ĐBSCL (Đồng Bằng Sông Cửu Long) nằm kéo dài từ 8°30’ đến 11°00 vĩ Bắc; 104°35’ đến 107°00 kinh Đông. Nằm ở cực nam của đất nước, là phần cuối cùng của lưu vực sông Mêkông với tổng diện tích tự nhiên là 3,96 triệu ha bằng 5% diện tích toàn lưu vực.
Diện tích đồng bằng là 39.700 km2, bao gồm 12 tỉnh: Long An, Tiền Giang, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà Mau, Sóc Trăng, Vĩnh Long, Trà Vinh, Hậu Giang, Bến Tre, và thành phố Cần Thơ.
2. Địa chất
Nếu so với đồng bằng sông Hồng, ĐBSCL có tuổi thành tạo xưa hơn nhiều - ít nhất cũng cách đây cả hằng triệu năm. Vùng ĐBSCL được hình thành từ những trầm tích phù sa và bồi dần qua những kỷ nguyên thay đổi mực nước biển. Những hoạt động hỗn hợp của sông và biển đã hình thành những vạt đất phù sa phì nhiêu.
87 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1886 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đánh giá tác động môi trường của hoạt động khai thác và chế biến khoáng sản tại nhà máy xi măng holcim. đề xuất các giải pháp cải thiện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN 1; TỔNG QUAN
Chương 1: Tổng quan về Đồng Bằng sông Cửu Long
I. MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN
1. Vị trí địa lý
ĐBSCL (Đồng Bằng Sông Cửu Long) nằm kéo dài từ 8°30’ đến 11°00 vĩ Bắc; 104°35’ đến 107°00 kinh Đông. Nằm ở cực nam của đất nước, là phần cuối cùng của lưu vực sông Mêkông với tổng diện tích tự nhiên là 3,96 triệu ha bằng 5% diện tích toàn lưu vực.
Diện tích đồng bằng là 39.700 km2, bao gồm 12 tỉnh: Long An, Tiền Giang, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà Mau, Sóc Trăng, Vĩnh Long, Trà Vinh, Hậu Giang, Bến Tre, và thành phố Cần Thơ.
2. Địa chất
Nếu so với đồng bằng sông Hồng, ĐBSCL có tuổi thành tạo xưa hơn nhiều - ít nhất cũng cách đây cả hằng triệu năm. Vùng ĐBSCL được hình thành từ những trầm tích phù sa và bồi dần qua những kỷ nguyên thay đổi mực nước biển. Những hoạt động hỗn hợp của sông và biển đã hình thành những vạt đất phù sa phì nhiêu.
2.1. Lịch sử hình thành đá móng
Lịch sử ĐBSCL nằm trọn vẹn trong 2 đại Mezozoic và Kainozoic (trung sinh và cận sinh) lập nên một móng đá cứng.
Móng đá trải qua 2 thời kỳ xáo trộn mãnh liệt do hoạt động tách dãn đáy biển Đông ở ngoài khơi và đới toạt nứt của vịnh Thái Lan.
Vào thời cận sinh, móng đá bị phủ bởi trầm tích phong phú, mà chiều dày đã được giải đoán địa chấn, và tam giác châu có chiều dày về phía Đông Nam.
2.2. Bồi tích bờ biển
Hệ thống bồi tích bờ biển xảy ra nhờ cân bằng giữa 2 cực độc lập là dòng sông đi ra và triền biển đi vào mà hậu quả trực tiếp là vật liệu trầm tích lơ lửng (cát mịn, bùn sét) mưa xuống đáy nước những cồn cửa sông mọc ra, rồi dần dần lấp nghẽn cửa sông.
2.3. Bồi tích lòng sông
Lòng sông có 2 loại trầm tích:
Loại lơ lửng, thường chỉ rơi xuống đáy nước của các trũng yên lặng, hay rơi xuống đáy biển.
Loại trượt trên mặt đáy tạo ra cát sông, cồn sông, tiếp tục di chuyền và tạo thành cù lao sông.
2.4. Bồi tích đồng lũ
Đây là kết quả của nước thượng nguồn trên ĐBSCL, vật liệu của lũ chủ yếu là sét, sau là bùn mịn.
Về mặt môi trường trầm tích có 2 loại đồng lũ: đồng lũ kín của tiểu vùng Đồng Tháp Mười và đồng lũ hở tương ứng với Tứ Giác Long Xuyên.
3. Địa hình
Chủ yếu là do phù sa mới của sông Cửu Long bồi đắp.
Các dạng địa hình: địa hình trũng khó thoát nước (Tứ Giác Long Xuyên, Đồng Tháp Mười), địa hình cao (Đông Bắc Long An, Bắc Đống Tháp), địa hình trung bình (Tiền Giang).
Nhìn chung, ĐBSCL bằng phẳng, sự chênh lệch độ cao không đáng kể (trừ vùng núi An Giang), tuy nhiên cũng ảnh hưởng rõ đến quá trình hình thành và qui luật phân bố các loại đất.
4. Thỗ nhưỡng
Tùy theo điều kiện phân bố tính chất đất, người ta có thể phân thành các vùng đất chính như sau:
4.1. Vùng đất phèn (S)
Diện tích đất phèn cả nước là 2.140.306 ha, chiếm 6.45% diện tích tự nhiên của cả nước. ĐBSCL có 1.885.890 ha, chiếm 88.11% diên tích đất phèn cả nước.
Đất phèn được hình thành do 2 nguyên nhân: một là do tầng đất phèn tiềm tàng bị oxi hóa mà thành; hai là do tích tụ ở vùng trũng do nước mưa mang đến.
4.2. Vùng đất phù sa nước ngọt (P)
Cả nước có 2.936.413 ha đất phù sa nước ngọt, chiếm 8.9% đất tự nhiên. Ở ĐBSCL, diện tích đất phù sa nước ngọt là 960.734 ha. Ở nhiều ở các tỉnh An Giang (214.662ha), Đồng Tháp (150.853ha).
Đất phù sa thoát nước: 420.236 ha; đất phù sa ít thoát nước: 535.638 ha.
Đất phù sa ĐBSCL là loại đất tốt. Đất khá giàu chất hữu cơ và đạm.Rất thích hợp để trồng lúa, hoa màu, cây ăn quả...Phân bố chủ yếu ở các tỉnh Long An, Bến Tre, Vĩnh Long, Tiền Giang, Đồng Tháp.....
4.3. Vùng đất mặn (M)
Cả nước là: 991.202 ha. Ở ĐBSCL, diện tích đất mặn 703.452 ha, chiếm 70.96% diện tích đất mặn của cả nước và được chia thành:
Đất mặn, sú, đước, vẹt: 170.479 ha.
Đất mặn nhiều: 255.042 ha.
Đất mặn ít và trung bình: 277.931 ha.
Đặc trưng của đất mặn là lượng Cl- cao 0.05-0.25% vào mùa khô, pH ít chua đến hơi kiềm, hàm lượng mùn từ trung bình đến hơi khá, ít thoát nước. Đất mặn phân bố nhiều ở các tỉnh Kiên Giang, Cà Mau.
4.4. Vùng đất phèn mặn (SM)
Đất phèn mặn là loại đất bị nhiễm mặn muối. Đất này thường phân bố ở địa hình trung bình và tương đối thấp. Đặc biệt tập trung nhiều ở Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang.
4.5. Vùng đất giồng cát (Cz)
Là loại đất cát biển tập trung ở ĐBSCL.Thường gặp ở Bến Tre, Tiền Giang, Vĩnh Long, Trà Vinh, Bạc Liêu....
4.6. Vùng đất xám trên phù sa cổ (X)
ĐBSCL có 64.705ha, Long An (46.195ha), Đồng Tháp (15.484ha). Phân bố trên các bậc thềm phù sa cổ, chạy dọc theo biên giới Việt Nam-Campuchia như ở Đồng Tháp Mười. Đây là nhóm đất nghèo dinh dưỡng nhất ở ĐBSCL, hàm lượng chất hữu cơ thấp. Thích hợp trồng các loại cây công nghiệp, hoa màu, cây họ đậu... Được phân bố theo thứ tự Long An, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang....
4.7. Vùng đất núi (F)
Ở ĐBSCL, khu vực đồi núi tập trung ở An Giang, có diện tích 26.200 ha.Nhìn chung loại đất này có hàm lượng mùn rất thấp, nghèo dinh dưỡng.
5. Thủy văn
Mọi hiện tượng thủy văn và các đặc trưng tài nguyên nước mặt ĐBSCL là hậu quả của chế độ mưa mùa tập trưng trên toàn bộ lưu vực sông Cửu Long và mối tương tác giữa các quá trình sông và quá trình biển.
Hai quá trình chuyển động và ngược chiều này giao thoa, phối hợp và khống chế lẫn nhau. Mối tương tác này còn bị ảnh hưởng bởi hệ thống thủy văn và các kiến trúc nhân tạo khiến chế độ thủy văn ĐBSCL mang một sắc thái đặc biệt và biến động không ngừng.
5.1. Yếu tố chủ đạo của quá trình sông
Lưu lượng trên dòng chính: chủ yếu là do 2 sông Tiền và sông Hậu. Sự phân bố của 2 sông này trong năm là không đều, tùy thuộc lượng nước ở Tân Châu, Châu Đốc do sự điều tiết của biển Hồ từ Campuchia bắt nguồn mang đến. Nước sông thường lên cao từ tháng 7 đến tháng 11, cao nhất là vào tháng 9 và 10, mực nước có thể chênh lệch so với mùa cạn đến 4 m.
5.2. Yếu tố chủ đạo của quá trình biển
Triều biển Đông thuộc loại bán nhật triều không đều, biên độ từ 2m - 3.5m. Cực đại có thể lên đến 4m.
Ngược lại triều biển Tây thuộc loại triều hỗn hợp thiên về nhật triều có biên độ triều nhỏ (nhỏ hơn 1m).
Dạng bán nhật triều và dao động mạnh của biển Đông có tác dụng lớn trong việc đẩy nước, tích nước trong lúc triều cao, trong khi ấy dạng nhật triều yếu của biển Tây có lợi cho việc tiêu nước. Các sông chính rộng và sâu đều chảy ra biển Đông, đó là lý do khiến triều biển Đông tác dụng lên phần lớn diện tích ĐBSCL
Do những tác động khác nhau về lưu lượng của sông, địa hình dòng sông, hình thái và mạng lưới kênh rạch....nên khi truyền vào nội địa qua các sông chính thì hình dạng, biên độ và tốc độ truyền triều trên mỗi sông khác nhau và thay đổi trên từng đoạn sông. Do đó, diện tích có khả năng tự chảy trên 9 tháng/năm chỉ giới hạn ở vùng ven và giữa sông Tiền, sông Hậu. Các khu vực khác muốn đưa nước lên vườn, ruộng trong mùa kiệt phải sử dụng động lực vào các thời điểm khác nhau.
Mực nước bình quân ở biển Đông cao hơn biển Tây nên sự chuyển nước từ Đông sang Tây là hợp quy luật.
Biên độ giảm khi đi sâu vào vườn ruộng.
Tốc độ truyền triều trên các sông khá lớn, biến đổi theo mùa, lớn nhất là trên sông Tiền (trung bình: 20km/g, có đoạn 40km/g) và giảm nhanh khi triều truyền vào vườn, ruộng.
Hậu quả là tuy cùng nguồn triều, các điểm khác nhau trên các dòng chính và nội đồng có thể khác pha do triều truyền theo nhiều đường khác nhau.
5.3. Chế độ thủy văn mùa kiệt và ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp
Trong mùa cạn, toàn bộ sông rạch ở ĐBSCL chịu tác dụng của thủy văn và hầu như không có kênh chính nào chảy một chiều trong mùa cạn, những kênh nào lợi dụng được các quy luật truyền triều và ít bị nhiễu động bởi các kênh ngang đều có chế độ tải nước tốt trong mùa cạn.
Ngoài nguồn của sông Tiền vào mùa nắng, cần lưu ý khai thác nước của các nguồn từ sông rạch Campuchia đổ về.
5.4. Chế độ thủy văn mùa lũ và ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp
Ngập úng là hiện tượng khá thường xuyên đối với ĐBSCL, nhất là ở các vùng trũng và khu vực giữa sông Tiền và sông Hậu.Vì thế cũng ảnh hưởng đến diện tích, năng suất trồng vườn và ruộng. Nước sông vào mùa lũ không đục như sông Hồng do hàm lượng phù sa nhỏ (0,100 kg/m3 vào các tháng 3,4; 0,300 kg/m3- tháng 9,10). Tuy vậy tổng lượng của các con sông này hợp lại lên đến một con số khổng lồ, khoảng 100 triệu tấn/năm, nghĩa là gấp khoảng vài lần tổng lượng phù sa sông Hồng và tổng lượng trung bình nhiều năm lên đến 475-500 tỉ m3. Vì vậy, sau mấy trăm năm khai khẩn, vùng ĐBSCL đã trở thành vựa lúa lớn nhất của Việt Nam và là nơi trồng hoa quả với năng suất cao nhờ hệ thông dẫn thuỷ nhập điền quy mô và phức tạp biến những vùng đất phèn trở thành đất phù sa phì nhiêu, ngăn chặn những luồng nước mặn từ biển.
Trong những năm gần đây, chúng ta chứng kiến nạn lũ lụt xảy ra tại ĐBSCL thường hơn những thập niên trước, với một nhịp độ ngày càng tăng, gần như ngập lụt xảy ra hằng năm.
Vùng ngập sâu nhất (>2m) là Tân Châu, Châu Đốc.Vùng ít ngập nhất (<0.3m) là Bạc Liêu, Mỹ Tho, Bến Tre và các vùng núi.
5.6. Vấn đề xâm nhập mặn
Sự xâm nhập của nước mặn trong sông ngòi là một hiện tượng tự nhiên trong các con sông mà cao độ của đáy sông thấp hơn mặt nước biển. Hiện tượng này xảy ra do sự khác biệt về tỉ trọng của nước mặn (khoảng 1,03) và nước ngọt (khoảng 1,00). Ngoài ra còn chịu ảnh hưởng của các yếu tố khác như lưu lượng và thời lượng của sông, độ dốc của lòng sông, biên độ thủy triều, vận tốc và chiều gió cũng như nhiệt độ của nước, trong đó lưu lượng và thời lượng là yếu tố quyết định.
Nước mặn sẽ xâm nhập một cách dễ dàng nếu không có đủ lưu lượng và thời lượng của nước sông. Lưu lượng thấp và kéo dài có thể do hạn hán, nhưng cũng có thể do các dự án thủy nông, cấp thuỷ và rẽ nước ra khỏi lưu vực ở thượng lưu.
Sự xâm nhập mặn trên các sông chính: là do nước biển theo dòng triều oh god
Truyền ngược vào trong lòng sông nên sự thay đổi mặn cũng mang tính chất chu kì.
Xâm nhập mặn trong nội đồng: sự xâm nhập mặn ở các ruộng, vườn còn phức tạp hơn nhiều so với sông chính vì chịu tác động của nhiều nguồn mặn và các điều kiện khí hậu, địa hình các nơi có ảnh hưởng khá lớn.Tuy nhiên độ mặn bị giảm nhanh vào đầu mùa mưa.
Hậu quả là mất đi nguồn nước gia dụng và trồng trọt duy nhất hoa màu và cây trái bị hủy hoại. Thực vật sẽ chết nếu độ mặn của nước trồng trọt vượt quá 0,36 g/l. Ngoài ra, nước có độ mặn cao cũng ảnh hưởng đến gia súc và cá nước ngọt.
Sông Cửu Long và các sông khác trong vùng ĐBSCL có tất cả các yếu tố thuận lợi cho cho sự xâm nhập của nước mặn:đáy sông thấp hơn mặt nước biển, độ dốc lòng sông rất bằng phẳng, biên độ thủy triều cao( khoảng 3m ở biển Đông) và gió chướng thổi từ đất liền vào mùa khô .Vì sông Cửu Long có một lưu lượng tự nhiên cao trong một thời gian dài ,nhất là trong mùa nươc nổi, cho nên sự xâm nhập của nước mặn trong sông Cửu Long ngày trước chỉ giới hạn ở vùng cửa sông và không tạo nên một vấn đề nghiêm trọng cho vùng ĐBSCL vào thời điểm đó.
Ngày nay sự xâm nhập mặn trong sông Cửu Long là một trong những yếu tố tối quan trọng có ảnh hưởng đến việc khai thác và phát triển ĐBSCL. Dữ kiện đo đạc gần đây, tuy không đầy đủ đã cho thấy sự nghiêm trọng của vấn đề. Ví dụ tại Mỹ Tho nơi mà trước đây có nước ngọt quanh năm, độ mặn trong sông Tiền đã lên đến 5,3g/l vào đầu tháng 4 /1999 và còn có thể lên cao hơn .Độ mặn này vượt quá tiêu chuẩn 2,0 g/l cho nước gia dụng ở các nước đang phát triển ,0,36 g/l cho nước trồng trọt và 3,0 g/l cho nước chăn nuôi. Nước mặn đang xâm nhập sâu vào sông Cửu Long, nhất là trong mấy năm vừa qua.Trong năm 1995 ,nước mặn đã tiến sâu vào sông Cửu Long 50 km, nhưng đến năm 1999 nước mặn tiến sâu 70km, một hiện tượng chưa từng thấy trong lịch sử.
Có nhiều phương pháp có thể dùng để đối phó với sự xâm nhập của nước mặn trong sông Cửu Long .Phương pháp trước tiên có thể nghĩ đến là gia tăng lưu lượng của sông Cửu Long trong lãnh thổ Viêt Nam, nhất là trong mùa khô. Có thể thực hiện bằng cách giảm số lượng nước dẫn vào kinh dùng cho việc canh tác,nhất là những vùng có năng suất thấp. Lưu lượng của sông Cửu Long cũng có thể được gia tăng bằng các hồ chứa nước nhân taọ trong vùng. Một phương pháp rất thông dụng đã được thực hiện là trong vùng ĐBSCL là cống ngăn mặn.
Một giải pháp thỏa đáng cho sự xâm nhập nước mặn trên sông Cửu Long có thể là một sự kết hợp của tất cả các phương pháp bao gồm sự gia tăng lưu lượng của sông, cống ngăn mặn ,đập và điều kiện tự nhiên…
Tất cả phải nhằm một mục đích là làm sao cho việc khai thác và phát triển mang lại nhiều lợi ích nhất trong khi giảm thiểu các ảnh hưởng tai hại của các dự án thủy lợi trong toàn lưu vực sông Meekong lên dân cư và hệ thông sinh thái của sông Cửu Long và vùng ĐBSCL.
5.7. Tình hình chua phèn trên kênh mương
Quá trình oxi hóa, thủy phân và rửa trôi các thành phần độc hại trong đất chua đã làm cho nước kênh có độ pH rất thấp, với hàm lượng Al3+, Fe2+, Fe3+ rất cao. Hai biện pháp để cải tạo nước chua trong kênh rạch là cô lập ém phèn tại chỗ, và tạo thủy để đẩy nước chua đi nhanh ra sông lớn.
5.8. Phù sa và sự chuyển tải phù sa vào nội đồng
Lượng phù sa của sông Cửu Long cao nhất vào mùa lũ. Thuộc loại phù sa hạt mịn.
Quá trình chuyển tải phù sa vào nội đồng bị chi phối hoàn toàn bởi động lực của các dòng chảy ở các khu vực bị lũ ảnh hưởng. Phù sa vào nội đồng sâu nhất vào mùa lũ khi nước trong các kênh chảy một chiều, song lượng bùn cát này chưa được bồi đắp vào đồng ruộng vì nước chưa tràn lên đồng.
Khi lũ đã cao, nước lũ từ phía biên giới Campuchia về tạo ra các sông lũ ngăn cản không cho phù sa vào sâu.
Các vùng đất có nước phù sa chảy mạnh qua thường là đất tốt cho nông nghiệp vì được cải tạo và bồi tích. Muốn tăng lượng phù sa và trong vườn, ruộng cần phải tăng tốc độ của dòng nước.
5.9. Nước ngầm
Các kết quả nghiên cứu địa chất, thủy văn đồng vị, thủy địa hóa.... đã khẳng định các vỉa nước ngầm ở ĐBSCL không phải là các túi nước cô lập bị chôn vùi mà liên tục được bổ sung từ nhiều nguồn khác nhau. Nước ngầm đóng vai trò quan trọng trong nông nghiệp.
6. Khí hậu
ĐBSCL mang tính chất khí hậu gió mùa cận xích đạo. Các yếu tố khí hậu như ẩm độ, không khí, bốc hơi, nắng, bức xạ, nhiệt độ tuy có thay đổi theo mùa nhưng tương đối ổn định.
Nhiệt độ: Nhiệt độ hằng năm tương đối điều hòa, trung bình khoảng 270C. Nhiệt độ tháng cao nhất và thấp nhất chênh lệch không quá 3-40C
Độ ẩm : độ ẩm trung bình trong khoảng 80-86%
Mưa
Lượng mưa biến động theo từng trạm. Lượng mưa trung bình tháng vào khoảng 130-150 mm trong các tháng mùa mưa và vài chục mm trong các tháng mùa khô.
Có hai đợt hạn đáng kể: đợt hạn tháng 5,6 DL(gọi là đầu vụ) hay tháng 7, 8 DL (gọi là hạn Bà Chằng).
Bốc hơi: Nơi có lượng bốc hơi trung bình năm thấp nhất là Cần Thơ: 693.5 mm, TPHCM : 1.300mm
Ánh sáng: Ở ĐBSCL số giờ nắng trung bình năm khoảng 2.500 giờ.
Bức xạ: cán cân bức xạ năm đạt 75-80 kcal/cm2
Gió: có 3 hướng gió chính: Tây Tây Nam, Đông Bắc và Đông Nam.
Bão: quanh năm ít có bão xảy ra.
7. Hệ sinh vật
7.1. Thực Vật
Rừng nước mặn ven biển chiếm diện tích 30.000 ha, đứng thứ ba trên thế giới có giá trị kinh tế cao.
7.1.1 Thảm thực vật tự nhiên vùng đất hoang
Kiểu thảm thực vật trên vùng phù sa cổ và núi sót: phân bố trên vùng có địa hình cao.
Kiểu thảm thực vật vùng ngập nước:
Rừng ngập mặn
Trảng cỏ ngập mặn
Trảng cỏ Năng Xoắn
Kiểu thảm thực vật ven sông rạch
Kiểu phụ Mấm, Đước
Kiểu phụ dừa nước
Kiểu phụ bần chua
Kiểu phụ chiếc
Kiểu thảm thực vật ngập nước định kỳ: phân bố ở vùng trung bình thấp hoặc trũng.Kiểu sinh cảnh này chiếm diện tích trong vùng ngập lũ.
7.1.2 Thảm thực vật trên vùng đất canh tác
Trên vùng đất canh tác thảm thực vật tự nhiên bị thay thế hoàn toàn bằng thảm thực vật nhân tạo. Gồm: đất địa hình cao ngập ít, đất ruộng, đất ven biển nhiễm mặn.
7.2. Động Vật
7.2.1 Chăn nuôi
Trên cạn: các loại gia súc gia cầm...
Dưới nước: phần lớn là thủy hải sản.
7.2.2 Tự nhiên
Hệ động vật hoang dã ở đây bao gồm 23 loài thú, 386 loài và loài phụ chim., 35 loài bò sát, 6 loài ếch nhái và 260 loài cá chủ yếu thấy ở rừng U Minh và các rừng đước ở Nam Căn.
8. Khoáng sản
ĐBSCL có triển vọng dầu khí trong thềm lục địa tiếp giáp thuộc biển Đông và Vịnh Thái Lan:
Bể trầm tích Cửu Long: thềm lục địa tiếp giáp Đông Nam Bộ ở phía Bắc, ĐBSCL ở phía Nam. Dự báo khoảng 2 tỷ tấn dầu quy đổi.
Bể trầm tích Nam Côn Sơn: Tiềm năng dự báo địa chất khoảng 3 tỷ tấn dầu quy đổi.
Bể trầm tích Thổ Chu - Mã Lai thuộc Vịnh Thái Lan có trữ lượng dự báo không lớn, khoảng vài trăm triệu tấn dầu.
Đá vôi có trữ lượng khoảng 130 đến 440 triệu tấn.
Đá Granit, Andesit có khoảng 450 triệu m3.
Sét gạch ngói có trữ lượng đến 40 triệu m3.
Cát sỏi có trữ lượng đến 10 triệu m3/năm
Than bùn có lượng 370 triệu tấn, trong đó U Minh khoảng 300 triệu tấn
Nước khoáng có ở Long An, Tiền Giang, Vĩnh Long, Sóc Trăng, Minh Hải.
II. KINH TẾ-XÃ HỘI
1. Dân số-lao động
Là vùng có dân số đông nhất trong các vùng của cả nước, chiếm 22% dân số cả nước.
Dân cư ở ĐBSCL phân bố không đều và không ổn định. Dự báo dân số đô thị năm 2010 khoảng 7,4 triệu người, chiếm 35% dân số vùng.
Về lực lượng lao động: ĐBSCL có hơn 6 triệu lao động xã hội có khoảng 4.5 triệu làm nông nghiệp.
Tỷ lệ chết còn cao có thể do ảnh hưởng mức sống bị giảm sút và thiếu thuốc men chữa bệnh.
Nhân dân ĐBSCL giàu truyền thống cách mạng, thông minh sáng tạo, có kinh nghiệm trong sản xuất hàng hoá có thể thích ứng nhanh nhạy với điều kiện và đòi hỏi mới của thời đại khoa học công nghệ tiên tiến.
2. Văn hoá xã hội
2.1. Văn hoá
ĐBSCL là vùng đất thuộc nền văn hóa Óc eo của cư dân bản địa thuộc vương Phù Nam. Người Việt miền Bắc đến khai phá vào khoảng thế kỷ 16. Khoảng thế kỷ 17, nhóm người Hoa thuộc gia tộc Mạc Cửu đến khai phá vùng đất Hà Tiên. Cư dân ĐBSCL hầu hết là người Việt, ngoài ra còn có các dân tộc Khmer, Chăm, Hoa, Mạ, Stieng, Chơro, Mnông…trong đó người Việt đóng vai trò chủ thể quyết định sự phát triển.
2.1.1 Văn hóa nông ngiệp:
Thiên về quảng canh nhằm sử dụng diện tích đất khai hoang còn quá rộng, nhằm trừ hao do chim chóc…
Hệ thống thuỷ lợi không có đê, chủ yếu dựa vào chế độ thuỷ triều đề đưa nước ngọt và phù sa lên diện tích đất canh tác. Mỗi lần có lũ là một lần cải tạo chất lượng nước, vệ sinh ruộng đồng.
Ngoài trồng lúa còn trồng nhiều loại hoa màu, cây ăn trái nổi tiếng như bưởi Năm Roi, xoài cát Hòa Lộc. Bên cạnh nông nghiệp, cư dân ĐBSCL còn chăn thả gia súc, gia cầm, nuôi trồng đánh bắt thuỷ sản
2.1.2. Tập quán ăn uống:
Văn hoá ẩm thực của người Tây Nam Bộ không đi vào sự cầu kì mà thiên về sự dư dật, phong phú, thề hiện sự dung hợp hài hòa giữa các dân tộc.
2.1.3. Tập quán trang phục:
Trang phục đặc trưng là áo bà ba, bên cạnh là trang phục của các dân tộc Hoa, Chăm, Khmer nhất là các vùng có các dân tộc này sống tập trung như Châu Đốc, Sóc Trăng. Trang phục cũng thể hiện lối ứng xử thích nghi với môi trường tự nhiên với các chất liệu bằng vải sợi, thoáng mỏng như truyền thống của người Việt nhưng cũng mang những sắc thái riêng.
2.1.4. Ăn ở - đi lại:
Về nhà ở, điều kiện tự nhiên bắt buộc xây dựng nhà trên đồi, gò, gồng và nhà dọc trên kênh rạch, mặt nhà hướng ra lộ hay kênh rạch. Có 4 loại nhà chủ yếu là nhà đất, nhà sàn, nhà nửa sàn nửa đất trong đó nhà sàn là phổ biến nhất. Vật liệu xây nhà trước kia lấy từ các loại vật liệu tự nhiên: tràm, đước, lá dừa nước …sau này thêm các loại cây khác, gạch, đá…
2.2. Xã hội
2.2.1. Y tế:
Hệ thống y tế phát triển tương đối rộng khắp. Toàn vùng có 11 bện viện đa khoa, 103 trung tâm y tế tuyến huyện và 100% xã có trạm y tế. Chương trình tiêm chủng mở rộng được thực hiện rộng khắp và thu được nhiều kết quả khả quan. Tình hình sức khoẻ cộng đồng có nhiều vấn đề, cần giải quyết vấn đề bệnh dịch liên quan đến nguồn nước do thiếu nước sạch. Bệnh AIDS lan truyền mạnh ở khu vức biên giới do người dân thiếu hiểu biết và tệ nạn xã hội.
Trong những năm gần đây dịch cúm gà lan rộng, ĐBSCL cũng là vùng có tốc độ lây truyền cao và phải gánh chịu nhiều thiệt hại nặng nề. Điều đó đòi hỏi công tác y tế, tiêm phòng, vệ sinh dịch tễ cần được nâng cao và mở rộng để bảo vệ sức khoẻ cộng đồng.
2.3. Giáo dục
Mạng lưới giáo dục ở ĐBSCL khá đầy đủ. Tính đến 30/4/2000 có 3.458 triệu người đến trường. Trong đó, trường tiểu học và phổ thông cơ sở là 4.034 và phổ thông t