Mục tiêu: Định lượng, so sánh nồng độ estradiol (E2), estradiol tự do (FE2), nồng độ sex hormone binding
globulin (SHBG) và albumin ở nhóm bệnh nhân nữ bị bệnh động kinh so với nhóm người bình thường. Mối liên
quan giữa nồng độ estradiol với SHBG và albumine ở bệnh nhân nữ bị bệnh động kinh. Đánh giá mối liên quan
giữa nồng độ Estradiol máu của bệnh nhân nữ bị động kinh với một số đặc điểm lâm sàng bệnh động kinh.
Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang mô tả, tiến cứu, có nhóm chứng, thực hiện ở 31 phụ nữ, tuổi từ 16
đến 45, bị bệnh động kinh và 30 phụ nữ bình thường. Nồng độ estradiol, SHBG và albumin được định lượng vào
giữa giai đoạn nang trứng và giữa giai đoạn hoàng thể.
Kết quả: Có mối tương quan thuận giữa tuổi với thời gian khởi phát và thời gian bị bệnh; có mối tương quan
nghịch giữa tuổi bắt đầu bị bệnh và thời gian bị bệnh. 27,8% bệnh nhân nữ khởi phát bệnh động kinh lúc dậy thì.
Nồng độ estradiol giai đoạn nang trứng là 126,92 pmol/l ± 10,11, giai đoạn hoàng thể là 291,24 pmol/l ± 48,72.
Nồng độ estradiol tự do giai đoạn nang trứng là 0,71 pmol/l ± 0,22, giai đoạn hoàng thể là 1,42 pmol/l ± 0,34.
Nồng độ SHBG giai đoạn nang trứng là 66,80 ng/ml ± 5,76, giai đoạn hoàng thể là 70,76 ng/ml ± 6,08. Nồng độ
albumine là 43,42 g/l ± 0,63. Không có sự tương quan về nồng độ estradiol với tuổi khởi phát, thời gian bị bệnh
của bệnh nhân nữ bị động kinh; Không có sự khác biệt về nồng độ estradiol giữa các loại cơn động kinh, tần số cơn
động kinh, nguyên nhân gây bệnh động kinh và giữa các phương pháp điều trị bệnh động kinh ở phụ nữ.
Kết luận: Ở bệnh nhân nữ bị bệnh động kinh thường có nồng độ estradiol và estradiol tự do thấp hơn trong
khi nồng độ SHBG cao hơn so với nhóm phụ nữ bình thường. Không có sự khác biệt về nồng độ estradiol giữa các
loại cơn động kinh, tần số cơn động kinh, nguyên nhân gây bệnh động kinh và giữa các phương pháp điều trị
bệnh động kinh ở phụ nữ.
7 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 13/06/2022 | Lượt xem: 295 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá nồng độ Estradiol ở bệnh nhân nữ động kinh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Nội Khoa II 102
ĐÁNH GIÁ NỒNG ĐỘ ESTRADIOL Ở BỆNH NHÂN NỮ ĐỘNG KINH
Lê Văn Tuấn*, Phạm Hồng Đức**
TÓM TẮT
Mục tiêu: Định lượng, so sánh nồng độ estradiol (E2), estradiol tự do (FE2), nồng độ sex hormone binding
globulin (SHBG) và albumin ở nhóm bệnh nhân nữ bị bệnh động kinh so với nhóm người bình thường. Mối liên
quan giữa nồng độ estradiol với SHBG và albumine ở bệnh nhân nữ bị bệnh động kinh. Đánh giá mối liên quan
giữa nồng độ Estradiol máu của bệnh nhân nữ bị động kinh với một số đặc điểm lâm sàng bệnh động kinh.
Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang mô tả, tiến cứu, có nhóm chứng, thực hiện ở 31 phụ nữ, tuổi từ 16
đến 45, bị bệnh động kinh và 30 phụ nữ bình thường. Nồng độ estradiol, SHBG và albumin được định lượng vào
giữa giai đoạn nang trứng và giữa giai đoạn hoàng thể.
Kết quả: Có mối tương quan thuận giữa tuổi với thời gian khởi phát và thời gian bị bệnh; có mối tương quan
nghịch giữa tuổi bắt đầu bị bệnh và thời gian bị bệnh. 27,8% bệnh nhân nữ khởi phát bệnh động kinh lúc dậy thì.
Nồng độ estradiol giai đoạn nang trứng là 126,92 pmol/l ± 10,11, giai đoạn hoàng thể là 291,24 pmol/l ± 48,72.
Nồng độ estradiol tự do giai đoạn nang trứng là 0,71 pmol/l ± 0,22, giai đoạn hoàng thể là 1,42 pmol/l ± 0,34.
Nồng độ SHBG giai đoạn nang trứng là 66,80 ng/ml ± 5,76, giai đoạn hoàng thể là 70,76 ng/ml ± 6,08. Nồng độ
albumine là 43,42 g/l ± 0,63. Không có sự tương quan về nồng độ estradiol với tuổi khởi phát, thời gian bị bệnh
của bệnh nhân nữ bị động kinh; Không có sự khác biệt về nồng độ estradiol giữa các loại cơn động kinh, tần số cơn
động kinh, nguyên nhân gây bệnh động kinh và giữa các phương pháp điều trị bệnh động kinh ở phụ nữ.
Kết luận: Ở bệnh nhân nữ bị bệnh động kinh thường có nồng độ estradiol và estradiol tự do thấp hơn trong
khi nồng độ SHBG cao hơn so với nhóm phụ nữ bình thường. Không có sự khác biệt về nồng độ estradiol giữa các
loại cơn động kinh, tần số cơn động kinh, nguyên nhân gây bệnh động kinh và giữa các phương pháp điều trị
bệnh động kinh ở phụ nữ.
Từ khóa: Động kinh, cơn co giật, estradiol, SHBG
ABSTRACT
ASSESS LEVELS OF ESTRADIOL IN FEMALE PATIENTS WITH EPILEPSY
Le Van Tuan, Pham Hong Duc
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 - Supplement of No 1 - 2013: 102 - 108
Objective: Quantitative, comparable levels of estradiol (E2), free estradiol (FE2), the concentration of sex
hormone binding globulin (SHBG) and albumin in female patients with epilepsy compared with the controls
group. The relationship between the concentration of estradiol to SHBG and albumine in female patients with
epilepsy. Evaluate the relationship between blood levels of Estradiol of female patients with epilepsy with some
clinical characteristics of epilepsy.
Methods: cross-sectional study, prospective with, the control group, performed in 31 women, aged 16 to 45
with epilepsy and 30 normal women. Concentrations of estradiol, SHBG and albumin was determined between
the follicular phase and between the luteal phase.
Results: There is a positive correlation between age and time of onset and duration of illness; negative
* Bộ môn Thần Kinh, ĐHYD Tp. Hồ Chí Minh
** Khoa Nội thần kinh–Bệnh viện 30/4 Tp. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: BS. Phạm Hồng Đức ĐT: 0906272979 Email: bsduc@benhvien304.vn
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa II 103
correlation between age of onset of disease and duration of disease. 27.8% of female patients the onset of epilepsy at
puberty. Follicular phase estradiol concentration was 126.92 pmol/l ± 10.11, luteal phase is 291.24 pmol/l ± 48.72.
Free estradiol concentrations follicular phase was 0.71 pmol/l ± 0.22, luteal phase is 1.42 pmol/l ± 0.34. SHBG
concentrations follicular phase was 66.80 ng/ml ± 5.76, luteal phase was 70.76 ng/ml ± 6.08. Albumine
concentration was 43.42 g/l ± 0.63. No correlation of estradiol levels with age of onset, duration of illness of female
patients with epilepsy; There is no difference in estradiol levels between different types of seizures, frequency of
seizures, causes of epilepsy and between the treatment of epilepsy in women.
Conclusion: estradiol and free estradiol were lower, whereas SHBG levels were higher in the epilepsy
patients than in the controls. However, estradiol, free estradiol and SHBG levels were not different between
groups of patients categorized according to SFS, causes of epilepsy and between the treatment of epilepsy in
women.
Keywords: Epilepsy, seizures, estradiol, SHBG
ĐẶT VẤN ĐỀ
Động kinh là tình trạng bệnh lý ở não đặc
trưng bởi sự phóng lực quá mức và đồng thời
của các neuron ở não, biểu hiện lâm sàng bởi
những cơn đột ngột, nhất thời và lặp lại(15). Phụ
nữ bị bệnh động kinh ngoài sự đối mặt với
những thử thách như cơn co giật khó lường
trước, nguy cơ của tổn thương liên quan đến cơn
giật, thành kiến xã hội còn phải đối mặt với các
thay đổi sinh lý khác như mang thai, nguy cơ bất
thường thai nhi, rối loạn chức năng tình dục, chu
kỳ kinh nguyệt và các rối loạn nội tiết tố sinh
sản(10. Trên thế giới đã có một số nghiên cứu về
tần suất và mức độ nặng của cơn co giật có thể
thay đổi cùng với những biến đổi của những
hocmon steroid giới tính do buồng trứng tiết ra.
Ở Việt Nam hiện chưa có một nghiên cứu nào về
nồng độ hormone giới tính ở bệnh nhân nữ bị
bệnh động kinh. Vì vậy chúng tôi thực hiện
nghiên cứu này để “Đánh giá nồng độ Estradiol
ở bệnh nhân nữ động kinh”.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp
Nghiên cứu cắt ngang mô tả, tiến cứu, có
nhóm chứng
Nhóm bệnh
31 bệnh nhân nữ tuổi từ 16 đến 45, bị bệnh
động kinh đang điều trị tại khoa Khám bệnh,
Bệnh viện Tâm thần Tp.Hồ Chí Minh, khoa
Khám bệnh, Bệnh viện 30/4, từ tháng 5 năm 2011
đến tháng 9 năm 2011. Tiêu chuẩn đưa vào: bệnh
nhân nữ bị bệnh động kinh, có chu kỳ kinh
nguyệt đều trong 3 tháng gần nhất; có thời gian
bị bệnh từ 06 tháng trở lên, đã được điều trị hoặc
chưa được điều trị bằng thuốc chống động kinh.
Tiêu chuẩn loại trừ: bệnh nhân có kèm theo bệnh
nội tiết, bệnh trao đổi chất; cắt bỏ buồng trứng
trước đó; đang có thai nghén hoặc cho con bú; đã
kết thúc có thai hoặc cho con bú dưới một năm;
kinh nguyệt không đều; các liệu pháp nội tiết
trong 6 tháng trước đó; sử dụng các loại thuốc
can thiệp chức năng dưới đồi-tuyến yên và/hoặc
với steroid tổng hợp, chuyển hóa trừ các thuốc
chống động kinh.
Nhóm chứng
30 phụ nữ bình thường, tuổi từ 16 đến 45,
không không có các đặc điểm trong tiêu chuẩn
loại trừ của nhóm bệnh.
Chúng tôi hỏi bệnh sử, tiền sử, khám lâm
sàng, cận lâm sàng, chẩn đoán, phân loại động
kinh. Định lượng nồng độ estradiol, SHBG,
albumin máu hai lần trong một chu kỳ kinh
nguyệt, đó là vào giữa giai đoạn nang và giữa
giai đoạn hoàng thể ở cả 2 nhóm người bình
thường và nhóm bệnh động kinh. Nồng độ
estradiol tự do được tính theo công thức(2):
[Estradiol pmol/l]/[(3,14 x 108 x SHBG nmol/l) +
(4,21 x 104 x Albumin g/l + 1)].
Xử lý số liệu
Phần mềm SPSS 16.0
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Nội Khoa II 104
KẾT QUẢ:
Độ tuổi trung bình 27,39 ± 8,53 tuổi, độ tuổi
trẻ nhất là 16, lớn nhất là 44 tuổi.
Tuổi khởi phát bệnh trung bình(năm): 16,03
± 8,89. Thời gian bị bệnh trung bình (năm): 11,35
± 7,45. Bệnh khởi phát lúc dậy thì (năm): 12
(27,8%). Trong nghiên cứu này chúng tôi thấy có
mối tương quan thuận khá chặt chẽ giữa tuổi và
độ tuổi khởi phát bệnh động kinh, với R = 0,620,
P = 0,0001. Có sự tương quan thuận, mức độ
tương quan trung bình giữa tuổi và thời gian bị
bệnh, R = 0,376. Có sự tương quan nghịch khá
chặt chẽ giữa tuổi bắt đầu bị bệnh và thời gian bị
bệnh, với R = 0,489, P= 0,005.
Tần số cơn động kinh (seizure frequency
score - SFS) được chia làm 4 nhóm: SFS1 khi
không có cơn động kinh trong 1 tháng, SFS2 khi
có 1 cơn/tháng; SFS3 khi có dưới 4 cơn/tháng;
SFS4 khi có từ 5 cơn/tháng trở lên Kết quả, SFS1
(n = 1), SFS2 (n = 3), SFS3 (n = 10), SFS4 (n = 17).
SFS trung bình: 3,39
Nồng độ estradiol trong giai đoạn nang ở
nhóm phụ nữ bị bệnh động kinh là 126,92
pmol/l, trong khi nồng độ estradiol trong giai
đoạn này ở nhóm phụ nữ bình thường là 190,90
pmol/l ± 5,62. Nồng độ estradiol trong giai đoạn
hoàng thể ở nhóm phụ nữ bị bệnh động kinh là
291,23 pmol/l, nồng độ estradiol trong giai đoạn
này ở nhóm phụ nữ bình thường là 495,21
pmol/l ± 20,07, sự khác biệt này có ý nghĩa thống
kê với p < 0,0001.
Nồng độ estradiol tự do trong máu ở giai
đoạn nang trứng của nhóm phụ nữ bị bệnh động
kinh là 0,709 pmol/l thấp hơn đáng kể so với
nồng độ estradiol tự do trong máu ở giai đoạn
nang trứng của nhóm phụ nữ bình thường là
1,365 pmol/l, p < 0,0001. Nồng độ estradiol tự do
trong máu ở giai đoạn hoàng thể của nhóm bị
bệnh động kinh là 1,42 pmol/l trong khi ở nhóm
người bình thường là 3,307 pmol/l, p < 0,0001.
Giai đoạn nang trứng, nồng độ SHBG của
nhóm phụ nữ bị bệnh động kinh là 66,80 pg/ml,
SHBG của nhóm phụ nữ bình thường là
44,79pg/ml, p < 0,0001. Giai đoạn hoàng thể nồng
độ SHBG của nhóm bệnh nhân nữ bị bệnh động
kinh là 70,75 pg/ml, của nhóm phụ nữ bình
thường là 48,12 pg/ml, p < 0,0001.
Bảng 1: Nồng độ estradiol, SHBG, albumin giai đoạn
nang trứng và giai đoạn hoàng thể
Nhóm bệnh
(n=31)
Nhóm chứng
(n=30)
p
Tuổi
(năm)
27,39
24,32–30,45
25,20
24,38 – 26,02
> 0,05
BMI
(kg/m
2)
19,12
18,72–19,52
19,29
18,61 – 19,97
> 0,05
E2 nang
trứng(pmol/l)
126,92
116,81-137,04
190,90
185,28–196,52
<0,0001
E2 hoàng thể
(pmol/l)
291,24
242,5 –339,95
495,21
475,14–515,27
<0,0001
E2 tự do nang
trứng(pmol/l)
0,71
0,49–0,93
1,37
1,31–1,41
<0,0001
E2 tự do
hoàng thể
(pmol/l)
1,42
1,08–1,76
3,31
3,12–3,49 <0,0001
SHBG nang
trứng (pg/ml)
66,80
61,04–72,57
44,79
43,28–46,30
<0,0001
SHBG hoàng
thể (pg/ml)
70,76
64,68 – 76,83
48,12
46,48 – 49,75
<0,0001
Albumin (g/l)
43,42
42,79 – 44,06
44,27
43,52 – 45,02
> 0,05
Nồng độ estradiol, nồng độ estradiol tự do ở
cả hai giai đoạn của chu kỳ kinh nguyệt được
chia thành 4 nhóm theo bảng tần số cơn động
kinh. So sánh giữa các nhóm không thấy sự khác
biệt về nồng độ estradiol ở cả hai giai đoạn với
tần số cơn động kinh, p > 0,05.
Bảng 2: Nồng độ estradiol với tần số cơn động kinh
SFS 1
(n = 1)
SFS 2
(n = 3)
SFS 3
(n = 10)
SFS 4
(n = 17)
p
E2 nang
trứng
(pmol/l)
139,62
114,92
± 15,61
136,69
± 36,52
122,55
± 22,98
0,50
E2 hoàng
thể (pmol/l) 312,98
186,27
± 18,70
324,05
± 158,08
289,18
± 126,79
0,49
FE2 nang
trứng
(pmol/l)
0,57
0,69
± 0,16
0,62
± 0,14
0,78
± 0,81
0,45
FE2 hoàng
thể (pmol/l) 1,11
0,95
± 0,13
1,33
± 0,55
1,42
± 0,93
0,72
Nồng độ estradiol, nồng độ estradiol tự do
được chia thành các nhóm theo loại cơn động
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa II 105
kinh, so sánh giữa các nhóm chúng tôi không
thấy có sự khác biệt về nồng độ estradiol và
estradiol tự do trong các loại cơn động kinh ở cả
hai giai đoạn, p > 0,05.
Bảng 3: Nồng độ estradiol theo loại cơn động kinh
Loại cơn E2 nang
trứng
(pmol/l)
E2 hoàng
thể
(pmol/l)
FE2
nang
trứng
(pmol/l)
FE2
hoàng
thể
(pmol/l)
Cơn co cứng co
giật (n = 11)
130,98
±35,96
305,21
±123,42
0,91
±1,00
1,69
±1,35
Cơn tăng trương
lực (n = 1) 167,20 487,00 0,82 2,21
Cơn vắng ý thức
(n = 2)
130,41
± 44,67
403,25
± 306,53
0,56
± 0,15
1,35
± 0,72
Cơn cục bộ đơn
giản (n = 2)
115,36
± 7,97
192,11
± 8,93
0,54
± 0,01
0,86
±0,02
Cơn cục bộ phức
tạp (n = 1) 132,93 177,00 0,79 1,01
Cơn cục bộ toàn
thể hóa (n = 14)
121,58
± 20,16
272,59
± 117,60
0,59
± 0,13
1,26
± 0,59
P 0,68 0,33 0,87 0,72
Nồng độ estradiol trung bình được tính theo
phương pháp điều trị, trong đó nhóm đơn trị
liệu có 10 bệnh nhân, nhóm đa trị liệu có 21 bệnh
nhân. Kết quả, không có sự khác biệt đáng kể
nào về nồng độ estradiol trong nhóm đơn trị liệu
so với nhóm đa trị liệu ở cả hai giai đoạn nang và
giai đoạn hoàng thể, P > 0,05.
Bảng 4: Nồng độ estradiol theo phương pháp điều trị
Đơn trị liệu (n =
10)
Đa trị liệu
(n = 21)
p
E2 nang
trứng(pmol/l)
123,83 ± 19,08 128,39 ± 31,14 0,67
E2 hoàng thể
(pmol/l)
261,41±141,80 305,44±129,46 0,39
FE2 nang
trứng(pmol/l)
0,92 ± 1,04 0,61 ± 0,15 0,17
FE2 hoàng thể
(pmol/l)
1,57 ± 1,46 1,35 ± 0,56 0,53
Không có sự khác biệt về nồng độ estradiol
giữa các loại cơn động kinh, tần số cơn động
kinh, nguyên nhân gây bệnh động kinh và
giữa các phương pháp điều trị bệnh động kinh
ở phụ nữ.
BÀN LUẬN
Trong nghiên cứu này, tuổi dậy thì trung
bình là 13, tuổi dậy thì sớm nhất là 8 tuổi, lớn
nhất là 15 tuổi. Tỷ lệ có cơn động kinh khởi phát
năm dậy thì là 27,8%. Điều này có thể giải thích
do ở tuổi dậy thì, nồng độ estrogen (chủ yếu là
estradiol) tăng cao trong máu. Đã có nhiều
nghiên cứu về Estrogen với bệnh động kinh, kết
quả của nhiều nghiên cứu ngày càng chắc chắn
rằng estrogen là chất gây co giật (proconvulsant).
Estrogen là các hormone steriod của buồng
trứng làm thay đổi tính dẫn truyền của màng tế
bào, sinh hợp protein và hình thái thần kinh. Tác
dụng chính là tăng estrogen ảnh hưởng tới khả
năng xảy ra co giật. Các nghiên cứu về estrogen
đã cung cấp bằng chứng rằng nó tạo ra các triệu
chứng co giật(8,18).
Trong nghiên cứu này chúng tôi thấy có mối
tương quan thuận khá chặt chẽ giữa tuổi và độ
tuổi khởi phát bệnh động kinh. Có sự tương
quan thuận, mức độ tương quan trung bình giữa
tuổi và thời gian bị bệnh. Có sự tương quan
nghịch khá chặt chẽ giữa tuổi bắt đầu bị bệnh và
thời gian bị bệnh. Một số nghiên cứu trước
đây(2,11), cũng nhận thấy có mối tương quan
thuận giữa tuổi với thời gian khởi phát và thời
gian bị bệnh; có mối tương quan nghịch giữa
tuổi bắt đầu bị bệnh và thời gian bị bệnh.
Nồng độ estradiol, estradiol tự do ở cả giai
đoạn nang trứng và giai đoạn nang hoàng thể
thấp hơn đáng kể so với nhóm phụ nữ bình
thường, p < 0,0001. Trong khi nồng độ SHBG ở
cả hai giai đoạn nang trứng và nang hoàng thể
của nhóm phụ nữ bị bệnh động kinh cao hơn có
ý nghĩa thống kê so với nồng độ SHBG của
nhóm phụ nữ bình thường, P < 0,0001. Kết quả
trên cũng phù hợp với nghiên cứu của Carlo
Andrea Galimberti (2008) và nghiên cứu của
Giovanni Murialdo và cộng sự (2009)(2,11).
Các nồng độ hormone steroid giới tính bị
thay đổi ở phụ nữ sử dụng các thuốc chống
động kinh (AEDs), do AEDs thay đổi enzyme
cytochorom P450 của gan. Enzyme này làm tăng
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Nội Khoa II 106
chuyển hóa các steroid giới tính và tăng sự gắn
hormone vào các globulin tương ứng. Phụ nữ sử
dụng AEDs ảnh hưởng cytochrom P450 như
phenytoid, carbamazepin, phenobarbital có sự
giảm rõ rệt estradiol và androgen sinh ra từ
buồng trứng và thượng thận so với những người
sử dụng các AEDs không ảnh hưởng tới enzyme
này như gabapentin. Valproate ức chế enzyme
này do đó làm tăng nồng độ androgen(6,9,12).
Mặt khác, AEDs có thể nhắm mục tiêu một
số nền ảnh hưởng đến nồng độ hormone, bao
gồm cả tuyến nội tiết ngoại vi, gan và mô mỡ.
Lâm sàng nổi bật nhất và có liên quan đến ảnh
hưởng của thuốc chống động kinh trên chức
năng nội tiết là tình dục và chức năng sinh
sản(4,17).
Thuốc chống động kinh cũng có thể ảnh
hưởng đến tâm trạng và điều chỉnh hành vi tình
dục ở phụ nữ. Các thuốc có tác dụng kích hoạt
men (ví dụ: Phenobarbital (PB), Phenytoin (PHT)
và carbamazepine – CAR) làm tăng SHBG kéo
theo sự giảm của các steroid sinh dục tự do(17) ở
cả nam giới và phụ nữ. Điều này cũng phù hợp
trong nghiên cứu của chúng tôi với tỷ lệ bệnh
nhân sử dụng các loại thuốc Phenobarbital,
Phenytoin, carbamazepine và Oxcarbamazepine
là 24 trường hợp chiếm 77,42% làm tăng SHBG
kéo theo sự giảm estradiol tự do.
Các thuốc ức chế men như valproic acid, có
thể tác động tăng cân và tăng tiết androgen bằng
cách ức chế chuyển đổi testosterone thành
estradiol. Điều này gia tăng cũng là nguy cơ cho
buồng trứng đa nang ở phụ nữ và có thể gây
tăng tiết insulin(13,14). Carbamazepine có thể có lợi
cho phụ nữ với tăng tiết androgen(16).
Thay thế acid valproic (VPA) bởi lamotrigine
có thể có kết quả bình thường hóa các chu kỳ
kinh nguyệt. Đáng chú ý, một số AED có thể làm
thay đổi sự trao đổi chất testosterone, estradiol
và/hoặc dihydrotestosterone hoặc 3α-diol(1,7).
Như chúng ta đã biết, estrogen là hormone
steriod của buồng trứng làm thay đổi tính dẫn
truyền của màng tế bào, sinh hợp protein và
hình thái thần kinh. Tác dụng chính là tăng
estrogen làm ảnh hưởng tới khả năng xảy ra
co giật.
Estrogen làm giảm sự nhập bào của calcium
và CI ở thụ thể màng GABA-A, làm giảm ức chế
gián tiếp GABA và là một agonist ở thụ thể
glutamate thuộc hippocapus, tăng tính kích
thích. Estrogen làm thay đổi mã mRNA đối với
enzyme decarboxylase acid glutamic, giảm sinh
tổng hợp GABA và cụ thể GABA-A.
Estrogen cũng làm tăng sự phân nhánh vì
vậy làm tăng tính kích thích ở khe synap thần
kinh của hippocampus. Tác động kích thích cơn
co giật của estrogen đã được chứng minh bằng
các thí nghiệm trên động vật và quan sát trên
phụ nữ bị động kinh. Tính chất và tần số co giật
ở phụ nữ bị động kinh có thể thay đổi ở tuổi dậy
thì, trong suốt chu kì kinh nguyệt, trong suốt thai
kì và tuổi mãn kinh.
Ngoài ra, rối loạn nội tiết sinh sản liên quan
trục hạ đồi – yên được thấy trong động kinh.
Những động vật động kinh thí nghiệm có rối
loạn hormone phóng thích ganadotropin hạ đồi.
Còn ở phụ nữ, có đến 50% phụ nữ động kinh có
bất thường về nồng độ và sự phóng thích theo
chu kỳ của ganadotropin tuyến yên, hormone
của hoàng thể(3,5).
Trong máu estradiol được gắn kết chủ yếu
với SHBG và một phần nhỏ gắn kết với albumin,
khi đến mô đích estradiol được giải phóng dưới
dạng tự do. Vì vậy nếu nồng độ SHBG và
albumin thấp có thể ảnh hưởng đến nồng độ
estradiol và estradiol tự do. Trong nghiên cứu
của chúng tôi, nồng độ SHBG ở nhóm bệnh
nhân nữ mắc bệnh động kinh cao hơn đáng kể
với nồng độ SHBG của nhóm phụ nữ bình
thường và nồng độ albumin hai nhóm không
khác nhau. Điều đó giải thích thêm rằng nồng độ
estradiol ở nhóm bệnh nhân bị bệnh động kinh
thấp không phải do nguyên nhân của SHBG và
albumin.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã phân
tích những dữ liệu về nồng độ estradiol trong
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa II 107
các phân nhóm theo SFS. Kết quả, chúng tôi
không tình thấy có sự khác biệt nào về nồng độ
estradiol ở cả hai giai đoạn nang trứng và giai
đoạn hoàng thể với tần số cơn động kinh. Kết
quả này cũng phù hợp với nghiên cứu của Carlo
Andrea Galimberti (2008), nghiên cứu của
Giovanni Murialdo (2009)(2,11). Do đó, nồng độ
estradiol ở nhóm bệnh nhân mắc bệnh động
kinh thấp hơn nhóm phụ nữ bình thường có lẽ
do sự có mặt của bệnh động kinh với các thuốc
chống động kinh chứ không phải do tần số cơn
động kinh nhiều hay ít.
Kết quả nghiên cứu này của chúng tôi cho
thấy không có sự khác biệt về nồng độ
estradiol giữa các nguyên nhân và giữa các
loại cơn động kinh. Tuy nhiên, khi phân tích
estradiol của từng nguyên nhân và từng loại
cơn động kinh với nồng độ estradiol của nhóm
phụ nữ bình thường chúng tôi thấy có sự giảm
thấp nồng độ estradiol ở mỗi nhóm phụ nữ bị
bệnh động kinh, P < 0,0001.
KẾT LU