh hoạt và lao động bình
thường(3,4,6,5). Nhưng việc phẫu thuật nội soi
điều trị rách sụn chêm do chấn thương lúc bây
giờ vẫn chỉ là cắt lọc. Nhờ những hiểu biết ngày
càng rõ hơn về nguồn cấp máu, mô bệnh học,
người ta thấy rằng có những tổn thương sụn
chêm có thể khâu phục hồi, giúp giảm các biến
chứng xa sau mổ như tăng nguy cơ thoái hóa
khớp sau phẫu thuật, cải thiện tốt hơn chức
năng khớp gối. Do đó, năm 1969 Hiroshi Ikeuchi
tiến hành trường hợp phẫu thuật nội soi khâu
sụn chêm đầu tiên bằng kỹ thuật khâu từ trong
ra ngoài (Inside-out). Sau đó Henning, Albrecht,
Olsen tiếp tục phát triển kỹ thuật này. Đến
năm 1985 Waren đưa ra kỹ thuật phẫu thuật nội
soi khâu sụn chêm từ ngoài vào trong (Outside-
in) cho các trường hợp rách sụn chêm do chấn
thương. Sau đó xuất hiện thêm kỹ thuật khâu
sụn chêm hoàn toàn bên trong (All inside).
Tại Việt Nam trước năm 1994, phẫu thuật
rách sụn chêm khớp gối là phẫu thuật mở khớp,
kết quả mang lại chưa cao và có nhiều biến
chứng. Từ năm 1994 kỹ thuật nội soi khớp được
ứng dụng nhưng do phương tiện còn thiếu nên
cũng chỉ nhằm chẩn đoán. Những năm gần đây
phẫu thuật nội soi khớp gối mới thật sự phát
triển và đạt được những kết quả đáng khích lệ
trong chẩn đoán và điều trị thương tổn sụn
chêm. Tuy nhiên, các đề tài nghiên cứu chỉ nêu
phương pháp điều phẫu thuật nội soi cắt lọc
sụn chêm, hầu như chưa có đề tài nào đề cập
đến kỹ thuật phẫu thuật nội soi khâu sụn chêm,
vì vậy chúng tôi thực hiện đề tài: “Nghiên cứu
kết quả điều trị rách sụn chêm do chấn thương
bằng kỹ thuật khâu qua nội soi” với mục tiêu:
Tìm hiểu về đặc điểm tuổi, giới tính, nguyên nhân
chấn thương trong nhóm bệnh nhân được phẫu thuật
nội soi khâu sụn chêm và đánh giá kết quả điều trị
rách sụn chêm do chấn thương bằng kỹ thuật khâu
qua nội soi.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Tất cả 45 bệnh nhân rách sụn chêm do chấn
thương được chuẩn đoán và phẫu thuật bằng
nội soi khớp gối khâu sụn chêm tại bệnh viện
Thống Nhất – thành phố Hồ Chí Minh, từ tháng
7/2006 đến tháng 3/2010.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu tiến cứu
Chỉ định phẫu thuật
Chỉ định khâu khâu sụn chêm
Vị trí rách vùng giàu mạch máu nơi tiếp
giáp với bao khớp (vùng đỏ-đỏ và vùng đỏ-
trắng), đối với bệnh nhân trẻ tuổi cân nhắc khâu
cả vùng trắng-trắng.
Tốt nhất là rách mới không quá 8 tuần. Đối
với bệnh nhân trẻ tuổi cân nhắc chỉ định khi
rách trên 8 tuần.
Tốt nhất là khâu ở bệnh nhân dưới 45 tuổi,
nếu trên 45 tuổi cần cân nhắc.
Phương pháp phẫu thuật và đánh giá kết quả
phẫu thuật
Phương pháp phẫu thuật
Phẫu thuật nội soi khâu sụn chêm bằng các
kỹ thuật outside-in, inside-out và all inside tùy
theo thương tổn.
Phương pháp đánh giá kết quả
Kết quả sớm: Đánh giá các tai biến và biến
chứng trong và sau mổ.
Kết quả xa (trên 6 tháng sau phẫu thuật): Tái
khám định kỳ sau mổ 6 tháng và sau mỗi 3
tháng tiếp theo. Đánh giá kết quả dựa vào kết
quả khám lâm sàng, thực hiện các nghiệm pháp
lâm sàng, theo bảng đánh giá của Lysholm.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất TP. HCM 2012 242
Xử lý số liệu
Xử lý số liệu theo phương pháp thống kê y
học, sử dụng phần mềm SPSS 16.0.
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Tuổi và giới
Bảng 1: Phân bố bệnh nhân theo tuổi và giới (n=45)
Nam Nữ Tổng
Số BN % Số BN % Số BN %
17– 20 2 4,4 2 4,4 4 8,9
21 - 30 13 28,9 8 17,8 21 46,7
31 – 40 9 20 5 11,1 14 31,1
41 – 50 4 8,9 2 4,4 6 13,3
Số BN 28 17 45
% 62,2 37,8 100
Theo kết qủa trình bày ở bảng 1, các bệnh
nhân nghiên cứu của chúng tôi có tỷ lệ giữa
nam và nữ khác nhau, tỷ lệ nam chiếm 62,2%,
gấp gần 2 lần so với nữ là 37,8%, điều này cũng
phù hợp với các tác giả trong và ngoài nước.
Chấn thương kín khớp gối gây thương tổn sụn
chêm có nguyên nhân chủ yếu là tai nạn khi
luyện tập, thi đấu thể thao và tỷ lệ nam cao hơn
hẳn so với tỷ lệ bệnh nhân là nữ. Trên thực tế,
cường độ tập của nữ giới cũng nhẹ hơn so với
các môn thể thao của nam.
Trong nhóm các bệnh nhân nghiên cứu của
chúng tôi, bao gồm các lứa tuổi từ 17 đến 50
tuổi, tuổi trung bình 36,2 tuổi. Lứa tuổi hay gặp
nhất là từ 21 đến 30 (46,7%) và từ 31 đến 40 tuổi
(31,1%). Đây cũng là lứa tuổi thường gặp ở các
nghiên cứu khác như: Osti L, Liu SH, Raskin A,
Merlo F(8) với tỷ lệ tổn thương sụn chêm lứa tuổi
từ 17- 40 là 90%. Mặc khác, tuổi trung bình trong
nghiên cứu chúng tôi không có sự khác biệt rõ
rệt khi so sánh với các tác giả khác như: Hulet C,
Locker B(5) có tuổi trung bình 38 tuổi đối với sụn
chêm ngoài và 34 tuổi đối sụn chêm trong. Nhìn
chung chấn thương kín khớp gối thường gặp ở
những bệnh nhân có lứa tuổi hoạt động tích cực,
đây là lứa tuổi năng động, đầy đủ về thể chất và
thể lực, thích lựa chọn những môn thể thao phổ
cập, đối kháng, có nguy có chấn thương cao.
Nguyên nhân
Bảng 2: Phân bố bệnh nhân theo nguyên nhân (n=
45)
Nguyên
nhân TNGT CTTT TNSH TNLĐ Tổng
Số BN 11 28 4 2 45
% 24,4 62,2 5,5 4 100
Nguyên nhân do chấn thương thể thao
(62,2%) và tai nạn giao thông (24,4%) của chúng
tôi chiếm tỷ lệ khá cao, trong khi các nguyên
nhân khác như tai nạn lao động, sinh hoạt là
không cao. Chấn thương thể thao hay gặp là do
điều kiện tập luyện, vui chơi giải trí, và nhu cầu
sinh hoạt ngày càng phát triển, bệnh nhân đến
với chúng tôi chủ yếu là nghiệp dư, khi va chạm
dễ dàng dẫn đến chấn thương, phần lớn ở bệnh
nhân chúng tôi hay gặp là do bóng đá. Khi khai
thác tiền sử chúng tôi nhận thấy khớp gối
thường bị chấn thương ở tư thế là bàn chân trụ
bị xoay quá mức khi tranh chấp bóng hay bàn
chân trụ bị xoay và gấp gối quá mức khi nhảy
lên trên mặt đất. Các tác giả nước ngoài gặp
nguyên nhân chấn thương do thể thao chiếm đa
số. Randall Cooper(1) cho rằng, cơ chế thông
thường nhất trong thể thao là cơ chế xoay, bàn
chân trụ bị xoay quá mức trên mặt đất.
Kết quả phẫu thuật
Kết quả sớm
Bảng 3: Kết quả phục hồi chức năng vận động khớp
sau mổ 3 tháng (n = 45)
Kết quả Rất tốt Tốt Vừa Xấu Tổng
Số bn 12 29 3 1 45
% 26,7 64,4 6,7 2,2 100
Kết quả xa sau phẫu thuật
Bảng 4: Thời gian theo dõi kết quả xa (n = 45)
Thời gian
theo dõi
6 - 9
tháng
9 - 12
tháng ≥ 12 tháng Tổng
Số bn 2 7 36 45
% 4,4 15,6 80 100
Bảng 5: Kết quả phục hồi chức năng vận động khớp
sau mổ 6 tháng (n = 45)
Kết quả Rất tốt Tốt Vừa Xấu Tổng
Số bn 14 28 2 1 45
% 31,1 62,3 4,4 2,2 100
Sau phẫu thuật 6 tháng, có 18 bệnh nhân
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất TP. HCM 2012 243
(40%) cải thiện từ mức độ vừa lên tốt
Kết quả chung
Bảng 6: Kết quả chung (n = 45)
Kết quả Rất tốt Tốt Vừa Xấu Tổng
Số BN 0 0 22 23 45
Trước mổ
% 0 0 48,9 51,1 100
Số BN 12 24 7 2 45 Sau mổ 3
tháng % 26,7 53,4 15,5 4,4 100
Số BN 14 27 3 1 45 Sau mổ 6
tháng % 31,1 60 6,7 2,2 100
Số BN 16 26 2 1 45 Chung >
12 tháng) % 35,6 66 4,4 2,2 100
Có nhiều cách đánh giá kết quả sau phẫu
thuật khác nhau, chúng tôi áp dụng đánh giá kết
quả sau phẫu thuật dựa vào thang điểm
Lysholm, bởi vì bảng đánh giá chức năng vận
động của Lysholm đánh giá chức năng vận
động của khớp gối nói chung, bao gồm các tiêu
chuẩn dựa vào lâm sàng như đau, dáng đi,
dùng nạn, sưng gối, lục khục trong gối, lỏng
gối, khả năng leo cầu thang và ngồi xổm, bảng
thang điểm này không phục thuộc vào máy đo
độ lỏng gối như các phương pháp khác, việc
đánh giá theo bảng điểm này mang tính phổ
cập, dễ thực hiện, phù hợp với các bác sỹ chấn
thương chỉnh hình ở nước ta.
Trong nghiên cứu chúng tôi với 45 bệnh
nhân, bệnh nhân theo dõi lâu nhất 38 tháng, gần
nhất là 3 tháng. Chúng tôi đánh giá kết quả
chung dựa vào thang điểm Lysholm, theo kết
quả chung (bảng 6) với kết quả như sau: 16/45
(35,6%) là rất tốt, 26/45 (66%) tốt, 2/45 (4,4%) vừa,
1/45(2,2%) xấu. Khi so sánh các tác giả khác như
Dürselen L(3), Frosch KH(4), kết quả sau phẫu
thuật đánh giá theo thang điểm Lysholm của
chúng tôi hơi thấp hơn so với các tác giả nước
ngoài, có thể bệnh nhân của chúng tôi đến phẫu
thuật thường muộn và điều kiện tập phục hồi
chức năng sau mổ không tốt bằng.
Chúng tôi có kết quả xấu chiếm tỷ lệ 2,2% (1
bệnh nhân), ca có kết quả xấu này ở bệnh nhân
ít tập và không tập phục hồi chức năng, béo phì,
kiểu rách biến dạng và rách ngang, tuổi trên 45,
theo dõi sau mổ thường đau kéo dài, phải điều
trị nội khoa phối hợp dài ngày.
KẾT LUẬN
Qua 45 bệnh nhân trong nghiên cứu, chúng
tôi rút ra một số kết luận như sau: với sự hiểu
biết ngày càng rõ hơn về mô bệnh học, nguồn
cấp máu bên cạnh đó là những tiến bộ trong
phẫu thuật nội soi khớp gối, chỉ định khâu
những tổn thương sụn chêm trong chấn thương
ngày càng được chú ý và đem lại kết quả tốt hơn
về chức năng khớp gối cho bệnh nhân, giảm các
biến chứng về lâu dài như thoái hóa khớp.
TÀI LIỆU THAM
1. Cooper R, Crossley K, Morris H (2001), “Acute knee injuries”,
Clinical sporst Medecine, Ed by the McGraw- Hill Companies: 426-462.
2. Dubos JP (1999), “Historique de L’arthroscopie”, Société francaise
d’arthroscopie, Elsevier, P. 15 – 17
3. Dürselen L, Vögele S, Seitz AM, Ignatius A, Friederich NF, Bauer
G, Majewski M. (2011), “Anterior knee laxity increases gapping of
posterior horn medial meniscal tears”, Am J Sports Med, Epub 2011
May 5;39(8):1749-1755.
4. Frosch KH, Fuchs M, Losch A, Stürmer KM. (2005), “Repair of
meniscal tears with the absorbable Clearfix screw: results after 1-3
years”, Arch Orthop Trauma Surg;125(9):585-591.
5. Hulet C, Locker B, Chu C (1999), “Meniscectomies sous
Athroscopie a plus de 10 ans Epidemiologi”, Ann Soc Fr
Arthroscopie; 6: 101-102
6. Martens MA, Backaert M, Heyman E, Mulier JC. (1986), “Partial
arthroscopic meniscectomy versus total open meniscectomy”, Arch
Orthp Trauma surg; 105(1): 31.
7. Metcalf RW (1991), “Arthroscopy meniscal surgery”, Operative
Arthroscopy, Raven Press, New York, chapter 15: 203 – 235.
8. Orengo P, Zahlaoui J. (1999), “Chirurgie des ménisque”, Encyl Méd
chir France 44785, 4-10-06 p.18.
9. Osti L, Liu SH, Raskin A. (1994), “Partial lateral meniscectomy in
athletes”, Arthroscopy: 4-10.
10. Panisset JC, Prudhon JL, Neyret P. (1999), “Méniscectomie: voies
d’abord, technique stratégie Ménisque interne, Ménisque externe”,
Arthroscopie. Société francaise d’arthroscopie; p 93 – 102.
11. Pettrone FA (1982), “Meniscectomy: Arthrotomy vernus
Arthroscopy”, Am J Sports Med: 10: 355-359.