Mục tiêu: Đánh giá tình trạng nhiễm khuẩn không khí tại các khu điều trị khoa RHM khi cho bệnh nhân sử
dụng thuốc súc miệng trước điều trị.
Phương pháp nghiên cứu: Đây là nghiên cứu cắt ngang được khảo sát hai lần tại các khu vực điều trị lẫn
khu vực không diễn ra điều trị (phòng chờ-nhận bệnh và hành lang) tại khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược
Tp.HCM vào năm 2012 (nhóm súc miệng). Trước mỗi thủ thuật bệnh nhân được súc miệng với thuốc súc miệng
sát khuẩn (Listerine, J&J) tại ghế nha. 126 hộp thạch máu được dùng để khảo sát mẫu không khí tại hai vị trí
(trước mặt và sau lưng bệnh nhân) qua 3 thời điểm (trước, trong và sau điều trị). Các loại hình điều trị gồm: cạo
vôi siêu âm, trám răng, phục hình, nhổ răng thường và nhổ răng khôn. Sau đó các hộp thạch được đem nuôi cấy,
đếm số khúm vi khuẩn trên mỗi hộp. Dữ liệu nhiễm khuẩn không khí tại các khu điều trị năm 2008 (bệnh nhân
không sử dụng thuốc súc miệng) được dùng làm nhóm chứng.
Kết quả: Kết quả nghiên cứu cho thấy sự tăng có ý nghĩa số lượng vi khuẩn trong không khí vào thời
điểm trong điều trị ở mọi khu vực điều trị và cả khu vực không điều trị: phòng chờ - nhận bệnh. Số lượng vi
khuẩn thu được tại vị trí gần miệng bệnh nhân cao hơn ở vị trí sau lưng bệnh nhân. Nghiên cứu chưa đánh
giá được sự khác biệt trong ảnh hưởng của các loại hình điều trị khác nhau lên chất lượng không khí. Khi
cho bệnh nhân súc miệng trước thủ thuật, số lượng vi khuẩn trong không khí vào thời điểm trong điều trị giảm
ở mọi vị trí từ 18-53% (kể cả khu vực không diễn ra điều trị) so với không súc miệng, trong đó sự giảm số lượng
vi khuẩn ở khu điều trị 4 (khu điều trị chất lượng cao) khác biệt có ý nghĩa. Số lượng vi khuẩn trong không khí
thu được ở vị trí gần miệng và sau lưng bệnh nhân thấp hơn so với không súc miệng trong đó sự giảm số lượng
vi khuẩn thu được ở khu ĐT 4 là có ý nghĩa.
Kết luận: Số lượng vi khuẩn trong không khí tăng khi có các hoạt động điều trị răng hàm mặt, càng gần
miệng bệnh nhân thì số lượng vi khuẩn càng cao. Sử dụng nước súc miệng trước thủ thuật giúp làm giảm số
lượng vi khuẩn trong không khí.
9 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 13/06/2022 | Lượt xem: 282 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá tình trạng không khí tại các khu điều trị khoa RHM khi cho bệnh nhân súc miệng trước thủ thuật, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 15
ĐÁNH GIÁ TÌNH TRẠNG KHÔNG KHÍ TẠI CÁC KHU ĐIỀU TRỊ KHOA
RHM KHI CHO BỆNH NHÂN SÚC MIỆNG TRƯỚC THỦ THUẬT
Lê Hoàng Lan Anh*, Ngô Thị Quỳnh Lan*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá tình trạng nhiễm khuẩn không khí tại các khu điều trị khoa RHM khi cho bệnh nhân sử
dụng thuốc súc miệng trước điều trị.
Phương pháp nghiên cứu: Đây là nghiên cứu cắt ngang được khảo sát hai lần tại các khu vực điều trị lẫn
khu vực không diễn ra điều trị (phòng chờ-nhận bệnh và hành lang) tại khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược
Tp.HCM vào năm 2012 (nhóm súc miệng). Trước mỗi thủ thuật bệnh nhân được súc miệng với thuốc súc miệng
sát khuẩn (Listerine, J&J) tại ghế nha. 126 hộp thạch máu được dùng để khảo sát mẫu không khí tại hai vị trí
(trước mặt và sau lưng bệnh nhân) qua 3 thời điểm (trước, trong và sau điều trị). Các loại hình điều trị gồm: cạo
vôi siêu âm, trám răng, phục hình, nhổ răng thường và nhổ răng khôn. Sau đó các hộp thạch được đem nuôi cấy,
đếm số khúm vi khuẩn trên mỗi hộp. Dữ liệu nhiễm khuẩn không khí tại các khu điều trị năm 2008 (bệnh nhân
không sử dụng thuốc súc miệng) được dùng làm nhóm chứng.
Kết quả: Kết quả nghiên cứu cho thấy sự tăng có ý nghĩa số lượng vi khuẩn trong không khí vào thời
điểm trong điều trị ở mọi khu vực điều trị và cả khu vực không điều trị: phòng chờ - nhận bệnh. Số lượng vi
khuẩn thu được tại vị trí gần miệng bệnh nhân cao hơn ở vị trí sau lưng bệnh nhân. Nghiên cứu chưa đánh
giá được sự khác biệt trong ảnh hưởng của các loại hình điều trị khác nhau lên chất lượng không khí. Khi
cho bệnh nhân súc miệng trước thủ thuật, số lượng vi khuẩn trong không khí vào thời điểm trong điều trị giảm
ở mọi vị trí từ 18-53% (kể cả khu vực không diễn ra điều trị) so với không súc miệng, trong đó sự giảm số lượng
vi khuẩn ở khu điều trị 4 (khu điều trị chất lượng cao) khác biệt có ý nghĩa. Số lượng vi khuẩn trong không khí
thu được ở vị trí gần miệng và sau lưng bệnh nhân thấp hơn so với không súc miệng trong đó sự giảm số lượng
vi khuẩn thu được ở khu ĐT 4 là có ý nghĩa.
Kết luận: Số lượng vi khuẩn trong không khí tăng khi có các hoạt động điều trị răng hàm mặt, càng gần
miệng bệnh nhân thì số lượng vi khuẩn càng cao. Sử dụng nước súc miệng trước thủ thuật giúp làm giảm số
lượng vi khuẩn trong không khí.
Từ khóa: Nhiễm khuẩn không khí, thuốc súc miệng sát khuẩn
ABSTRACT
AIR CONTAMINATION AFTER THE PRE-PROCEDURAL USE OF ANTISEPTIC MOUTHWASH
Le Hoang Lan Anh, Ngo Thi Quynh Lan
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 - Supplement of No 2 - 2013: 15-23
Objective: The objective of this study was to evaluate the air contamination after the pre-procedural use of
antiseptic mouthwash at the dental clinics.
Methods: This cross-sectional study was conducted in treatment and non-treatment areas (waiting room
and hallway) at the dental clinics of the Faculty of Odonto-Stomatology, University of Medicine and Pharmcy at
Ho Chi Minh city in year 2012 (the rinse group). Before each treatment, patients rinsed with antiseptic
mouthwash (Listerine, J&J). 126 blood agar plates were used to evaluate air samples which were placed at two
* Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược TP.HCM
Tác giả liên lạc: PGS. Ngô Thị Quỳnh Lan ĐT: 0903125864 Email: ngothiquynhlan@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 16
sites (front and back of patients) before, during and after treatment. Dental procedures included ultrasonic
scaling, filling, prosthetic restoration, extraction and extraction of wisdom teeth. The number of CFU was counted
on each plate after incubation. Data of air contamination in year 2008 was used as the control group (Non-rinse
group).
Results: The results showed that the mean number of CFU in the air was highest at the time of treatment in
all treatment areas and lounges. The number of bacteria obtained at the position near the mouth of patients was
higher than the position behind the patient. However, the study did not find any difference between different types
of treatment on air quality. When patients rinsed their mouth before treatment, the number of bacteria in the air at
the time of treatment decreased in every position from 18% to 53% (including non-treatment areas). Compared
with non-rinse group, the decrease in the amount of bacteria was most significant in the Centre of Excellence. The
number of bacteria in the air collected at position near the mouth and behind the patient was lower than in non-
rinse group, with the most significant reduction of bacteria in the Centre of Excellence.
Conclusion: Further research should be required to investigate related factors and appropriate methods to
have better infection control.
Key words: Air contamination, antiseptic mouthwash
MỞ ĐẦU
Trong điều trị nha khoa, việc sử dụng một số
dụng cụ như: tay khoan tốc độ cao, dụng cụ cạo
vôi siêu âm tạo ra các hạt khí dung nha khoa
đã làm gia tăng đáng kể sự nhiễm khuẩn không
khí phòng nha, mà nguồn vi khuẩn chủ yếu từ vi
khuẩn thường trú của môi trường miệng, các
nhiễm trùng răng miệng cùng với máu, nước
bọt, dịch tiết của bệnh nhân(1,2,3).
Có nhiều biện pháp để kiểm soát nhiễm
khuẩn không khí trong điều trị nha khoa như
biện pháp rào chắn: mang khẩu trang, găng tay,
kính bảo hộ; quy trình tiệt trùng dụng cụ đúng
tiêu chuẩn, đặt đê cao su và sử dụng ống hút
công suất cao (ống hút phẫu thuật) trong lúc
điều trị cho bệnh nhân Bên cạnh đó, việc kiểm
soát nguồn nhiễm khuẩn có sẵn từ miệng bệnh
nhân bằng cách cho bệnh nhân sử dụng dung
dịch súc miệng sát khuẩn trước điều trị cũng rất
quan trọng(2,3,5).
Một số nghiên cứu trên thế giới cho thấy việc
sử dụng dung dịch sát khuẩn như Chlorhexidine
(CHX), Cetylpyridinium chloride (CPC) hay
thuốc súc miệng chứa tinh dầu trước điều trị đã
làm giảm đáng kể số vi khuẩn trong không khí.
Trong đó, súc miệng với CHX làm giảm số lượng
vi khuẩn nhiều nhất và được xem như là một
trong những biện pháp kiểm soát nhiễm khuẩn
được đề nghị trong thực hành nha khoa(10). Ở
Việt Nam cho đến nay vẫn chưa tìm thấy nghiên
cứu nào thật sự tập trung vào vấn đề súc miệng
trước thủ thuật nha khoa để kiểm soát nguồn lây
nhiễm từ miệng của bệnh nhân(4).
Các phòng điều trị răng hàm mặt là nơi có
nhiều hoạt động điều trị đa dạng, đáp ứng nhu
cầu chăm sóc răng miệng của nhiều người dân
nên việc nghiên cứu các biện pháp kiểm soát lây
nhiễm từ môi trường miệng của bệnh nhân càng
phải được quan tâm để hạn chế sự lây nhiễm
chéo và nhất là các bệnh lây qua đường hô hấp
cho cả bệnh nhân và bác sĩ(7,11).
Do đó, chúng tôi thực hiện nghiên cứu
“Đánh giá tình trạng không khí tại khu điều trị
khoa RHM khi cho bệnh nhân súc miệng trước
thủ thuật” với các mục tiêu cụ thể sau:
Sau khi cho bệnh nhân súc miệng trước điều
trị:
Đánh giá và so sánh số lượng vi khuẩn trong
không khí giữa các thời điểm: trước, trong và sau
điều trị tại từng khu điều trị với những loại hình
điều trị khác nhau.
Đánh giá và so sánh về số lượng vi khuẩn
trong không khí giữa các loại hình điều trị.
Đánh giá và so sánh về số lượng vi khuẩn
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 17
trong không khí tại 2 vị trí khảo sát: trước mặt và
sau lưng bệnh nhân tại các thời điểm.
ĐỐI TƯỢNG-PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng.
Để so sánh với số liệu đã có trước đây (bệnh
nhân không súc miệng trước thủ thuật nha khoa)
trong nghiên cứu “Tình trạng nhiễm khuẩn
nước và không khí ở các khu điều trị khoa Răng
Hàm Mặt, Đại học Y Dược” của Đặng Thị Minh
Trang năm 2008(6), nghiên cứu này tuân theo
đúng thiết kế về vị trí, thời điểm, thời gian đặt
thạch, về loại hình điều trị đã được khảo sát
trước đây.
Địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu tiến hành tại khoa Răng Hàm
Mặt, Đại học Y Dược Tp.HCM, địa điểm lấy mẫu
gồm:
Khu điều trị 1: khu thực hành về bệnh lý -
phẫu thuật miệng (nhổ răng), phục hồi (cạo vôi,
trám răng, chữa răng, làm phục hình).
Khu điều trị 4: khu điều trị chất lượng cao
(nhổ răng, cạo vôi, trám răng, chữa răng, làm
phục hình). Khu điều trị 4 trước đây là khu điều
trị Răng Trẻ Em.
Phòng tiểu phẫu.
Phòng chờ - nhận bệnh.
Hành lang ngoài khu vực điều trị.
Đối tượng nghiên cứu
Mẫu không khí tại các địa điểm nghiên cứu
được thu thập thông qua các hộp thạch Petri. Cỡ
mẫu: 126 hộp Petri.
Cấu trúc hộp Petri
Hộp Petri đường kính 9 cm với môi trường
dinh dưỡng là thạch máu (Blood Agar - BA) để
đánh giá số vi khuẩn hiếu khí và kiểm tra các vi
khuẩn gây tiêu huyết.
Vị trí đặt hộp thạch
Tại mỗi ghế máy nha khoa có 2 vị trí khảo
sát: ngang tầm ngực BN (vùng được cho là
nhiễm khuẩn nhiều nhất) và sau lưng nha sĩ và
bệnh nhân (vùng được cho là ít vi khuẩn hơn).
Các vị trí không thuộc ghế máy nha khoa:
cửa vào khu điều trị, quầy nhận bệnh của phòng
chờ - nhận bệnh và hành lang ngoài khu điều trị.
Các loại hình điều trị chọn khảo sát
Cạo vôi siêu âm, chữa răng (trám răng, chữa
tủy), nhổ răng thông thường và nhổ răng khôn,
phục hình răng.
Thời điểm đặt thạch
Trước, trong và sau điều trị khi cho bệnh
nhân súc miệng với thuốc súc miệng trước khi
tiến hành bất cứ điều trị nào trên bệnh nhân.
Như vậy, ở mỗi ghế, không khí được khảo
sát đồng thời ở hai vị trí, trước mặt và sau lưng
bệnh nhân vào ba thời điểm trước, trong và sau
khi diễn ra hoạt động điều trị. Tổng số hộp thạch
được sử dụng cho mỗi lần lấy mẫu tại ghế nha là
6 hộp: 2 vị trí x 3 thời điểm.
Ở phòng chờ, không khí được khảo sát đồng
thời ở hai vị trí, cửa vào và quầy nhận bệnh vào
ba thời điểm trước, trong và sau khi diễn ra hoạt
động điều trị. Tổng số hộp thạch được sử dụng
cho mỗi lần lấy mẫu tại phòng chờ là 6 hộp: 2 vị
trí x 3 thời điểm.
Quy trình nghiên cứu
Cách súc miệng
Cho bệnh nhân súc miệng 1 lần trước thủ
thuật với 20 ml thuốc súc miệng trong 30 giây
(pha loãng theo tỉ lệ 1:1) trước khi tiến hành bất
cứ điều trị nào:
Ngậm ngụm thuốc vào miệng.
Ngậm và súc đều cho thuốc ngấm vào khắp
khoang miệng, đẩy nước qua lại sang hai bên má
và môi, súc cho kêu thành tiếng trong 30 giây.
Nhổ ra, không nuốt.
Lấy mẫu không khí
Mẫu không khí được lấy vào 3 thời điểm:
trước khi tiến hành điều trị, trong quá trình điều
trị, sau khi kết thúc buổi điều trị. Quy trình lấy
mẫu tại ghế nha: 1 hộp petri đặt ngay tầm ngực
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 18
bệnh nhân, cách miệng bệnh nhân khoảng 40
cm, mở nắp hộp petri trong 5 phút và 1 hộp petri
khác đặt trên ghế thấp, cao khoảng 1m, cách
1,5m sau lưng nha sĩ và bệnh nhân, mở nắp hộp
petri trong 20 phút. Tại các vị trí khác (không
điều trị), hộp petri mở trong 20 phút(16).
Hình 1: Vị trí đặt thạch trong nghiên cứu của
Timmerman(20).
Hình 2: Vị trí đặt thạch tại ghế nha.
Ủ vi khuẩn
Hộp thạch lấy mẫu không khí được ủ trong
tủ ủ khuẩn, ở nhiệt độ 37oC trong vòng 24 giờ.
Quan sát, đếm khúm, nhuộm Gram
Đơn vị tính là số khúm/hộp (CFU/hộp). Mức
độ nhiễm khuẩn không khí được đánh giá bằng
chỉ số vi khuẩn trong không khí (AMI-Air
Microbial Index)(13,14,15).
Chỉ số VK trong không
khí (AMI)
CFU/dm2/giờ
Chất lượng
không khí
0 - 5 0 – 9 Rất tốt
6 – 25 10 – 39 Tốt
26 – 50 40 – 84 TB
51 – 75 85 – 124 Xấu
≥ 76 ≥ 125 Rất xấu
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Số lượng vi khuẩn trong không khí theo
thời điểm lấy mẫu
Các số liệu thu được tại các vị trí có và không
điều trị, không phân biệt loại hình điều trị được
tổng hợp thành biểu đồ sau để cho thấy sự thay
đổi về số lượng vi khuẩn trung bình trong không
khí qua các thời điểm tại năm khu vực khảo sát.
45
23 26
70
158
131
86
146 139
208
67
40 43
73
179
0
50
100
150
200
250
Khu ðT 1 Khu ðT 4 Phòng tiểu phẫu Phòng chờ Hành lang
K
hú
m
v
i k
hu
ẩn
/
d
m
2 /
g
iờ
Trước ðT
Trong ðT
Sau ðT
Biểu đồ 1: Số lượng vi khuẩn TB ở từng thời điểm tại 5 khu vực khảo sát.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 19
Bảng 1: So sánh số lượng vi khuẩn TB qua 3 thời
điểm khảo sát.
Số
lượng
VK TB
Tổng
cộng
(N = 42)
Khu
ðT 1 (n
= 16)
Khu
ðT 4 (n
= 16)
Phòng
tiểu phẫu
(n = 4)
Phòng
chờ (n =
4)
Hành
lang (n
= 2)
Trước
ðT 42 45 23 26 70 158
Trong
ðT
120 131 86 146 139 208
Sau ðT 60 67 40 43 73 179
p* 0,000 0,000 0,000 0,038 0,050 0,135
(*) Test Friedman
Tại khu điều trị 1, số lượng vi khuẩn trung
bình trước điều trị là 45 CFU/dm2/giờ, tăng gần 3
lần trong điều trị lên 131 CFU/dm2/giờ và khi
điều trị kết thúc, giảm gần 50% còn 67
CFU/dm2/giờ.
Tại khu điều trị 4, số lượng vi khuẩn trung
bình trước điều trị là thấp nhất với 23
CFU/dm2/giờ và tăng hơn 3 lần khi điều trị diễn
ra, lên 86 CFU/dm2/giờ và sau khi điều trị kết
thúc, giảm hơn 50% còn 40 CFU/dm2/giờ.
Trong ba khu vực điều trị, phòng tiểu phẫu
có mức độ nhiễm khuẩn cao nhất lúc diễn ra
điều trị 146 CFU/dm2/giờ, gấp 5,6 lần so với mức
không khí nền trước điều trị. Nhưng ngay sau
khi kết thúc điều trị, số lượng vi khuẩn trung
bình giảm nhanh và mạnh nhất, trên 70% còn 43
CFU/dm2/giờ.
Tại phòng chờ, số lượng vi khuẩn trung bình
trong không khí qua ba thời điểm khảo sát cũng
thể hiện sự thăng giáng theo khuynh hướng
tương tự như ở các khu điều trị: trong điều trị, số
lượng vi khuẩn trung bình tăng gấp đôi so với
đầu giờ 139 CFU/dm2/giờ, rồi giảm nhanh sau
khi kết thúc điều trị, trở về mức không khí nền
thấp như đầu giờ (73 CFU/dm2/giờ).
Không khí ở hành lang cũng cho thấy mức
độ nhiễm khuẩn rất cao trước điều trị với 158
CFU/dm2/giờ. Tuy nhiên do chịu ảnh hưởng từ
các hoạt động điều trị ít hơn so với khu vực
phòng chờ, sự thay đổi số lượng vi khuẩn trung
bình qua ba thời điểm là không đáng kể.
Kết quả nghiên cứu cho thấy khi điều trị
diễn ra là thời điểm số lượng vi khuẩn tăng cao
so với trước điều trị. Tuy nhiên, mật độ vi khuẩn
sau đó giảm nhanh ngay sau khi kết thúc buổi
điều trị và duy trì ở mức thấp qua đêm tới sáng
hôm sau trước khi điều trị bắt đầu. Sự thay đổi
có ý nghĩa về số lượng vi khuẩn trong không khí
trong điều trị chứng tỏ việc điều trị nói chung có
gây ra nhiễm khuẩn trong không khí ở mức độ
nhất định. Điều này là tương đồng với các
nghiên cứu trên thế giới (Logothetis và cs(12)).
Tình trạng nhiễm khuẩn không khí tăng cao ở
khu vực phòng chờ - nhận bệnh trong thời gian
diễn ra điều trị gợi ý khả năng phát tán cao của
vi khuẩn qua các hạt khí dung trong không khí
từ vùng làm việc đến vùng không diễn ra việc
điều trị cách đó từ 4 đến 11 m (Grenier,
Rautemaa)(9,18).
Số lượng vi khuẩn trong không khí theo
loại hình điều trị
Khi đánh giá riêng từng loại hình điều trị, sự
thăng giáng số lượng vi khuẩn trung bình qua ba
thời điểm cũng tương tự như sự thay đổi mức
nhiễm khuẩn không khí chung của toàn khu.
42
15
49
26 34 27
55
23 26
190
98
114
89
115
80
107
79
146
87
35
60
46 39 32
82
48 43
0
50
100
150
200
Cạo vôi siêu
âm khu ðT 1
Cạo vôi siêu
âm khu ðT 4
Trám răng khu
ðT 1
Trám răng khu
ðT 4
Nhổ răng khu
ðT 1
Nhổ răng khu
ðT 4
Phục hình răng
khu ðT 1
Phục hình răng
khu ðT 4
Tiểu phẫu răng
khôn
K
hú
m
v
i k
hu
ẩn
/
dm
2
/ g
iờ
Trước ðT Trong ðT Sau ðT
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 20
Biểu đồ 2: Số lượng vi khuẩn TB qua các thời điểm của từng loại hình điều trị.
Bảng 2: So sánh số lượng vi khuẩn TB giữa các thời
điểm của từng điều trị.
Loại hình ñiều trị/ Vị trí
khảo sát
Thời ñiểm khảo sát
p*
Trước Trong Sau
Cạo vôi siêu âm/ Khu ðT 1 42 190 87 0,038
Cạo vôi siêu âm/ Khu ðT 4 15 98 35 0,022
Trám răng/Khu ðT1 49 114 60 0,024
Trám răng/Khu ðT4 26 89 46 0,526
Phục hình răng/ Khu ðT 1 55 107 82 0,189
Phục hình răng/ Khu ðT 4 23 79 48 0,076
Nhổ răng/Khu ðT 1 34 115 39 0,024
Nhổ răng/Khu ðT 4 27 80 32 0,038
Tiểu phẫu răng khôn 26 146 43 0,038
(*) Test Friedman
Trước điều trị, số lượng vi khuẩn trung bình
tại các ghế với các điều trị khác nhau khá tương
đồng với tình trạng không khí chung của từng
khu điều trị.
Trong điều trị, số lượng vi khuẩn ghi nhận
với mọi điều trị đều tăng nhưng có sự khác biệt
giữa các loại hình điều trị khác nhau. Ở khu điều
trị 1, tại ghế nha với điều trị cạo vôi siêu âm, số
lượng vi khuẩn trung bình tăng cao nhất, từ 42
CFU/dm2/giờ trước điều trị tăng lên gần gấp 5
lần thành 190 CFU/dm2/giờ. Tại các ghế với các
điều trị khác (trám răng, phục hình, nhổ răng)
cũng có sự tăng lên đáng kể số lượng vi khuẩn
trong điều trị (từ 2-3 lần) ngay cả khi không có
sử dụng các dụng cụ quay làm phát tán khí
dung, như khi nhổ răng (tăng gấp 3,3 lần).
Số lượng vi khuẩn trung bình trong điều trị
với các loại hình điều trị ở khu 4 cũng tăng
tương tự từ 3-6 lần so với đầu giờ. Mức nhiễm
khuẩn không khí trong điều trị tăng nhưng
không cao bằng khu 1, cao nhất là cạo vôi siêu
âm với 98 CFU/dm2/giờ, thấp nhất là phục hình
răng với 79 CFU/dm2/giờ.
Phòng tiểu phẫu có mức nhiễm khuẩn trong
điều trị tiểu phẫu răng khôn khá cao là 146
CFU/dm2/giờ (đứng thứ hai sau cạo vôi siêu âm
ở khu 1), tăng gấp 5,6 lần so với trước điều trị.
Khi kết thúc điều trị, số lượng VK TB không
có sự khác biệt giữa các loại hình điều trị. Riêng
điều trị cạo vôi siêu âm và mài cùi răng cố định ở
khu 1 có mức nhiễm khuẩn không khí sau điều
trị cao hơn hẳn so với các điều trị khác.
Số lượng VK trong không khí theo vị trí
đặt mẫu
Tại các ghế nha, không khí được khảo sát
đồng thời ở hai vị trí trước mặt và sau lưng bệnh
nhân để đánh giá khả năng phát tán vi khuẩn
qua các hạt khí dung trong quá trình điều trị. Số
lượng vi khuẩn trung bình tính được từ tất cả các
mẫu đặt trước mặt bệnh nhân được so sánh với
mẫu đặt sau lưng, không phân biệt thời điểm
điều trị và loại hình điều trị. Riêng tại phòng chờ
có hai vị trí không có điều trị là tại cửa vào và
quầy nhận bệnh được so sánh với nhau. Kết quả
theo vị trí đặt mẫu như sau:
101
56 63
105
61
43
81
0
20
40
60
80
100
120
K
hú
m
v
i k
hu
ẩn
/
dm
2
/ g
iờ
Trước mặt Sau lưng
Cửa
vào
Biểu ñồ 3: Số lượng vi khuẩn TB giữa các vị trí ñặt mẫu.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 21
Bảng 3: So sánh số lượng vi khuẩn TB giữa 2 vị trí ở
các khu vực.
ðịa ñiểm khảo sát
Khu ðT1
(n=24)
Khu ðT4
(n=24)
Phòng tiểu
phẫu (n=6)
Vị trí
khảo sát
Trước mặt 101 56 63
Sau lưng 61 43 81
p* 0,004 0,123 0,752
(*) Test Wilcoxon
Về mức độ phát tán của vi khuẩn tới hai vị trí
khảo sát tại ghế nha, số lượng vi khuẩn thu được
ở vị trí gần miệng bệnh nhân cao hơn vị trí sau
lưng bệnh nhân ở hầu hết các thời điểm. Điều
này phù hợp với giả thiết cho rằng vùng gần
miệng bệnh nhân là vùng không khí dễ nhiễm
khuẩn nhất và vùng sau lưng bệnh nhân ít
nhiễm khuẩn hơn. Kết quả này giống với nghiên
cứu của Logothetis và cs(12), Prospero và cs(17).
Riêng tại phòng tiểu phẫu, số lượng vi khuẩn
trung bình ở vị trí trước mặt bệnh nhân (63
CFU/dm2/giờ) thấp hơn sau lưng (81
CFU/dm2/giờ) là 22% và sự khác biệt này là
không có ý nghĩa. Tại phòng tiểu phẫu, số lượng
vi khuẩn trung bình ở vị trí trước mặt bệnh nhân
thấp hơn sau lưng có thể do việc sử dụng ống
hút phẫu thuật(10), việc đặt khay dụng cụ phía
sau bệnh nhân, đồng thời khoảng cách đặt hộp
thạch ở vị trí sau lưng bệnh nhân trong phòng
tiểu phẫu chưa tới 1,5m.
Khi cho bệnh nhân dùng thuốc súc miệng
trước thủ thuật, số lượng vi khuẩn thu được ở vị
trí gần