Mục tiêu: Vai trò của các xét nghiệm máu trong chẩn đoán chính xác VRT cấp trẻ em còn chưa rõ ràng.
Mục đích của nghiên cứu này là đánh giá các xét nghiệm phản ứng viêm (cụ thể là công thức bạch cầu, CRP)
trong mối tương quan với VRT cấp, từ đó tính ra giá trị chẩn đoán của các xét nghiệm trên khi dùng riêng lẻ và
kết hợp chung.
Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang phân tích.
Kết quả: Từ 01/02/2009 đến 30/9/2009, 243 trẻ đau bụng cấp đủ tiêu chuẩn được đưa vào nhóm nghiên
cứu, trong đó có 140 trẻ (50,62%) được phẫu thuật cấp cứu cắt ruột thừa (nhóm 1), 103 trẻ (49,38%) được theo
dõi không mổ (nhóm 2). Tuổi trung bình trong dân số nghiên cứu là 9,17. Nam giới thường gặp ở nhóm VRT
cấp hơn với tỉ lệ nam/nữ là 2/1, trong khi ở nhóm 2, tỉ lệ đó là 5/4. Độ nhạy của số lượng bạch cầu là 89,43%, độ
đặc hiệu là 26,77%, giá trị tiên đoán dương là 90,16%; của xét nghiệm CRP lần lượt là 68,29%, 29,41%,
94,38%. Khi kết hợp ba giá trị số lượng bạch cầu, CRP, tỉ lệ bạch cầu đa nhân trung tính thì độ nhạy sẽ là
93,75%, độ đặc hiệu là 15,21%, giá trị tiên đoán âm lên đến 100%.
Kết luận: Ơ trẻ đau bụng cấp nghi ngờ VRT cấp, nếu giá trị của ba xét nghiệm trên đều bình thường sẽ
giúp khả năng loại trừ chẩn đoán lên đến 100%.
6 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 13/06/2022 | Lượt xem: 279 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá tương quan giữa công thức bạch cầu, C-reactive protein với viêm ruột thừa cấp ở trẻ em, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Ngọai Nhi 125
ĐÁNH GIÁ TƯƠNG QUAN GIỮA CÔNG THỨC BẠCH CẦU,
C-REACTIVE PROTEIN VỚI VIÊM RUỘT THỪA CẤP Ở TRẺ EM
Nguyễn Đỗ Trọng *, Trương Nguyễn Uy Linh**
TÓM TẮT
Mục tiêu: Vai trò của các xét nghiệm máu trong chẩn đoán chính xác VRT cấp trẻ em còn chưa rõ ràng.
Mục đích của nghiên cứu này là đánh giá các xét nghiệm phản ứng viêm (cụ thể là công thức bạch cầu, CRP)
trong mối tương quan với VRT cấp, từ đó tính ra giá trị chẩn đoán của các xét nghiệm trên khi dùng riêng lẻ và
kết hợp chung.
Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang phân tích.
Kết quả: Từ 01/02/2009 đến 30/9/2009, 243 trẻ đau bụng cấp đủ tiêu chuẩn được đưa vào nhóm nghiên
cứu, trong đó có 140 trẻ (50,62%) được phẫu thuật cấp cứu cắt ruột thừa (nhóm 1), 103 trẻ (49,38%) được theo
dõi không mổ (nhóm 2). Tuổi trung bình trong dân số nghiên cứu là 9,17. Nam giới thường gặp ở nhóm VRT
cấp hơn với tỉ lệ nam/nữ là 2/1, trong khi ở nhóm 2, tỉ lệ đó là 5/4. Độ nhạy của số lượng bạch cầu là 89,43%, độ
đặc hiệu là 26,77%, giá trị tiên đoán dương là 90,16%; của xét nghiệm CRP lần lượt là 68,29%, 29,41%,
94,38%. Khi kết hợp ba giá trị số lượng bạch cầu, CRP, tỉ lệ bạch cầu đa nhân trung tính thì độ nhạy sẽ là
93,75%, độ đặc hiệu là 15,21%, giá trị tiên đoán âm lên đến 100%.
Kết luận: Ơ trẻ đau bụng cấp nghi ngờ VRT cấp, nếu giá trị của ba xét nghiệm trên đều bình thường sẽ
giúp khả năng loại trừ chẩn đoán lên đến 100%.
Từ khóa: Viêm ruột thừa cấp, C-reactive protein, đáp ứng pha cấp
ASTRACT
ESTIMATING CORRELATION AMONG WHITE BLOOD CELL COUNT, NEUTROPHIL
PERCENTAGE, C-REACTIVE PROTEIN IN ACUTE APPENDICITIS IN PEADIATRICS
Nguyen Do Trong, Trưong Nguyen Uy Linh
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 – 2012: 125 - 130
Objective: The role of laboratory tests in diagnostic of acute appendicitis is still unclear in peadiatric
population. This research is to access the values of imflammatory markers (white blood cell count, neutrophil
percentage, CRP) in acute appendicitis, seperatedly and conbined in clinical practice.
Methods: Cross-sectional descriptive study.
Results: From February 1st to September 30th, 243 patients admitted to hospital were included in the study.
They were devided into two group: 140 patients (50,62%) with acute appendicitis (with and without perforated)
in group 1, 103 patients with other nonsurgical problems and negative appendicectomy in group 2. Mean age was
9.17. Male were common than female with sex ratio was 2/1 (acute appendicitis) and was 5/4 in nonsurgical
problems. The sensitivity, specificity, positive predictive value of white blood cell count were 89.43%, 26,77%,
90.16%; of CRP were 68.29%, 29.41%, 94.38%. When the three test were combined (WBC count, neutrophil
percentage, CRP), the sensitivity was 93.75%, specificity 15.21%, negative predictive value 100%.
Conclusions: In children with acute abdominal pain, normal values of the triad (WBC count, neutrophil
*Bệnh viện Nhi Đồng II ** Bộ Môn Ngọai Nhi - ĐHYD TpHCM
Địa chỉ liên hệ: Ts.Bs Trương Nguyễn Uy Linh ĐT: 0909500579 Email: uylinhbs@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16* Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản Và Bà Mẹ - Trẻ Em 126
percentage, CRP) could exclude acute appendicitis to 100%.
Keywords: Acute appendicitis, C-reactive protein, acute-phase response.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Viêm ruột thừa cấp (VRT cấp) là cấp cứu
bụng thường gặp nhưng khó chẩn đoán trong
thực hành ngoại nhi, đặc biệt ở trẻ dưới 5 tuổi,
dẫn đến tỉ lệ mổ trắng lên đến 22-40% và tỉ lệ
biến chứng viêm phúc mạc do viêm ruột thừa
vỡ có khi lên đến 22 - 50%(5,15,20,21).
Công thức bạch cầu (CTBC) là xét nghiệm
thường dùng nhất trong chẩn đoán VRT cấp.
Nhiều nghiên cứu cho rằng tăng số lượng bạch
cầu là dấu hiệu sớm nhất trong VRT và đa số
bệnh nhân VRT cấp có bạch cầu tăng(6). Tỉ lệ
bạch cầu đa nhân trung tính cũng được xem là
có giá trị, vì nó có liên quan đến tình trạng
nhiễm trùng. Độ nhạy của tăng số lượng bạch
cầu (SLBC) trong chẩn đoán VRT cấp là 82-
96%(10), độ nhạy của tăng tỉ lệ bạch cầu đa nhân
trung tính là 60-80%(13,18,20). Tuy nhiên cả hai xét
nghiệm này đều không đặc hiệu cho VRT
cấp(6,8,13,15,22).
Dù đã có nhiều nghiên cứu trên thế giới
về vai trò của CTBC và CRP trong chẩn đoán
VRT cấp ở trẻ em(15,20,22), nhưng vẫn chưa
có nghiên cứu nào về vấn đề này được thực
hiện ở trẻ em Việt Nam. Do đó, mục tiêu của
nghiên cứu này là nhằm xác định độ nhạy, độ
đặc hiệu, giá trị tiên đoán dương, giá trị tiên
đoán âm của xét nghiệm SLBC, tỉ lệ BCĐNTT,
nồng độ CRP huyết tương khi thực hiện riêng
lẽ và khi kết hợp chung với nhau trong chẩn
đoán VRT cấp trẻ em.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Tất cả các bệnh nhi đau bụng cấp được nhập
Khoa Ngoại tổng hợp, Bệnh viện Nhi Đồng 1 từ
01/02/2009 đến 30/09/2009 với chẩn đoán nghi
ngờ VRT cấp có hay không có biến chứng sẽ
được chia hai nhóm.
Nhóm 1: bệnh nhi được mổ cắt ruột thừa có
kết quả giải phẫu bệnh là VRT hay được đánh
giá trên đại thể là đã vỡ. Trong đó, nhóm 1A là
nhóm VRT cấp chưa biến chứng (viêm cấp, mủ)
và nhóm 1B: VRT cấp có biến chứng (viêm phúc
mạc, áp xe).
Nhóm 2: bệnh nhi đau bụng cấp được theo
dõi, không phẫu thuật hay bệnh nhi được mổ
cắt ruột thừa nhưng kết quả giải phẫu bệnh bình
thường.
Tiêu chuẩn loại trừ: các bệnh khác của ruột
thừa không phải viêm cấp: carcinoma ruột thừa,
viêm mãn, u nhầy ruột thừa hay bệnh nhi bị
suy giảm miễn dịch, suy chức năng gan, bị các
bệnh lý huyết học.
Các xét nghiệm được thực hiện ngay khi
bệnh nhi nhập viện, mẫu máu lấy từ tĩnh mạch
ngoại biên, được gửi đến cùng một phòng xét
nghiệm và có thể lặp lại xét nghiệm khi cần.
Công thức máu được thực hiện bởi máy đếm
tế bào (CELL DYN 1700), nồng độ CRP trong
máu được đo bởi máy phân tích hóa sinh
HITACHI 911. Tham khảo các giá trị bình
thường dựa theo “Huyết học lâm sàng nhi
khoa” và “Xét nghiệm sử dụng trong lâm sàng”.
Thiết kế nghiên cứu cắt ngang phân tích.
Tần suất được so sánh bằng các phép kiểm
chi bình phương (2), phép kiểm Student (t),
phép kiểm Fisher (F), phép kiểm Mann-
Whitney. Xác định tỉ số chênh OR để tính
nguy cơ VRT cấp ở trẻ có xét nghiệm bất
thường. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê khi
p < 0,05, khoảng tin cậy 95%.
KẾT QUẢ
Từ 01/02/2009 đến 30/9/2009, chúng tôi ghi
nhận có 243 trẻ đau bụng cấp đủ tiêu chuẩn
được đưa vào nghiên cứu, trong đó có 140 trẻ
(50,62%) được phẫu thuật cấp cứu cắt ruột thừa,
103 trẻ (49,38%) được theo dõi không mổ.
Đặc điểm của bệnh nhi
Tuổi trung bình trong dân số nghiên cứu là
9,17 ± 0.15. Nam giới thường gặp ở nhóm VRT
cấp hơn với tỉ lệ nam/nữ là 2/1, trong khi ở
nhóm 2, tỉ lệ đó là 5/4.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Ngọai Nhi 127
Bảng 1:. Các chỉ số phân tích trong viêm ruột thừa
cấp và đau bụng cấp ¶ t-test.
Nhóm
Phương tiện chẩn
đoán
Nhóm 1 Nhóm 2 P
Thời gian kéo dài
triệu chứng (giờ)
24,0 (4,0-
168,0)
24,0 (2,0-
120,0)
0,577
¶
SLBC (x 10 9/L)
16,3 (15,4-
17,3)
11,5 (10,5-
11,7)
<0,001¶
Tỉ lệ BCĐNTT (%) 73,2(70,8-75,7)
51,8 (51,8-
58,5)
<0,001¶
CRP
(mg/L)
39,34
(30,43-48,25)
16,25
(10,43-22,06)
<0,001
¶
Bảng 2: Mối liên hệ giữa số lượng bạch cầu, nồng độ
CRP với viêm ruột thừa cấp ở trẻ em theo thời gian
kéo dài triệu chứng
Thời gian kéo
dài của triệu
chứng (giờ)
Xét nghiệm
(trung bình, khoảng tin cậy 95%)
SLBC(x10
9
/L) CRP (mg/L)
0-12 15,8 (14,4-17,2) 9,7 (2,8-16,5)
13-24 16,4 (14,9-17,8) 22,8 (15,3-30,3)
25-48 16,7 (15,0-18,3) 64,2 (45,2-83,2)
>48 14,9 (10,9-18,9) 67,23 (27,8-106,6)
Bảng 3: So sánh đặc điểm lâm sàng và các dữ liệu
cận lâm sàng ở nhóm VRT biến chứng và VRT chưa
biến chứng ¶ Student’s test, F Fisher test.
Đặc tính
Biến chứng
(n=30)
Chưa biến
chứng (n=93)
Giá trị P
Giới (nam/nữ) 18/12 65/28 0,316
F
Tuổi(năm) 7,4 (5,9-8,8) 9,6 (9.0-10,2) <0,001
¶
Cư ngụ (Tỉnh /
Thành phố)
14/16 20/73 0,009
F
Thời gian
đau(giờ)
2,9±2,1 1,3±0,8 <0,001
¶
CRP(mg/dL) 89,8
(65,3-114,3)
23,1
(17,0-29,1)
<0,001
¶
SLBC (/mm3) 18,3
(16,1-20,5)
15,7
(14,8-16,6)
0,0121¶
Bảng 4: Độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị tiên đoán
dương, giá trị tiên đoán âm của số lượng bạch cầu,
CRP, tỉ lệ bạch cầu đa nhân trung tính
Xét nghiệm Độ nhạy
Độ đặc
hiệu
Giá trị tiên
đoán dương
Giá trị tiên
đoán âm
SLBC 89,43% 26,77% 90,16% 27,78%
CRP 68,29% 29,41% 94,38% 23,52%
Tỉ lệ
BCĐNTT
97,67% 29,82% 97,67% 27,78%
Kết hợp 96,15% 23,80% 96,15% 20%
Xét nghiệm Độ nhạy
Độ đặc
hiệu
Giá trị tiên
đoán dương
Giá trị tiên
đoán âm
CRP và
SLBC
Kết hợp
giữa CRP,
SLBC, Tỉ lệ
BCĐNTT
93,75% 15,21% 93,75% 100%
Bảng 5: So sánh giá trị các xét nghiệm với các nghiên
cứu khác
Xét nghiệm SLBC
CRP
huyết
tương
Kết hợp SLBC, tỉ lệ
BCĐNTT, CRP
Nghiên cứu
Độ
nhạy
Đặc
hiệu
Độ
nhạy
Đặc
hiệu
Độ
nhạy
Đặc
hiệu
GTT
Đ-D
GTT
Đ-A
Chúng tôi 89,43 26,7
7
68,29 29,4
1
93,75 15,21 93,75 100
Beltran (2)
(ở trẻ em*)
90,0 30,0 90,0 40,0 90.0 30,0 60,0 80,0
Yildirim (25)
(ở người
lớn)
64,3 87,3 64,3 70,4 42,9 100 89,9 100
Shafi (22)
(ở cả người
lớn và trẻ
em)
97,82
55,5
5
95,6
77,7
7
88,04 94,44 98,7
*: thực hiện ở nhóm biểu hiện triệu chứng 25-48 giờ
Chẩn đoán cuối cùng của nhóm 2 (đau
bụng cấp)
Trong nhóm mổ trắng có một trường hợp là
nang hoàng thể xuất huyết, một trường hợp
viêm tai vòi phải, các trường hợp còn lại không
được ghi nhận gì khác trong lúc mổ. Trong
nhóm không mổ có 14 trẻ (13,46%) do táo bón,
16 trẻ (15,38%) do nhiễm trùng tiết niệu, 7
trường hợp (5,8%) do viêm họng cấp; đa phần
còn lại cơn đau tự hết sau 2 ngày theo dõi.
BÀN LUẬN
CRP là hoạt chất đáp ứng viêm không đặc
hiệu. Ở trẻ em bị đau bụng, độ nhạy CRP là 43 -
92%, độ đặc hiệu là 33 - 95%(11,20,13). Độ nhạy và
độ đặc hiệu thay đổi rộng có thể do các tác giả
quy định ngưỡng tăng của CRP khác nhau (từ 9
- 50mg/L)(1, 4,13). Nồng độ CRP huyết tương nhạy
hơn (>90%) so với xét nghiệm đếm SLBC trong
chẩn đoán viêm phúc mạc ruột thừa hay áp xe
ruột thừa ở trẻ em.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16* Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản Và Bà Mẹ - Trẻ Em 128
Việc đo lường nồng độ CRP lặp lại nhiều lần
có thể làm tăng độ nhạy hơn so với làm đơn lẻ.
Nghiên cứu ở người lớn của Eriksson (9) cho
thấy độ nhạy của CRP tăng từ 60% khi mới
nhập viện, lên đến 86% cho xét nghiệm lặp lại
lần thứ hai (sau 4 giờ), 95% cho xét nghiệm lần
thứ ba (sau 8 giờ) và 100% cho xét nghiệm lần
thứ tư (sau 12 giờ). Độ đặc hiệu không thay đổi
trong quá trình làm hàng loạt xét nghiệm theo
dõi (55 - 67%). Ở trẻ em, chưa có nghiên cứu nào
như vậy.
Trong nghiên cứu này, nồng độ CRP huyết
tương của nhóm 1 là 39,34 ± 4,5 mg/L, cao hơn
so với nhóm 2, là 16,24 ± 2,93 mg/L và kết quả
của hai nhóm cũng cao hơn so với ngưỡng tăng
đã nêu ở trên, có thể do các bệnh nhiễm trùng
trong nhóm 2 tạo ra.
Liên quan giữa số lượng bạch cầu, công
thức bạch cầu và c-reactive protein với
viêm ruột thừa trẻ em
Theo thời gian biểu hiện triệu chứng
Theo nghiên cứu của chúng tôi, nồng độ
CRP huyết tương tăng cao theo thời điểm biểu
hiện triệu chứng. Kết quả này phù hợp với
nghiên cứu của Eriksson ở người lớn(9) và
Groselj-Grenc ở trẻ em(10). Điều này liên quan
đến huyết động học của CRP, có nghĩa là nồng
độ CRP huyết tương tăng cao từ 6 giờ sau đáp
ứng viêm, đạt nồng độ đỉnh sau 48 giờ, có thể
gấp trăm lần nồng độ bình thường và chỉ trở về
bình thường sau khi tác nhân gây viêm đã được
giải quyết.
Số lượng bạch cầu có thể giảm đi trong quá
trình theo dõi theo nghiên cứu của Eriksson(9).
Ở nghiên cứu của chúng tôi, SLBC cũng
có xu hướng giảm sau 48 giờ biểu hiện triệu
chứng. Có thể giải thích là do bạch cầu đa
nhân trung tính sau khi tăng cao trong máu
đã tập trung vào mô viêm đang diễn tiến (là
ruột thừa đang viêm).
Do vậy, các trường hợp còn nghi ngờ chẩn
đoán VRT cấp, có thể lặp lại các xét nghiệm trên,
lập biểu đồ nhằm giúp đánh giá diễn tiến bệnh.
Độ nhạy, độ đặc hiệu của các xét nghiệm
Các biến chứng gây ra do chẩn đoán chậm
trễ VRT ở trẻ em như viêm phúc mạc toàn thể
hay áp xe ruột thừa cao hơn nhiều so với các
biến chứng của mổ trắng. Do vậy, xét nghiệm lý
tưởng trong VRT cấp ít nhất phải có độ nhạy
cao để tránh âm tính giả (bỏ nhỡ chẩn đoán).
Với một xét nghiệm, người ta có thể tăng độ
chẩn đoán chính xác của nó bằng cách thay đổi
giá trị ngưỡng của xét nghiệm.
Trong nghiên cứu này, ở 17 trẻ mổ trắng, có
3 trẻ (17,64%) có cả ba xét nghiệm bình thường, 3
trẻ (17,64%) có kết quả ba xét nghiệm tăng.
Trong 120 trẻ VRT cấp, có 27 trẻ (29,03%) trong
nhóm 1A và 18 trẻ (60%) trong nhóm 1B có kết
quả cả ba xét nghiệm đều tăng. Đáng lưu ý là
không có trẻ nào trong nhóm 1A và 1B có cả ba
xét nghiệm trong giới hạn bình thường.
Chúng tôi ghi nhận độ nhạy của SLBC trong
chẩn đoán VRT cấp là 89,43%, phù hợp với các
nghiên cứu khác là 82 - 96%(8, 14); độ nhạy của tỉ
lệ BCĐNTT là 97,67%, cao hơn các nghiên cứu
khác, là 60 - 84% (13). Nghiên cứu của chúng tôi
cho thấy cả SLBC lẫn tỉ lệ BCĐNTT tăng ở phần
lớn các bệnh nhi VRT cấp. Vì vậy, bệnh nhân có
hai số liệu này trong giới hạn bình thường ít có
khả năng bị VRT cấp, do đó cần được thăm
khám cẩn thận trước khi quyết định phẫu thuật.
Cả SLBC và tỉ lệ BCĐNTT đều không đặc
hiệu cho chẩn đoán VRT cấp. Tăng SLBC là
một phản ứng không đặc hiệu trong viêm cấp
hay mãn, stress và nhiều tình trạng khác.
Tăng tỉ lệ BCĐNTT cũng có thể gặp ở các
bệnh nhiễm khuẩn khá(18). Vì vậy, SLBC hay tỉ
lệ BCĐNTT tăng cao không giúp chẩn đoán
chính xác VRT cấp.
CRP tăng cao cũng có giá trị trong chẩn
đoán VRT cấp(2,18). Theo nghiên cứu của Hallan
và Asberg(12), xét nghiệm này có độ nhạy và độ
đặc hiệu thay đổi rộng, lần lượt là 40 - 99% và 27
- 90%. Trong nghiên cứu của chúng tôi, độ nhạy
của xét nghiệm CRP huyết tương là 68,29% và
độ đặc hiệu là 29,41%. Bệnh nhân không viêm
ruột thừa cũng có nồng CRP cao, điều này được
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Ngọai Nhi 129
giải thích là do phần lớn bệnh nhi này có các
bệnh viêm cấp khác.
Nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận tất cả
các xét nghiệm trên đều có độ đặc hiệu khá
thấp trong chẩn đoán viêm ruột thừa cấp.
Nguyên nhân là do chỉ có số bệnh nhân được
phẫu thuật cắt ruột thừa mới được đưa vào
công thức tính, không phải tất cả bệnh nhân
nghi ngờ bị VRT cấp.
Cũng theo bảng 5, khi kết hợp ba xét
nghiệm bao gồm SLBC, tỉ lệ BCĐNTT, nồng
độ CRP sẽ làm tăng độ nhạy lên đến gần 100%
(93,75%) và độ đặc hiệu là 15,21%, giá trị tiên
đoán âm là 100%. Bình thường, xét nghiệm
gọi là chính xác khi nó có độ nhạy và độ đặc
hiệu cao. Trên quan điểm này, cặp ba xét
nghiệm trên có độ nhạy cao nhưng độ đặc
hiệu thấp không thỏa mãn được tiêu chuẩn
của một xét nghiệm lý tưởng. Tuy nhiên, độ
nhạy cao của cặp ba xét nghiệm trên chỉ ra ít
nhất một trong ba xét nghiệm trên là bất
thường (tăng cao) ở hầu hết các bệnh nhân
viêm ruột thừa. Vì vậy, hầu như không nghĩ
đến viêm ruột thừa ở bệnh nhân có các xét
nghiệm trên bình thường.
Theo bảng trên, khi được thực hiện riêng lẻ,
xét nghiệm SLBC và nồng độ CRP huyết tương
cho kết quả thay đổi tùy tác giả, nhưng khi kết
hợp chung các xét nghiệm lại với nhau, chúng
cho độ nhạy, giá trị tiên đoán dương và giá trị
tiên đoán âm khá cao. Điều này giúp ích trong
thực tiễn lâm sàng.
So sánh giữa nhóm viêm ruột thừa cấp chưa có
biến chứng và có biến chứng
Gần đây, Okamoto(17) đã nghiên cứu vai
trò của SLBC trong phân biệt viêm ruột thừa
có và chưa biến chứng ở trẻ em bằng cách
phân tích đường cong ROC (Đường cong này
giúp xác định sự thay đổi của độ nhạy và tỉ lệ
dương tính giả khi ngưỡng chẩn đoán thay
đổi). Kết quả cho thấy SLBC không có giá trị
giúp phân biệt hai nhóm.
Nồng độ CRP tăng cao liên quan đến mức
độ nặng của viêm ruột thừa và sẽ tăng cao rõ
rệt ở nhóm viêm ruột thừa có biến chứng.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, nồng độ
CRP tăng cao ở nhóm viêm ruột thừa biến
chứng (89,8 mg/L) so với nhóm không biến
chứng (23,1 mg/L; p < 0,001).
Chung(6) cho rằng nồng độ CRP trong huyết
tương là một xét nghiệm chỉ điểm tốt hơn trong
phát hiện VRT cấp đã vỡ hay đã tạo lập ổ áp xe
ở trẻ em. Họ cũng ghi nhận giá trị tiên đoán
dương của CRP trong huyết tương là 50 mg/L
và trong chẩn đoán VRT vỡ là 91%.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi nhận thấy
nồng độ của CRP trong huyết tương tăng cao
trong VRT có biến chứng cả trong 48 giờ hay
sau 48 giờ từ triệu chứng khởi phát đầu tiên.
Tăng SLBC sau 48 giờ kể từ triệu chứng khởi
phát đầu tiên có khả năng tiên đoán VRT có biến
chứng, mặc dù mối liên quan giữa tăng SLBC và
mức độ VRT không rõ ràng như với CRP.
Do vậy, nếu như thăm khám lâm sàng ban
đầu kết hợp với kết quả công thức máu, nồng
độ CRP cao ở trẻ nghi ngờ viêm ruột thừa, cần
tiến hành làm thêm các xét nghiệm khác như
siêu âm, chụp cắt lớp ổ bụng, thiết lập điều trị
hợp lý càng sớm càng tốt. Ở trẻ nghi ngờ viêm
ruột thừa có đau bụng hơn 48 giờ, kèm theo
nồng độ CRP máu và SLBC tăng cao, nên nghĩ
đến VRT có biến chứng.
KẾT LUẬN
Giá trị tăng cao của SLBC, ưu thế BCĐNTT
giúp phân biệt đươc VRT cấp chưa có biến
chứng với VRT cấp có biến chứng.
Nồng độ CRP không khác biệt ở trẻ đau
bụng cấp và ở trẻ viêm ruột thừa chưa biến
chứng. Tuy nhiên, sự khác biệt này rõ rệt ở hai
nhóm viêm ruột thừa có và chưa biến chứng,
nhóm đau bụng cấp và nhóm viêm ruột
thừa cấp.
Độ nhạy của SLBC là 89,43%, độ đặc hiệu là
26,77%, giá trị tiên đoán dương là 90,16% và của
CRP lần lượt là 68,29%, 29,41%, 94,38%. Khi kết
hợp ba giá trị SLBC, CRP, tỉ lệ BCĐNTT thì độ
nhạy sẽ là 93,75%, độ đặc hiệu là 15,21%, giá trị
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16* Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản Và Bà Mẹ - Trẻ Em 130
tiên đoán âm lên đến 100%. Như vậy, ở trẻ đau
bụng cấp nghi ngờ VRT cấp, nếu giá trị của ba
xét nghiệm trên đều bình thường sẽ giúp khả
năng loại trừ chẩn đoán lên đến 100%.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Abes M., Petik B., Kazil S. (2007), “Nonoperative treatment of
acute appendicitis in children”, J Pediatr Surg 42 (8), pp. 1439–
1442.
2. Beltran M.A., Almonacid J., Vicencio A. (2007), “Predictive value
of white blood cell count and C-reactive protein in children with
appendicitis”, J Pediatr Surg 42 (7), pp. 1208– 1214.
3. Birchley D. (2006), “Patients with clinical acute appendicitis
should have pre-operative full blood count and C-reactive
protein assays”, Ann R Coll Surg Engl 88 (1), pp. 27-32.
4. Calvo R.F., Sendra E.S., Mialaret L.A. (1998), “The value of C-
reactive protein in the diagnosis of acute appendicitis in
children”, An Esp Pediatr 48 (4), pp. 376-380.
5. Chen S.C., Wang S.M. (1996), “C-reactive protein in the
diagnosis of acute appendicitis”, Am J Emerg Med 14 (1), pp. 101-
103.
6. Chung J.L., Kong M.S., Lin S.L. (1996), “Diagnostic value of C-
reative protein in children with perforated appendicitis”, Eur J
Pediatr 155 (7), pp. 529-531.
7. Dalal I., Somekh E., Bilker-Reich A. (2005), “Serum and
peritoneal inflammatory mediators in children with suspected
acute appendicitis”, Arch Surg 140 (2), pp. 169-173.
8. Dueholm S., Bagi., Bud M. (1989), “Laboratory aid in the
diagnosis os acute appendicitis: A blinded, prospective trial
concerning diagnostic value of leukocyte count, neutrophil
differential count and C-reactive protein”, Dis Colon Rectum 32
(10), pp. 855-859.
9. Eriksson S., Granstrom L., Carlstrom A. (1994