Mục tiêu: Xác định mối tương quan giữa các yếu tố nguy cơ mạch máu, lâm sàng, cận lâm sàng và mức
đường huyết nhập viện với kết cục chức năng sau ba tháng của bệnh nhân đột quỵ thiếu máu não cấp.
Phương pháp: Nghiên cứu mô tả, tiến cứu.
Kết quả: Từ tháng 08/2010 đến tháng 06/2011 chúng tôi có 131 bệnh nhân nhập viện điều trị tại khoa Nội
Thần kinh Bệnh viện Chợ Rẫy được chẩn đoán đột quỵ thiếu máu não cục bộ cấp đưa vào nghiên cứu. Tuổi trung
bình là 60 tuổi, trong đó nhỏ nhất là 19 tuổi và lớn nhất là 90 tuổi. tỷ lệ nam chiếm 58,8%, nữ chiếm 41,2%.
Trong 131 ca nghiên cứu có 43 ca có tăng đường huyết nhập viện (tỉ lệ 32,8%). Đường huyết trung bình trong
mẫu NC chung là 147,2 mg%, ở nhóm tăng đường huyết là 228 mg% và nhóm không tăng đường huyết là 107,8
mg%. Ở nhóm tăng đường huyết, tỉ lệ hồi phục chức năng không tốt (mRS >2) là 74,4% cao hơn tỉ lệ hồi phục tốt
(mRS ≤ 2) là 25,6%. Các yếu tố tuổi, tiền căn đái tháo đường, điểm Glasgow nhập viện có liên quan với kết cục
chức năng nhưng chỉ ở mức tương quan đơn biến. Các yếu tố có giá trị dự báo kết cục chức năng trong phân tích
đa biến là phân loại Bamford, điểm NIHSS và đường huyết nhập viện. Có sự liên quan tuyến tính thuận giữa
đường huyết nhập viện và kết cục chức năng xấu sau ba tháng. Khi đường huyết nhập viện tăng thì khả năng hồi
phục chức năng xấu cũng tăng tỉ lệ thuận với độ tương quan khá chắc chắn (r = 0,987) với sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê (OR =1,013;p = 0,000).
Kết luận: Tăng đường huyết nhập viện ở bệnh nhân đột quỵ thiếu máu não cục bộ cấp làm tăng tỉ lệ hồi
phục chức năng xấu sau ba tháng (OR =1,013;p = 0,000).
5 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 13/06/2022 | Lượt xem: 297 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá tiên lượng đột quỵ thiếu máu não cấp có tăng đường huyết, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa II 97
ĐÁNH GIÁ TIÊN LƯỢNG ĐỘT QUỴ THIẾU MÁU NÃO CẤP
CÓ TĂNG ĐƯỜNG HUYẾT
Cao Phi Phong*, Vũ Dương Bích Phượng**
TÓM TẮT
Mục tiêu: Xác định mối tương quan giữa các yếu tố nguy cơ mạch máu, lâm sàng, cận lâm sàng và mức
đường huyết nhập viện với kết cục chức năng sau ba tháng của bệnh nhân đột quỵ thiếu máu não cấp.
Phương pháp: Nghiên cứu mô tả, tiến cứu.
Kết quả: Từ tháng 08/2010 đến tháng 06/2011 chúng tôi có 131 bệnh nhân nhập viện điều trị tại khoa Nội
Thần kinh Bệnh viện Chợ Rẫy được chẩn đoán đột quỵ thiếu máu não cục bộ cấp đưa vào nghiên cứu. Tuổi trung
bình là 60 tuổi, trong đó nhỏ nhất là 19 tuổi và lớn nhất là 90 tuổi. tỷ lệ nam chiếm 58,8%, nữ chiếm 41,2%.
Trong 131 ca nghiên cứu có 43 ca có tăng đường huyết nhập viện (tỉ lệ 32,8%). Đường huyết trung bình trong
mẫu NC chung là 147,2 mg%, ở nhóm tăng đường huyết là 228 mg% và nhóm không tăng đường huyết là 107,8
mg%. Ở nhóm tăng đường huyết, tỉ lệ hồi phục chức năng không tốt (mRS >2) là 74,4% cao hơn tỉ lệ hồi phục tốt
(mRS ≤ 2) là 25,6%. Các yếu tố tuổi, tiền căn đái tháo đường, điểm Glasgow nhập viện có liên quan với kết cục
chức năng nhưng chỉ ở mức tương quan đơn biến. Các yếu tố có giá trị dự báo kết cục chức năng trong phân tích
đa biến là phân loại Bamford, điểm NIHSS và đường huyết nhập viện. Có sự liên quan tuyến tính thuận giữa
đường huyết nhập viện và kết cục chức năng xấu sau ba tháng. Khi đường huyết nhập viện tăng thì khả năng hồi
phục chức năng xấu cũng tăng tỉ lệ thuận với độ tương quan khá chắc chắn (r = 0,987) với sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê (OR =1,013;p = 0,000).
Kết luận: Tăng đường huyết nhập viện ở bệnh nhân đột quỵ thiếu máu não cục bộ cấp làm tăng tỉ lệ hồi
phục chức năng xấu sau ba tháng (OR =1,013;p = 0,000).
Từ khóa: Tăng đường huyết, đột quỵ thiếu máu não cục bộ cấp
ABSTRACT
PROGNOSIS OF ACUTE ISCHEMIC STROKE WITH HYPERGLYCEMIA
Cao Phi Phong, Vu Duong Bich Phuong
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 - Supplement of No 1 - 2013: 97 - 101
Objectives: To determine the relationship of the vascular risk factors, clinical and laboratory characteristics
and admission hyperglycemia with the functional outcome of the patients 3 months after acute ischemic stroke.
Methods: Prospective demonstrative study.
Results: From August 2010 to June 2011 there were 131 patients with acute ischemic stroke admitted to
Neurology Department of Cho Ray Hospital were studied. The mean age was 60 years (range, 19 to 90 years). The
sex ratio was 58.8% male and 41.2% female. In 131 patients, hyperglycemia was found in 43 (32.8%). Mean
blood glucose concentration was 147 mg% in total study sample, 228 mg% in hyperglycemic group and 107.8
mg% in normoglycemic group. In hyperglycemic group, poor outcome (modified Rankin Scales >2) was higher
than good outcome (modified Rankin Scales ≤ 2) (74.4% versus 25.6%). Age, history of diabetes, admission
Glasgow Scales were related to the functional outcome in univariate analysis. Bamford classification, National
* Bộ môn Thần Kinh, ĐHYD Tp. HCM ** BV Chợ Rẫy
Tác giả liên lạc: BS. Vũ Dương Bích Phượng ĐT: 0909271589 Email: bphuonggiao@yahoo.com.vn
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Nội Khoa II 98
Institutes of Health Stroke Scale (NIHSS) score, admission blood glucose were significantly associated with the
functional outcome in multivariate logistic regression analysis. There was a correlation between admission blood
glucose and poor functional outcome, when admission blood glucose raised the poor functional outcome also raised
with relative coefficient r = 0.987 and p value < 0.05
Conclusions: Admission hyperglycemia in acute ischemic stroke raises the poor functional outcome after 3
months (p = 0,000; OR = 0,013).
Keywords: Hyperglycemia, Acute Ischemic Stroke.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tai biến mạch máu não là một vấn đề mang
tính thời sự của y học thế giới cũng như ở Việt
Nam do tỉ lệ mắc bệnh và tử vong cao, di chứng
nặng nề cho bệnh nhân, gia đình và xã hội(10).
Dự hậu đột quỵ bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu
tố trong đó đường huyết là một yếu tố quan
trọng mà các nhà lâm sàng và nghiên cứu chú ý
đến. Tăng đường huyết chiếm 40% các trường
hợp đột quỵ thiếu máu não cấp bất kể bệnh nhân
có hoặc không có tiền căn đái tháo đường(11). Do
đó chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm
đánh giá tiên lượng dự hậu chức năng ở bệnh
nhân đột quỵ thiếu máu não cấp có tăng đường
huyết sau ba tháng.
Mục tiêu nghiên cứu
- Xác định mối tương quan giữa các yếu tố
nguy cơ mạch máu, lâm sàng và cận lâm sàng
với kết cục sau đột quỵ thiếu máu não cấp ba
tháng.
- Đánh giá mối tương quan giữa tăng đường
huyết nhập viện với kết cục sau đột quỵ thiếu
máu não cấp ba tháng.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả, tiến cứu.
Đối tượng nghiên cứu
Dân số mục tiêu
Bệnh nhân đột quỵ cấp nhập khoa Nội Thần
kinh bệnh viện Chợ Rẫy.
Dân số nghiên cứu
Bệnh nhân đột quỵ cấp nhập khoa Nội Thần
kinh bệnh viện Chợ Rẫy từ tháng 08/2010 đến
tháng 06/2011.
Cỡ mẫu và kỷ thuật chọn mẫu
Cỡ mẫu
Công thức n = 10 x v/r, cỡ mẫu tối thiểu tính
được là 130.
Kỹ thuật chọn mẫu
Chọn mẫu liên tục, không xác suất.
Tiêu chuẩn chọn bệnh và loại trừ
Tiêu chuẩn chọn bệnh
- Tất cả bệnh nhân được chẩn đoán xác định
đột quỵ thiếu máu não cấp bằng tiêu chuẩn lâm
sàng của Tổ chức Y tế thế giới và hình ảnh học
(CT scan hoặc MRI sọ não).
- Nhập viện trong vòng 72 giờ từ lúc khởi
phát đột quỵ.
Tiêu chuẩn loại trừ
- Cơn thóang thiếu máu não.
- Xuất huyết não, xuất huyết màng não,
huyết khối tĩnh mạch nội sọ.
- Bệnh nhân có khiếm khuyết chức năng
trước đột quỵ.
- Có bệnh khác đi kèm: suy tim, nhồi máu cơ
tim, suy gan, suy thận, nhiễm trùng nặng, bệnh
ác tính.
- Hôn mê nặng lúc nhập viện Glasgow Coma
Scale < 10 điểm.
Phương pháp thu thập số liệu
Mỗi bệnh nhân đã chọn được ghi nhận với
từng bệnh án riêng biệt. các biến số về đặc điểm
dân số học, lâm sàng, cận lâm sàng, kết quả lúc
xuất viện và kết cục chức năng sau ba tháng được
ghi nhận. Kết cục sau ba tháng của bệnh nhân
được đánh giá dựa trên thang điểm Modified
Rankin Scale (mRS) (đánh giá qua điện thoại).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa II 99
Thang điểm mRS với điểm cắt > 2 được chọn để
phân biệt kết cục xấu và tốt của bệnh nhân.
Xử lý và phân tích số liệu
Dữ liệu được xử lý bằng phần mềm SPSS
11.5.
Bước 1: mô tả đặc điểm các biến, biến định
lượng được mô tả bằng giá trị trung bình, biến
định tính được mô tả bằng tần số và tỉ lệ phần
trăm.
Bước 2: phân tích đơn biến để tìm mối tương
quan giữa các biến với kết cục hồi phục chức
năng.
Bước 3: phân tích đa biến nhằm tìm ra các
biến thực sự có ý nghĩa với kết cục và xác định
vai trò của tăng đường huyết nhập viện với kết
cục chức năng sau ba tháng.
Mức p có ý nghĩa trong mọi trường hợp là <
0,05.
KẾT QUẢ
Đặc điểm dân số học
Tuổi
Bảng 1: Đặc điểm tuổi trong mẫu nghiên cứu
Tuổi trung bình 60,19
Tuổi nhỏ nhất 19
Tuổi lớn nhất 90
Độ lệch chuẩn 14,20
Tuổi trung bình trong mẫu nghiên cứu là
60,19. Trường hợp nhỏ nhất là 19 tuổi và lớn
nhất là 90 tuổi với độ lệch chuẩn 14,20.
Giới
Tỉ lệ nam trong mẫu nghiên cứu là 58,8%, tỉ
lệ nữ là 41,2%
Đặc điểm tăng đường huyết trong mẫu nghiên
cứu
Tỉ lệ tăng đường huyết trong mẫu nghiên
cứu là 32,8%, nhóm không tăng đường huyết
chiếm tỉ lệ 67,2%.
Bảng 2: Đường huyết trung bình trong mẫu nghiên
cứu
ĐH trung bình (mg%) ĐL chuẩn P
Tỉ lệ chung 147,2 70,4
Tăng ĐH Có 228,0 66,4 0,000
ĐH trung bình (mg%) ĐL chuẩn P
Không 107,8 21,9
Đường huyết trung bình trung mẫu nghiên
cứu chung là 147,2 mg%, ở nhóm tăng đường
huyết là 228 mg% và nhóm không tăng đường
huyết là 107,8 mg%.
Bảng 3: Đặc điểm modified Rankin Scales (mRS) sau
ba tháng trong mẫu nghiên cứu
mRS ba
tháng
Tổng số P
Tốt (mRS ≤
2)
Xấu (mRS
> 2)
Số ca
(%)
74 (56,5% 57 (43,5%) 131
(100%)
Tăng
ĐH
Có 11 (25,6%) 32 (74,4%) 43 (100%) 0,000
Không 63 (71,6%) 25 (28,4%) 88 (100%)
Tỉ lệ hồi phục chức năng tốt sau ba tháng
trong nhóm tăng đường huyết (25,6%) thấp
hơn tỉ lệ hồi phục xấu (74,4%), trái ngược với
nhóm không tăng đường huyết có tỉ lệ hồi
phục chức năng tốt (71,6%) cao hơn tỉ lệ hồi
phục xấu (28,4%), sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê với p < 0,05.
Bảng 4: Các yếu tố liên quan với kết cục chức năng
sau ba tháng trong phân tích đơn biến
mRS ≤ 2 mRS > 2 P
Tuổi < 65 53 (64,6%) 29 (35,4%) 0,015
≥ 65 21 (42,9%) 28 (57,1%)
TC ĐTĐ 8 (27,6%) 21 (72,4%) 0,000
Điểm
Glasgow
14 - 15 64 (68,8%) 29 (31,2%) 0,000
10 - 13 10 (26,3%) 28 (73,7%)
Điểm
NIHSS
< 16 67 (69,8%) 29 (30,2%) 0,000
16 - 20 7 (20%) 28 (80%)
Phân loại
Bamford
Toàn bộ TH
trước
1 (8,3%) 11 (91,7%)
0,002
1 phần TH
trước
44 (57,1%) 33 (42,9%)
NM lỗ
khuyết
13 (61,9%) 8 (38,1%)
NM TH sau 16 (76,2%) 5 (23,8%)
Tăng ĐH
nhập viện
Có 11 (25,6%) 32 (74,4%) 0,000
Không 63 (71,6%) 25 (28,4%)
Qua phân tích đơn biến, chúng tôi nhận thấy
các yếu tố tuổi, tiền căn đái tháo đường, điểm
Glasgow, điểm NIHSS, phân loại Bamford và
mức đường huyết nhập viện liên quan có ý
nghĩa thống kê với kết cục hồi phục chức năng
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Nội Khoa II 100
của bệnh nhân sau ba tháng (p< 0,05).
Bảng 5: Các yếu tố liên quan với kết cục chức năng
sau ba tháng trong phân tích đa biến
Hệ số B OR KTC 95% P
Phân loại
Bamford
-0,785 0,456 0,239 – 0,869 0,017
Điểm NIHSS 2,236 9,360 2,160 – 40,562 0,003
ĐH nhập viện 0,16 1,016 1,006 – 1,026 0,002
Qua phân tích đa biến, sau khi hiệu chỉnh các
yếu tố khác, chúng tôi nhận thấy chỉ còn phân
loại Bamford, điểm NIHSS và mức đường huyết
nhập viện liên quan có ý nghĩa thống kê với kết
cục hồi phục chức năng của bệnh nhân sau ba
tháng (p< 0,05).
DHNHAPVI
5004003002001000
P
re
d
ic
te
d
p
ro
b
a
b
ili
ty
1.0
.8
.6
.4
.2
Hình 1: Đồ thị tương quan tuyến tính giữa nồng độ
ĐH nhập viện và xác suất kết cục hồi phục chức năng
xấu sau ba tháng
Bảng 6: Tương quan tuyến tính tính giữa nồng độ
ĐH nhập viện và xác suất kết cục hồi phục chức năng
xấu sau ba tháng
Hệ số tương
quan pearson
Sai số
chuẩn
Beta t P
ĐH nhập
viện
0,987 0,000 0,987 69,879 0,000
Hằng số 0,006 9,128 0,000
Từ hình 3 và kết quả ở bảng 6, ta thấy có
sự liên hệ tuyến tính thuận giữa ĐH nhập viện
và xác suất kết cục hồi phục chức năng xấu.
Khi ĐH nhập viện càng tăng thì xác suất kết
cục hồi phục chức năng xấu cũng tăng tỉ lệ
thuận với đường huyết. Sự tương quan rất
chặt chẽ với hệ số tương quan = 0,987 và mức
ý nghĩa tin cậy p= 0,000.
Bảng 6: Kết quả phân tích hồi quy Logistic về liên
quan giữa ĐH nhập viện và kết cục hồi phục chức
năng sau ba tháng
Hệ số B Độ tự do df OR KTC 95% P
ĐH nhập
viện
0,012 1 1,013 1,006 – 1,019 0,000
Hằng số -2,081 1 0,125 0,000
Khi ĐH nhập viện tăng thì kết cục hồi phục
chức năng xấu sẽ tăng lên 1,013 lần (OR = 1,013)
hay nói khác đi khả năng hồi phục chức năng
xấu sẽ tăng thêm 1,3% khi đường huyết tăng.
BÀN LUẬN
Trong nghiên cứu chúng tôi, nhóm tăng
ĐH có tỉ lệ hồi phục không tốt (74,4%) cao hơn
tỉ lệ hồi phục tốt (25,6%) trái ngược với nhóm
không tăng ĐH có tỉ lệ hồi phục không tốt
(28,4%) thấp hơn tỉ lệ hồi phục tốt (71,6%). Kết
quả này gần giống kết quả của tác giả
Alexandre ghi nhận tỉ lệ hồi phục không tốt
(72,3%) cao hơn tỉ lệ hồi phục tốt (27,7%) ở
nhóm tăng ĐH và ngược lại ở nhóm ĐH bình
thường (60% không tốt và 40 % tốt).
Trong phân tích đơn biến, các yếu tố có ý
nghĩa dự báo kết cục chức năng gồm tuổi, tiền
căn đái tháo đường, điểm Glasgow nhập viện.
Kết quả này gần giống nghiên cứu của tác giả
Bùi Thị Vân Hương(3) nhận thấy tuổi có liên quan
dự hậu kết cục trong phân tích đơn biến. Tác giả
Abruno và cộng sự(2) trong một nghiên cứu đa
trung tâm trên 1259 bệnh nhân ghi nhận tiền căn
đái tháo đường chỉ liên quan đến dự hậu chức
năng trong phân tích đơn biến. Tương tự tác giả
Nguyễn Bá Thắng(8) khi nghiên cứu các yếu tố
tiên lượng sớm trong nhồi máu não tuần hoàn
trước tác giả cũng nhận thấy điểm Glasgow
nhập viện có liên quan dự hậu chức năng trong
phân tích đơn biến.
Khi đưa vào phân tích hồi quy đa biến chúng
tôi nhận thấy chỉ còn ba yếu tố là phân loại
Bamford, điểm NIHSS và đường huyết nhập
viện còn lại trong mô hình cuối cùng có giá trị
dự hậu chức năng với p< 0,05. Tăng đường
huyết nhập viện làm tăng nguy cơ chức năng
xấu lên 1,013 lần. Kết quả của chúng tôi cũng
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa II 101
phù hợp kết quả một số tác giả trong và ngoài
nước khác. Theo Keith W.Muir(7) tỉ lệ kết cục tốt
ở nhóm tăng đường huyết giảm 13% so với
nhóm đường huyết bình thường. Tác giả Bùi Thị
Vân Hương ghi nhận bệnh nhân có tăng đường
huyết nhập viện sẽ có khả năng phục hồi vận
động thấp hơn bệnh nhân có đường huyết bình
thường là 37% (RR = 0,63), sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê với p < 0,05, tác giả cũng nhận
thấy khi đường huyết tăng 1mg% thì khả năng
phục hồi vận động sau ba tháng sẽ giảm 1%.
Từ đồ thị ở hình 3, chúng tôi nhận thấy
đường huyết nhập viện và kết cục chức năng
xấu có sự liên hệ tuyến tính thuận với hệ số
tương quan rất chặt chẽ pearson= 0,987 và mức ý
nghĩa p< 0,05.
Đái tháo đường làm tăng tần suất và độ nặng
đột quỵ thiếu máu não cấp, đồng thời làm tăng tỉ
lệ kết cục xấu sau đột quỵ(1). Tăng đường huyết
gây độc trực tiếp lên mô não do sự tích tụ Acid
lactic, toan hóa nội bào, sản sinh nhiều gốc tự do,
tích tụ canxi nội bào, chức năng ty thể bị suy
yếu(4). Tăng đường huyết làm phá vỡ hang rào
máu não, thúc đẩy tình trạng chuyển dạng xuất
huyết trong ổ nhồi máu, gia tăng phù não và
tăng kích thước ổ nhồi máu qua trung gian một
số chất hóa học(6), đồng thời gây thâm nhập
neutrophil, gia tăng tình trạng viêm dẫn đến tổn
thương tế bào(5).
Như vậy trong nghiên cứu của chúng tôi
cũng như nhiều nghiên cứu khác tăng đường
huyết có liên quan mạnh với dự hậu kết cục
chức năng sau đột quỵ thiếu máu não cấp trong
phân tích đơn biến lẫn đa biến. Hay nói khác đi
đường huyết nhập viện là yếu tố nguy cơ độc
lập với dự hậu kết cục chức năng sau ba tháng.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu 131 trường hợp đột quỵ
thiếu máu não cấp tại khoa Nội thần kinh – BV
Chợ Rẫy từ tháng 08/2010 đến tháng 06/2011
chúng tôi rút ra một số kết luận như sau:
- Đặc điểm dân số mẫu nghiên cứu: tuổi
trung bình 60,19 tuổi, nhỏ nhất là 19 tuổi và lớn
nhất là 90 tuổi. Tỉ lệ nam 58,8% cao hơn nữ
41,2%. Tỉ lệ tăng đường huyết trong mẫu nghiên
cứu là 32,8%.
- Các yếu tố tuổi, tiền căn đái tháo đường,
điểm Glasgow có liên quan với kết cục chức
năng nhưng chỉ dừng ở mức tương quan đơn
biến.
- Các yếu tố có giá trị dự báo kết cục chức
năng trong phân tích đa biến là phân loại
Bamford, điểm NIHSS và tăng đường huyết
nhập viện.
- Khi đường huyết nhập viện tăng sẽ làm
tăng khả năng hồi phục chức năng xấu thêm
1,3%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
(OR=1,013, p < 0,05).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Baird TA, Parsons MW, Barber PA, et al (2002). “The influence
of diabetes mellitus and hyperglycaemia on stroke incidence
and outcome”. J Clin Neurosciences 2002 Nov; 9(6):618 – 626.
2. Bruno A, Biller J, Adams HP, Jr, et al (1999). “Acute blood
glucose level and outcome from ischemic stroke”. Neurology
1999; 52: 280.
3. Bùi Thị Vân Hương (2007). Đánh giá khả năng phục hồi của bệnh
nhân tăng đường huyết sau đột quỵ não cấp. Luận án chuyên
khoa II. Bộ môn Nội Thần kinh- Đại học Y Dược TP Hồ Chí
Minh.
4. Levetan CS (2004). “Effect of hyperglycemia on stroke
outcomes”. Endocr Pract.2004; 10 Suppl 2: 34 –39.
5. Martin A, Rojas S, Chamorro A, et al (2006). “Why does acute
hyperglycemia worsen the outcome of transient focal cerebral
ischemia? Role of Corticosteroids, Inflammation, and Protein
O-Glycosylation”. Stroke 2006:37; pp1288 – 1295.
6. Mazighi M, Amarenco P (2001). “Hyperglycemia: a predictor
of poor prognosis in acute stroke”. Diabetes Metab. 2001;27(6):
718 – 720.
7. Muir KW, McCormick M, et al. “Prevalence, Predictors and
Prognosis of Post – Stroke Hyperglycaemia in Acute Stroke
Trials: Individual Patient Data Pooled Analysis from the
Virtual International Stroke Trials Archiva (VISTA)”.
Cerebrovasc Dis Extra 2011;1:17–27.
8. Nguyễn Bá Thắng (2006). Nghiên cứu các yếu tố tiên lượng sớm
trong nhồi máu não tuần hoàn trước. Luận văn Thạc sĩ. Bộ môn
Thần kinh trường Đại Học Y dược TP Hồ Chí Minh.
9. Poppe AY, et al. “ Admission Hyperglycemia Predicts a
Worse Outcome in Stroke Patients treated with Intravenous
Thrombolysis”. Diabetes Care 2009;32: pp.617 – 622.
10. Vũ Anh Nhị (2005). “Đột quỵ và bệnh lý mạch máu não”.
Trong: Sổ tay lâm sàng thần kinh sau Đại học. Bộ môn Thần kinh
trường Đại Học Y dược TP Hồ Chí Minh. Tr 99 - 130.
11. Williams LS, Rotich J, Qi R, et al (2002). “Effects of admission
hyperglycemia on mortality and costs in acute ischemic
stroke”. Neurology 2002; 59: 67 – 71.