Trong giai đoạn hiện nay, một trong những nguồn lực quan trọng cho phát triển của mỗi địa
phương nói riêng, mỗi quốc gia nói chung đó chính là nguồn nhân lực. Do đó, việc đào tạo, thu hút
nguồn nhân lực là một vấn đề quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của mỗi địa
phương cũng như mỗi quốc gia. Nhận thức được điều này nên trong những năm 1997 – 2015, Đảng
bộ, chính quyền tỉnh Bình Dương đã có nhiều chủ trương, chính sách để đào tạo thu hút nguồn nhân
lực phục vụ cho quá trình phát triển công nghiệp, góp phần quan trọng vào sự phát triển mạnh mẽ
của công nghiệp Bình Dương trong những năm qua.
6 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 490 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đào tạo, thu hút nguồn nhân lực phục vụ phát triển công nghiệp ở Bình Dương giai đoạn 1997 - 2015, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
137
Đào tạo, thu hút . . .
ĐÀO TẠO, THU HÚT NGUỒN NHÂN LỰC PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN
CÔNG NGHIỆP Ở BÌNH DƯƠNG GIAI ĐOẠN 1997 - 2015
Đỗ Minh Tứ*, Nguyễn Thị Kiều Oanh**
TÓM TẮT
Trong giai đoạn hiện nay, một trong những nguồn lực quan trọng cho phát triển của mỗi địa
phương nói riêng, mỗi quốc gia nói chung đó chính là nguồn nhân lực. Do đó, việc đào tạo, thu hút
nguồn nhân lực là một vấn đề quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của mỗi địa
phương cũng như mỗi quốc gia. Nhận thức được điều này nên trong những năm 1997 – 2015, Đảng
bộ, chính quyền tỉnh Bình Dương đã có nhiều chủ trương, chính sách để đào tạo thu hút nguồn nhân
lực phục vụ cho quá trình phát triển công nghiệp, góp phần quan trọng vào sự phát triển mạnh mẽ
của công nghiệp Bình Dương trong những năm qua.
Từ khóa: đào tạo, thu hút, nguồn nhân lực, phát triển công nghiệp, Bình Dương
TRAINING AND HUMAN RESOURCE ATTRACTION FOR INDUSTRIAL
DEVELOPMENT STAGE IN BINH DUONG 1997 – 2015
ABSTRACT
In the current period, one of the most important resources for the development of each locality
in particular, a country that is generally human resources. Therefore, the training and attracting
human resources is an important issue in the process of industrialization and modernization of
every local and every country. Aware of this, in the years 1997 - 2015, the Party Committee, the
Binh Duong provincial government has made guidelines, policies and attract human resources to
serve the industrial development process, contributing to importance to the development of the
industry strong Binh Duong province in recent years.
Keywords: training, attracting, human resources, industrial development, Binh Duong
* ThS. Khoa Lý luận chính trị, Trường Đại học Kinh tế Tp.HCM. NCS. Trường Đại học KHXH và NV, Đại học Quốc Tp. Hồ Chí Minh.
Email: dominhtu@ueh.edu.vn
** GV. Trường Đại học Quốc tế Miền Đông, HVCH. Trường Đại học Thủ Dầu Một.
1. MỞ ĐẦU
Để tiến hành CNH, HĐH nói chung, phát
triển công nghiệp nói riêng, nguồn nhân lực
đóng một vai trò hết sức quan trọng, vì vậy,
ngay từ những năm đầu của tiến trình CNH,
tỉnh Sông Bé (cũ) đã coi lao động là một trong
những ưu thế để thu hút đầu tư. Tuy nhiên, lợi
thế đó dần dần mất đi do sự phát triển vượt bậc
của công nghiệp. Sớm nhận thức được điều
này nên ngay từ khi mới tái lập tỉnh (1997),
Bình Dương đã quan tâm đến vấn đề phát
triển, thu hút nguồn nhân lực phục vụ phát
138
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
triển kinh tế - xã hội cũng như công nghiệp
với những chủ trương, chính sách, biện pháp
cụ thể và luôn coi đó là nhân tố then chốt cho
sự phát triển của tỉnh.
2. PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG GIÁO
DỤC, ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC Ở
BÌNH DƯƠNG
Để nhanh chóng có nguồn nhân lực phục
vụ cho sự nghiệp CNH, HĐH cũng như phát
triển công nghiệp trong điều kiện một tỉnh
mới được tái lập, Bình Dương đã đưa ra chủ
trương “trải chiếu hoa đón nhân tài”, “Huy
động rộng rãi các nguồn lực để đẩy mạnh các
hoạt động đào tạo nhân lực có trình độ quản
lý, có tay nghề kỹ thuật, tạo sự chuyển dịch cơ
cấu lao động trong tỉnh đáp ứng yêu cầu của
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá...Có
chính sách thu hút và phát huy vai trò của đội
ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật trên địa bàn
tỉnh [4, tr.7].
Thực hiện chủ trương trên, Bình Dương
đã có những chính sách khuyến khích phát
triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp
như: Tiếp tực đầu tư hoàn thành công trình
trường đào tạo cán bộ, trung tâm dạy nghề
tỉnh; khuyến khích mở rộng các cơ sở dạy
nghề tư nhân, các trường dân lập; tổ chức các
lớp học nghề tại xí nghiệp; kêu gọi các doanh
nghiệp trong và ngoài nước hỗ trợ xây dựng
các trung tâm đào tạo kỹ thuật phù hợp với
nhu cầu phát triển của tỉnh.
Trong năm 1997, UBND tỉnh Bình
Dương đã ký Quyết định cho tiến hành xây
dựng Trung tâm đào tạo Kỹ thuật Việt Nam –
Singapore (nay là Trường Cao đẳng nghề Việt
Nam – Singapore), đồng thời chỉ đạo các ban,
ngành liên quan tổ chức củng cố, nâng cao chất
lượng đào tạo của các Trung tâm xúc tiến và
giải quyết việc làm, Trung tâm giáo dục tổng
hợp, hướng nghiệp ở các huyện, thị. Đến hết
năm 1997, toàn tỉnh Bình Dương có 04 trường
Trung học chuyên nghiệp, 01 trường Cao đẳng
và 05 trường đào tạo công nhân kỹ thuật, với
6.487 học viên. Số học sinh tốt nghiệp trong
năm là 4.082 người, chiếm 5% số lao động
đang làm việc trong ngành công nghiệp.
Với những chính sách thông thoáng, đến
hết năm 2000, toàn tỉnh có 05 trường Trung
học chuyên nghiệp với 2.432 học sinh, 03
trường Cao đẳng và Đại học với 3.355 sinh
viên, 06 trường công nhân kỹ thuật với 1.993
học sinh. Số học sinh tốt nghiệp các trường
Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp,
công nhân kỹ thuật trong năm 2000 là 5.011
học sinh, chiếm gần 4% lao động đang làm
việc trong ngành công nghiệp.
Từ năm 2001 với chủ trương “Mở rộng
đào tạo nghề phù hợp với thị trường lao động
[5, tr.8], Bình Dương đã tiến hành: Liên kết
với các trường đại học để đào tạo nguồn nhân
lực; triển khai quy hoạch mạng lưới dạy nghề
của tỉnh thời kỳ 2001 – 2010 và tiến hành
đổi mới nội dung, phương pháp và quy trình
đào tạo bậc giáo dục chuyên nghiệp; Khuyến
khích phát triển đa dạng các hình thức dạy
nghề, xây dựng cơ chế hỗ trợ phù hợp đối với
các trung tâm đào tạo nghề dân lập hoặc bán
công; Xây dựng cơ chế trách nhiệm giữa nhà
nước–doanh nghiệp–người lao động về kinh
phí dạy và học nghề; Mở rộng qui mô và nâng
cấp các trường Trung học chuyên nghiệp,
trường dạy nghề, phát triển nhanh các loại
hình dạy nghề và công nhân kỹ thuật, tăng tỷ
trọng loại hình này trong chương trình đào tạo
nguồn nhân lực của tỉnh. Để thu hút học sinh
tham gia học nghề, UBND tỉnh Bình Dương
đã chỉ đạo Sở Giáo dục và Đào tạo, hàng năm
phân luồng khoảng 30% học sinh tốt nghiệp
trung học cơ sở vào học các trường trung học
chuyên nghiệp và dạy nghề.
139
Đào tạo, thu hút . . .
Trong năm 2007, Chính phủ đã chấp thuận
cho tỉnh Bình Dương thành lập Trường Đại
học Thủ Dầu Một trên cơ sở nâng cấp Trường
Cao đẳng Sư phạm. Bộ Giáo dục và Đào tạo
cũng chấp thuận cho Bình Dương thành lập
Trường Trung cấp Kinh tế - Kỹ thuật Đông
Nam. Ngoài ra, UBND tỉnh Bình Dương còn
đã đề nghị Bộ Lao động – Thương binh và Xã
hội cho thành lập Trường Cao đẳng Dạy nghề
Đồng An. Ngoài ra, Bình Dương còn xúc tiến
nhiều dự án đầu tư xây dựng các trường phổ
thông, đại họccó qui mô lớn, thu hút vốn
đầu tư trong và ngoài nước.
Nhờ chính sách phát triển nguồn nhân lực
hợp lý, nên hệ thống các trường trung học
chuyên nghiệp, dạy nghề, cao đẳng, đại học
ở Bình Dương ngày càng phát triển cả về số
lượng, quy mô và chất lượng. Tính đến năm
2015, trên địa bàn tỉnh Bình Dương có 05
trường Đại học, 05 trường Cao đẳng, 02 cơ sở
trường Đại học, 09 trường Trung học chuyên
nghiệp và hàng chục cơ sở dạy nghề, đào tạo
công nhân kỹ thuật với số lượng gần 40 ngàn
học sinh, sinh viên. Tính riêng các trường Đại
học, Cao đẳng và Trung học chuyên nghiệp số
học sinh, sinh viên tốt nghiệp hàng năm lên
tới hàng ngàn sinh viên, góp phần nâng cao
tỷ lệ lao động đã qua đào tạo ở Bình Dương
Xét về cơ cấu lao động đã qua đào tạo,
mặc dù chưa đạt tới cơ cấu tối ưu 1 – 4 – 10
(tức 1 lao động có trình độ đại học, cao đẳng,
4 lao động có trình độ trung cấp, 10 lao động
có trình độ công nhân kỹ thuật) nhưng với cơ
cấu 1 – 1,05 – 2,51 thì tỷ lệ này hợp lý hơn các
địa phương khác ở Đông Nam Bộ. Trong khi
tỷ lệ lao động có trình độ công nhân kỹ thuật
của Bình Dương là 2,51 thì tỷ lệ lao động có
trình độ công nhân kỹ thuật ở Đồng Nai chỉ
ở mức 1,7, ở Bà Rịa-Vũng Tàu là 1,73 và ở
Thành phố Hồ Chí Minh là 1,04. Như vậy, để
đạt được cơ cấu tối ưu thì Bình Dương cần
phải có những chính sách, biện pháp hữu
hiệu hơn nữa nhưng tỷ lệ trên cũng chứng
minh tính đúng đắn, hiệu quả của những
chủ trương, chính sách phát triển, thu hút
nguồn nhân lực của Tỉnh trong những năm
vừa qua.
3. THU HÚT NGUỒN NHÂN LỰC
PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP
Ở BÌNH DƯƠNG
Nhận thức được vai trò quan trọng của
nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực có
trình độ cao đối với sự phát triển kinh tế – xã
hội cũng như công nghiệp, tỉnh Bình Dương
đã ban hành chính sách thu hút nguồn nhân
lực với khẩu hiệu “trải chiếu hoa đón nhân
tài”. Đó là bước đi phù hợp, vừa nhanh chóng
đáp ứng được nguồn nhân lực cho phát triển,
vừa giảm bớt chi phí đào tạo, đồng thời cùng
cả nước giải quyết bài toán việc làm.
Để làm cầu nối giữa người lao động và
doanh nghiệp, từ năm 2002, Bình Dương liên
tục tổ chức “Ngày hội việc làm tỉnh” theo
định kỳ 1 lần/năm. Tính đến năm 2005, với
4 lần tổ chức, “Ngày hội việc làm” đã thu hút
khoảng 60 ngàn lao động tham gia, trong đó
có 5.417 lao động được tuyển dụng tại chỗ,
256 hồ sơ đăng ký học nghề được tiếp nhận.
Ngoài việc đào tạo và tìm kiếm nguồn
nhân lực tại chỗ, Bình Dương còn chủ động
tìm kiếm nguồn nhân lực ở các tỉnh bạn. Năm
2005, Bình Dương đã ký hợp đồng với 09 tỉnh
về chương trình đào tạo và cung ứng nguồn
lao động cho các doanh nghiệp trên địa bàn
tỉnh Bình Dương. Chương trình này được
Bình Dương tiếp tục thực hiện trong những
năm tiếp theo, nhờ vậy mà Bình Dương vẫn
có nguồn lao động đáp ứng cho sản xuất công
nghiệp trong khi các tỉnh khác như Đồng Nai,
Tp. HCM thiếu hụt trầm trọng.
140
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
Song song với việc tổ chức ngày hội
việc làm, Bình Dương còn cho thành lập các
Trung tâm giới thiệu việc làm để thực hiện
vai trò cầu nối giữa người lao động cần việc
và doanh nghiệp cần lao động, góp phần
cung ứng nguồn nhân lực cho phát triển công
nghiệp. Trong đó, Trung tâm dịch vụ việc làm
KCN (được thành lập năm 2000) từ khi thành
lập đến nay (2015), đã có nhiều hoạt động tích
cực trong việc tìm kiếm nguồn lao động, giới
thiệu việc làm cho người lao động như: Ký
kết thỏa thuận liên kết cung ứng lao động với
2 huyện Phú Giáo và Dầu Tiếng; Tham gia
hội chợ việc làm tỉnh Bình Dương, Cần Thơ,
Trà Vinh; tổ chức sàn giao dịch việc làm
hàng tháng (từ tháng 8/2004). Tính đến tháng
5 năm 2015, Trung tâm đã tổ chức 118 phiên
giao dịch việc làm, mỗi phiên có hàng trăm
doanh nghiệp tham gia, giới thiệu, tư vấn
việc làm cho hàng ngàn lao động. Ngoài ra,
Trung tâm còn có sàn giao dịch việc làm trực
tuyến với hàng trăm người truy cập.
4. KẾT LUẬN
Nhờ nhận thức đúng đắn vai trò của nguồn
nhân lực đối với sự phát triển kinh tế cũng
như công nghiệp nên Bình Dương đã sớm có
những chủ trương đúng đắn nhằm đào tạo, thu
hút phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho sự
nghiệp CNH, HDH cũng như phát triển công
nghiệp của tỉnh. Trên cơ sở đó, với nhiều biện
pháp chủ động linh hoạt, trong giai đoạn 1997
– 2010, Bình Dương luôn thu hút, đào tạo,
cung ứng một lượng lớn lao động phục vụ cho
công nghiệp. Nhờ vậy mà vấn đề thiếu hụt
nguồn nhân lực ở địa phương này mặc dù có
lúc diễn ra nhưng không trầm trọng như các
địa phương lân cận, đó cũng là một nhân tố
thúc đẩy sự phát triển mạnh của công nghiệp
Bình Dương trong những năm qua.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả khả
quan trên, vấn đề thiếu hụt nguồn nhân lực
nói chung, nguồn nhân lực chất lượng cao
nói riêng vẫn đang là vấn đề đặt ra ngày càng
gay gắt đối với Bình Dương, cơ cấu lao động
đã qua đào tạo mặc dù có khá hơn các địa
phương khác nhưng vẫn chưa tiệm cận với
cơ cấu tối ưu 1 – 4 – 10. Do đó, trong giai
đoạn tiếp theo, ngoài việc chuyển dịch cơ cấu
ngành công nghiệp, Bình Dương cần phải có
những chính sách hữu hiệu hơn nữa để đào
tạo, thu hút nguồn nhân lực cho phát triển
công nghiệp./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Ban Kinh tế Tỉnh uỷ Sông Bé (1992), Sông Bé - Tiềm năng kinh tế - Những triển vọng đầu tư và du
lịch, Ban Kinh tế Tỉnh ủy, Sông Bé.
[2]. BQL các KCN Bình Dương, Báo cáo tổng kết hoạt động các KCN và phương hướng, nhiệm vụ các
năm từ 1997 – 2011.
[3]. Cục Thống kê Bình Dương, Niên giám thống kê các năm từ 1997 đến 2011.
[4]. Tỉnh uỷ Bình Dương (1997), Nghị quyết về phương hướng nhiệm vụ năm 1997, Số 05/NQ- TU
[5]. Tỉnh uỷ Bình Dương (2003), Nghị quyết về đánh giá tình hình năm 2002; phương hướng nhiệm vụ
năm 2003, Số: 58-NQ/TU.
[6]. UBND tỉnh Bình Dương, Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng và phương hướng
nhiệm vụ các năm từ 1997 đến 2011
141
Học tập và . . .
HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC
HỒ CHÍ MINH
Đỗ Thắng*
Thông tin
* Tham luận tại Hội nghị Tổng kết 5 năm thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW ngày 14/5/2011 của Bộ Chính tr, Ban Chấp hành Trung ương đảng
Cộng sản Việt Nam khóa XI
1 Hồ Chí Minh, toàn tập. Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2000, t1, tr. 263
2 Chuyện kể của những người giúp việc Bác Hồ. Nxb. Thông tấn, Hà Nội 2003, tr. 115
Thực hiện kế hoạch của Đảng ủy Khối cơ
quan chính quyền tỉnh Bình Dương về Tổng
kết 5 năm thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ
Chính trị (khóa XI) về tiếp tục đẩy mạnh việc
học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh. Đảng bộ trường Đại học Kinh tế - Kỹ
thuật Bình Dương đã triển khai quán triệt, chỉ
đạo, tổ chức thực hiện nhằm đẩy mạnh phong
trào học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh một cách sâu rộng và thiết thực
hơn trong toàn trường. Ngày 19/5/2016, Đảng
bộ đã tổ chức lễ tổng kết 5 năm năm thực hiện
Chỉ thị 03. Tại Hội nghị tổng kết, đã có nhiều
tham luận được trình bày khá phong phú.
Trân trọng trích đăng tham luận của chi bộ
2 về học tập và làm theo đức tính Cần, Kiệm,
Liêm, Chính, Chí công, Vô tư của Hồ Chí Minh.
Cán bộ đảng viên chi bộ 2 nhận thức được
rằng: Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư
là những đức tính cần thiết đối với tất cả mọi
người.
Theo Bác: “Trong đạo đức thì việc nêu
gương là vô cùng cần thiết vì, một tấm gương
sống còn giá trị hơn một trăm bài diễn văn
tuyên truyền”.1
Vì vậy, Bác rất quan tâm đến việc rèn
luyện tư cách đạo đức, tác phong cho cán bộ,
đảng viên và nhân dân ta, từ lời nói đến việc
làm. Bản thân Bác là một tấm gương sáng
ngời về lòng yêu nước, thương dân về cần,
kiệm, liêm chính, chí công vô tư để chúng ta
học tập noi theo.
Sinh thời, Bác sống rất giản dị, từ lời nói
đến việc làm, phong cách làm việc, từ cách ăn
mặc cho đến những sinh hoạt thường ngày,
ngay cả khi Người đã là Chủ tịch nước. Tác
phong giản dị ấy đã mang lại một sự gần gũi,
một ấn tượng khó quyên với những ai “chỉ
một lần trong đời gặp Bác”. Bác ăn mặc rất
giản đị và tiết kiệm. Quần áo Bác mặc chỉ có
vài bộ may cùng kiểu. Có chiếc áo của Bác
rách, vá đi vá lại, thay cổ mà Bác vẫn không
cho đổi chiếc áo khác. Có lần Bác nói với một
đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng một cách
chân tình: “ Này chú! Chủ tịch Đảng, Chủ tịch
Nước mặc áo vá vai thế này là cái phúc của
dân đấy. Đừng bỏ cái áo đó đi”.2 Đôi dép cao
su của Bác, bộ quần áo kaki sờn vai Bác vẫn
dùng hàng ngày, khi biết các đồng chí phục
vụ định thay, Bác không đồng ý. Những trang
bản thảo được Bác viết ở mặt sau những tờ
tin tham khảo của Việt Nam Thông Tấn Xã.
Chiếc ô tô Bác đi công tác hay đi thăm đồng
bào và chiến sĩ trong cả nước cũng chỉ là loại
xe bình thường. Bác không dùng chiếc điều
hoà nhiệt độ do các đồng chí cán bộ ngoại
giao đang công tác ở nước ngoài biếu, mà đề
nghị chuyển chiếc điều hoà ấy cho các đồng
chí thương, bệnh binh đang điều dưỡng tại trại
điều dưỡng hoặc quân y viện, mặc dù lúc đó
Bác đang ở trong ngôi nhà của người thợ điện
rất nóng. Những bữa ăn thanh đạm của Người
“thường là dưa cà, đôi khi có thịt”. Những lần
đi thăm các địa phương, Bác thường không
báo trước và mang theo cơm nắm để tránh sự
đón rước linh đình, gây phiền hà và tốn kém
tiền của của nhân dân Quả thật “Bác ơi, tim
Bác mênh mông thế”!
Nói về tấm gương cần, kiệm, liêm chính,
chí công vô tư của Bác, Chi bộ 2, qua các
lần kiểm điểm tổng kết chi bộ năm, các đảng
viên tự đánh giá ưu điểm và nhược điểm, đề
ra chương trình hành động cá nhân. Nâng cao
trí tuệ trước hết nắm vững và vận dụng đúng
đắn chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh; vận dụng những thành tựu công nghệ
thông tin vào giảng dạy một cách hiệu quả.
Tiêu biểu là các Thầy cô đã phấn đấu trong
lao động trí tuệ như những con ong cần mẫn
hút mật đem lại vị ngọt cho đời, tạo ra những
bài giảng hay, hiệu quả đạt Giáo viên dạy giỏi
cấp trường như Nguyễn Lâm Hữu Phước, Lê
Văn Xin, Lê Thị Hương và Giáo viên dạy giỏi
cấp tỉnh giải thưởng “Võ Minh Đức” như:
Nguyễn Kiều Oanh, Lê Minh Hiếu,Nguyễn
Mai Linh.
Vận động cán bộ, nhân viên quyên góp
nhiều sách vở, quần áo cũ, quyên góp tiền
22.126.000đ làm từ thiện thăm hỏi, tặng quà
cho cho trẻ em nghèo, khuyết tật tại “Trung
tâm bảo trợ xã hội Chánh phú Hòa”, Thị xã
Bến cát, Bình Dương và“Trung tâm mái ấm
tình mẹ 2” tại xã Hưng Định, Thuận An,
Bình Dương.
Trong 5 năm qua, 17 đảng viên chi bộ 2 dù
ở cương vị nào đều rèn luyện phẩm chất đạo
đức theo gương Bác để có một đời tư trong
sáng, một lối sống giản dị và khiêm tốn, tích
cực học tập để tiến bộ. Từ trình độ trung cấp
chuyên nghiệp 3 đảng viên đã học liên thông
lên đại học, 5 đảng viên đã học xong thạc sĩ.
Tóm lại, việc học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh theo chuyên đề
“Suốt đời phấn đấu Cần, Kiệm, Liêm chính,
Chí công vô tư, làm người công bộc tận tụy,
trung thành của nhân dân, đời tư trong sáng,
cuộc sống riêng giản dị”. Phải hướng vào việc
nâng cao vai trò tự giác của mỗi cán bộ, đảng
viên. Vì vậy, cần động viên, khuyến khích,
cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức tự
giác đề ra chỉ tiêu phấn đấu thiết thực. Trong
đợt học tập chuyên đề lần này, mỗi cán bộ,
đảng viên, công chức, viên chức nhất là các
cán bộ lãnh đạo cần xây dựng kế hoạch cá
nhân học tập và làm theo Bác với những việc
làm cụ thể, định kỳ báo cáo trước chi bộ.
Trong Hội nghị Tổng kết này, khi nói về
đạo đức Hồ Chí Minh, tôi muốn nhắc lại một
lần nữa rằng:
“Còn những ai chưa được một lần
Trong đời gặp Bác hãy nhanh chân
Tiến lên phía trước, trên cao ấy
Bác vẫn đưa tay đón lại gần”.
(Tố Hữu)