Đào tạo, thu hút nguồn nhân lực phục vụ phát triển công nghiệp ở Bình Dương giai đoạn 1997 - 2015

Trong giai đoạn hiện nay, một trong những nguồn lực quan trọng cho phát triển của mỗi địa phương nói riêng, mỗi quốc gia nói chung đó chính là nguồn nhân lực. Do đó, việc đào tạo, thu hút nguồn nhân lực là một vấn đề quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của mỗi địa phương cũng như mỗi quốc gia. Nhận thức được điều này nên trong những năm 1997 – 2015, Đảng bộ, chính quyền tỉnh Bình Dương đã có nhiều chủ trương, chính sách để đào tạo thu hút nguồn nhân lực phục vụ cho quá trình phát triển công nghiệp, góp phần quan trọng vào sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp Bình Dương trong những năm qua.

pdf6 trang | Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 411 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đào tạo, thu hút nguồn nhân lực phục vụ phát triển công nghiệp ở Bình Dương giai đoạn 1997 - 2015, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
137 Đào tạo, thu hút . . . ĐÀO TẠO, THU HÚT NGUỒN NHÂN LỰC PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP Ở BÌNH DƯƠNG GIAI ĐOẠN 1997 - 2015 Đỗ Minh Tứ*, Nguyễn Thị Kiều Oanh** TÓM TẮT Trong giai đoạn hiện nay, một trong những nguồn lực quan trọng cho phát triển của mỗi địa phương nói riêng, mỗi quốc gia nói chung đó chính là nguồn nhân lực. Do đó, việc đào tạo, thu hút nguồn nhân lực là một vấn đề quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của mỗi địa phương cũng như mỗi quốc gia. Nhận thức được điều này nên trong những năm 1997 – 2015, Đảng bộ, chính quyền tỉnh Bình Dương đã có nhiều chủ trương, chính sách để đào tạo thu hút nguồn nhân lực phục vụ cho quá trình phát triển công nghiệp, góp phần quan trọng vào sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp Bình Dương trong những năm qua. Từ khóa: đào tạo, thu hút, nguồn nhân lực, phát triển công nghiệp, Bình Dương TRAINING AND HUMAN RESOURCE ATTRACTION FOR INDUSTRIAL DEVELOPMENT STAGE IN BINH DUONG 1997 – 2015 ABSTRACT In the current period, one of the most important resources for the development of each locality in particular, a country that is generally human resources. Therefore, the training and attracting human resources is an important issue in the process of industrialization and modernization of every local and every country. Aware of this, in the years 1997 - 2015, the Party Committee, the Binh Duong provincial government has made guidelines, policies and attract human resources to serve the industrial development process, contributing to importance to the development of the industry strong Binh Duong province in recent years. Keywords: training, attracting, human resources, industrial development, Binh Duong * ThS. Khoa Lý luận chính trị, Trường Đại học Kinh tế Tp.HCM. NCS. Trường Đại học KHXH và NV, Đại học Quốc Tp. Hồ Chí Minh. Email: dominhtu@ueh.edu.vn ** GV. Trường Đại học Quốc tế Miền Đông, HVCH. Trường Đại học Thủ Dầu Một. 1. MỞ ĐẦU Để tiến hành CNH, HĐH nói chung, phát triển công nghiệp nói riêng, nguồn nhân lực đóng một vai trò hết sức quan trọng, vì vậy, ngay từ những năm đầu của tiến trình CNH, tỉnh Sông Bé (cũ) đã coi lao động là một trong những ưu thế để thu hút đầu tư. Tuy nhiên, lợi thế đó dần dần mất đi do sự phát triển vượt bậc của công nghiệp. Sớm nhận thức được điều này nên ngay từ khi mới tái lập tỉnh (1997), Bình Dương đã quan tâm đến vấn đề phát triển, thu hút nguồn nhân lực phục vụ phát 138 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật triển kinh tế - xã hội cũng như công nghiệp với những chủ trương, chính sách, biện pháp cụ thể và luôn coi đó là nhân tố then chốt cho sự phát triển của tỉnh. 2. PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG GIÁO DỤC, ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC Ở BÌNH DƯƠNG Để nhanh chóng có nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp CNH, HĐH cũng như phát triển công nghiệp trong điều kiện một tỉnh mới được tái lập, Bình Dương đã đưa ra chủ trương “trải chiếu hoa đón nhân tài”, “Huy động rộng rãi các nguồn lực để đẩy mạnh các hoạt động đào tạo nhân lực có trình độ quản lý, có tay nghề kỹ thuật, tạo sự chuyển dịch cơ cấu lao động trong tỉnh đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá...Có chính sách thu hút và phát huy vai trò của đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật trên địa bàn tỉnh [4, tr.7]. Thực hiện chủ trương trên, Bình Dương đã có những chính sách khuyến khích phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp như: Tiếp tực đầu tư hoàn thành công trình trường đào tạo cán bộ, trung tâm dạy nghề tỉnh; khuyến khích mở rộng các cơ sở dạy nghề tư nhân, các trường dân lập; tổ chức các lớp học nghề tại xí nghiệp; kêu gọi các doanh nghiệp trong và ngoài nước hỗ trợ xây dựng các trung tâm đào tạo kỹ thuật phù hợp với nhu cầu phát triển của tỉnh. Trong năm 1997, UBND tỉnh Bình Dương đã ký Quyết định cho tiến hành xây dựng Trung tâm đào tạo Kỹ thuật Việt Nam – Singapore (nay là Trường Cao đẳng nghề Việt Nam – Singapore), đồng thời chỉ đạo các ban, ngành liên quan tổ chức củng cố, nâng cao chất lượng đào tạo của các Trung tâm xúc tiến và giải quyết việc làm, Trung tâm giáo dục tổng hợp, hướng nghiệp ở các huyện, thị. Đến hết năm 1997, toàn tỉnh Bình Dương có 04 trường Trung học chuyên nghiệp, 01 trường Cao đẳng và 05 trường đào tạo công nhân kỹ thuật, với 6.487 học viên. Số học sinh tốt nghiệp trong năm là 4.082 người, chiếm 5% số lao động đang làm việc trong ngành công nghiệp. Với những chính sách thông thoáng, đến hết năm 2000, toàn tỉnh có 05 trường Trung học chuyên nghiệp với 2.432 học sinh, 03 trường Cao đẳng và Đại học với 3.355 sinh viên, 06 trường công nhân kỹ thuật với 1.993 học sinh. Số học sinh tốt nghiệp các trường Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp, công nhân kỹ thuật trong năm 2000 là 5.011 học sinh, chiếm gần 4% lao động đang làm việc trong ngành công nghiệp. Từ năm 2001 với chủ trương “Mở rộng đào tạo nghề phù hợp với thị trường lao động [5, tr.8], Bình Dương đã tiến hành: Liên kết với các trường đại học để đào tạo nguồn nhân lực; triển khai quy hoạch mạng lưới dạy nghề của tỉnh thời kỳ 2001 – 2010 và tiến hành đổi mới nội dung, phương pháp và quy trình đào tạo bậc giáo dục chuyên nghiệp; Khuyến khích phát triển đa dạng các hình thức dạy nghề, xây dựng cơ chế hỗ trợ phù hợp đối với các trung tâm đào tạo nghề dân lập hoặc bán công; Xây dựng cơ chế trách nhiệm giữa nhà nước–doanh nghiệp–người lao động về kinh phí dạy và học nghề; Mở rộng qui mô và nâng cấp các trường Trung học chuyên nghiệp, trường dạy nghề, phát triển nhanh các loại hình dạy nghề và công nhân kỹ thuật, tăng tỷ trọng loại hình này trong chương trình đào tạo nguồn nhân lực của tỉnh. Để thu hút học sinh tham gia học nghề, UBND tỉnh Bình Dương đã chỉ đạo Sở Giáo dục và Đào tạo, hàng năm phân luồng khoảng 30% học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở vào học các trường trung học chuyên nghiệp và dạy nghề. 139 Đào tạo, thu hút . . . Trong năm 2007, Chính phủ đã chấp thuận cho tỉnh Bình Dương thành lập Trường Đại học Thủ Dầu Một trên cơ sở nâng cấp Trường Cao đẳng Sư phạm. Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng chấp thuận cho Bình Dương thành lập Trường Trung cấp Kinh tế - Kỹ thuật Đông Nam. Ngoài ra, UBND tỉnh Bình Dương còn đã đề nghị Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội cho thành lập Trường Cao đẳng Dạy nghề Đồng An. Ngoài ra, Bình Dương còn xúc tiến nhiều dự án đầu tư xây dựng các trường phổ thông, đại họccó qui mô lớn, thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước. Nhờ chính sách phát triển nguồn nhân lực hợp lý, nên hệ thống các trường trung học chuyên nghiệp, dạy nghề, cao đẳng, đại học ở Bình Dương ngày càng phát triển cả về số lượng, quy mô và chất lượng. Tính đến năm 2015, trên địa bàn tỉnh Bình Dương có 05 trường Đại học, 05 trường Cao đẳng, 02 cơ sở trường Đại học, 09 trường Trung học chuyên nghiệp và hàng chục cơ sở dạy nghề, đào tạo công nhân kỹ thuật với số lượng gần 40 ngàn học sinh, sinh viên. Tính riêng các trường Đại học, Cao đẳng và Trung học chuyên nghiệp số học sinh, sinh viên tốt nghiệp hàng năm lên tới hàng ngàn sinh viên, góp phần nâng cao tỷ lệ lao động đã qua đào tạo ở Bình Dương Xét về cơ cấu lao động đã qua đào tạo, mặc dù chưa đạt tới cơ cấu tối ưu 1 – 4 – 10 (tức 1 lao động có trình độ đại học, cao đẳng, 4 lao động có trình độ trung cấp, 10 lao động có trình độ công nhân kỹ thuật) nhưng với cơ cấu 1 – 1,05 – 2,51 thì tỷ lệ này hợp lý hơn các địa phương khác ở Đông Nam Bộ. Trong khi tỷ lệ lao động có trình độ công nhân kỹ thuật của Bình Dương là 2,51 thì tỷ lệ lao động có trình độ công nhân kỹ thuật ở Đồng Nai chỉ ở mức 1,7, ở Bà Rịa-Vũng Tàu là 1,73 và ở Thành phố Hồ Chí Minh là 1,04. Như vậy, để đạt được cơ cấu tối ưu thì Bình Dương cần phải có những chính sách, biện pháp hữu hiệu hơn nữa nhưng tỷ lệ trên cũng chứng minh tính đúng đắn, hiệu quả của những chủ trương, chính sách phát triển, thu hút nguồn nhân lực của Tỉnh trong những năm vừa qua. 3. THU HÚT NGUỒN NHÂN LỰC PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP Ở BÌNH DƯƠNG Nhận thức được vai trò quan trọng của nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực có trình độ cao đối với sự phát triển kinh tế – xã hội cũng như công nghiệp, tỉnh Bình Dương đã ban hành chính sách thu hút nguồn nhân lực với khẩu hiệu “trải chiếu hoa đón nhân tài”. Đó là bước đi phù hợp, vừa nhanh chóng đáp ứng được nguồn nhân lực cho phát triển, vừa giảm bớt chi phí đào tạo, đồng thời cùng cả nước giải quyết bài toán việc làm. Để làm cầu nối giữa người lao động và doanh nghiệp, từ năm 2002, Bình Dương liên tục tổ chức “Ngày hội việc làm tỉnh” theo định kỳ 1 lần/năm. Tính đến năm 2005, với 4 lần tổ chức, “Ngày hội việc làm” đã thu hút khoảng 60 ngàn lao động tham gia, trong đó có 5.417 lao động được tuyển dụng tại chỗ, 256 hồ sơ đăng ký học nghề được tiếp nhận. Ngoài việc đào tạo và tìm kiếm nguồn nhân lực tại chỗ, Bình Dương còn chủ động tìm kiếm nguồn nhân lực ở các tỉnh bạn. Năm 2005, Bình Dương đã ký hợp đồng với 09 tỉnh về chương trình đào tạo và cung ứng nguồn lao động cho các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Bình Dương. Chương trình này được Bình Dương tiếp tục thực hiện trong những năm tiếp theo, nhờ vậy mà Bình Dương vẫn có nguồn lao động đáp ứng cho sản xuất công nghiệp trong khi các tỉnh khác như Đồng Nai, Tp. HCM thiếu hụt trầm trọng. 140 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật Song song với việc tổ chức ngày hội việc làm, Bình Dương còn cho thành lập các Trung tâm giới thiệu việc làm để thực hiện vai trò cầu nối giữa người lao động cần việc và doanh nghiệp cần lao động, góp phần cung ứng nguồn nhân lực cho phát triển công nghiệp. Trong đó, Trung tâm dịch vụ việc làm KCN (được thành lập năm 2000) từ khi thành lập đến nay (2015), đã có nhiều hoạt động tích cực trong việc tìm kiếm nguồn lao động, giới thiệu việc làm cho người lao động như: Ký kết thỏa thuận liên kết cung ứng lao động với 2 huyện Phú Giáo và Dầu Tiếng; Tham gia hội chợ việc làm tỉnh Bình Dương, Cần Thơ, Trà Vinh; tổ chức sàn giao dịch việc làm hàng tháng (từ tháng 8/2004). Tính đến tháng 5 năm 2015, Trung tâm đã tổ chức 118 phiên giao dịch việc làm, mỗi phiên có hàng trăm doanh nghiệp tham gia, giới thiệu, tư vấn việc làm cho hàng ngàn lao động. Ngoài ra, Trung tâm còn có sàn giao dịch việc làm trực tuyến với hàng trăm người truy cập. 4. KẾT LUẬN Nhờ nhận thức đúng đắn vai trò của nguồn nhân lực đối với sự phát triển kinh tế cũng như công nghiệp nên Bình Dương đã sớm có những chủ trương đúng đắn nhằm đào tạo, thu hút phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp CNH, HDH cũng như phát triển công nghiệp của tỉnh. Trên cơ sở đó, với nhiều biện pháp chủ động linh hoạt, trong giai đoạn 1997 – 2010, Bình Dương luôn thu hút, đào tạo, cung ứng một lượng lớn lao động phục vụ cho công nghiệp. Nhờ vậy mà vấn đề thiếu hụt nguồn nhân lực ở địa phương này mặc dù có lúc diễn ra nhưng không trầm trọng như các địa phương lân cận, đó cũng là một nhân tố thúc đẩy sự phát triển mạnh của công nghiệp Bình Dương trong những năm qua. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả khả quan trên, vấn đề thiếu hụt nguồn nhân lực nói chung, nguồn nhân lực chất lượng cao nói riêng vẫn đang là vấn đề đặt ra ngày càng gay gắt đối với Bình Dương, cơ cấu lao động đã qua đào tạo mặc dù có khá hơn các địa phương khác nhưng vẫn chưa tiệm cận với cơ cấu tối ưu 1 – 4 – 10. Do đó, trong giai đoạn tiếp theo, ngoài việc chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp, Bình Dương cần phải có những chính sách hữu hiệu hơn nữa để đào tạo, thu hút nguồn nhân lực cho phát triển công nghiệp./. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Ban Kinh tế Tỉnh uỷ Sông Bé (1992), Sông Bé - Tiềm năng kinh tế - Những triển vọng đầu tư và du lịch, Ban Kinh tế Tỉnh ủy, Sông Bé. [2]. BQL các KCN Bình Dương, Báo cáo tổng kết hoạt động các KCN và phương hướng, nhiệm vụ các năm từ 1997 – 2011. [3]. Cục Thống kê Bình Dương, Niên giám thống kê các năm từ 1997 đến 2011. [4]. Tỉnh uỷ Bình Dương (1997), Nghị quyết về phương hướng nhiệm vụ năm 1997, Số 05/NQ- TU [5]. Tỉnh uỷ Bình Dương (2003), Nghị quyết về đánh giá tình hình năm 2002; phương hướng nhiệm vụ năm 2003, Số: 58-NQ/TU. [6]. UBND tỉnh Bình Dương, Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng và phương hướng nhiệm vụ các năm từ 1997 đến 2011 141 Học tập và . . . HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH Đỗ Thắng* Thông tin * Tham luận tại Hội nghị Tổng kết 5 năm thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW ngày 14/5/2011 của Bộ Chính tr, Ban Chấp hành Trung ương đảng Cộng sản Việt Nam khóa XI 1 Hồ Chí Minh, toàn tập. Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2000, t1, tr. 263 2 Chuyện kể của những người giúp việc Bác Hồ. Nxb. Thông tấn, Hà Nội 2003, tr. 115 Thực hiện kế hoạch của Đảng ủy Khối cơ quan chính quyền tỉnh Bình Dương về Tổng kết 5 năm thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XI) về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Đảng bộ trường Đại học Kinh tế - Kỹ thuật Bình Dương đã triển khai quán triệt, chỉ đạo, tổ chức thực hiện nhằm đẩy mạnh phong trào học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh một cách sâu rộng và thiết thực hơn trong toàn trường. Ngày 19/5/2016, Đảng bộ đã tổ chức lễ tổng kết 5 năm năm thực hiện Chỉ thị 03. Tại Hội nghị tổng kết, đã có nhiều tham luận được trình bày khá phong phú. Trân trọng trích đăng tham luận của chi bộ 2 về học tập và làm theo đức tính Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công, Vô tư của Hồ Chí Minh. Cán bộ đảng viên chi bộ 2 nhận thức được rằng: Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư là những đức tính cần thiết đối với tất cả mọi người. Theo Bác: “Trong đạo đức thì việc nêu gương là vô cùng cần thiết vì, một tấm gương sống còn giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”.1 Vì vậy, Bác rất quan tâm đến việc rèn luyện tư cách đạo đức, tác phong cho cán bộ, đảng viên và nhân dân ta, từ lời nói đến việc làm. Bản thân Bác là một tấm gương sáng ngời về lòng yêu nước, thương dân về cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư để chúng ta học tập noi theo. Sinh thời, Bác sống rất giản dị, từ lời nói đến việc làm, phong cách làm việc, từ cách ăn mặc cho đến những sinh hoạt thường ngày, ngay cả khi Người đã là Chủ tịch nước. Tác phong giản dị ấy đã mang lại một sự gần gũi, một ấn tượng khó quyên với những ai “chỉ một lần trong đời gặp Bác”. Bác ăn mặc rất giản đị và tiết kiệm. Quần áo Bác mặc chỉ có vài bộ may cùng kiểu. Có chiếc áo của Bác rách, vá đi vá lại, thay cổ mà Bác vẫn không cho đổi chiếc áo khác. Có lần Bác nói với một đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng một cách chân tình: “ Này chú! Chủ tịch Đảng, Chủ tịch Nước mặc áo vá vai thế này là cái phúc của dân đấy. Đừng bỏ cái áo đó đi”.2 Đôi dép cao su của Bác, bộ quần áo kaki sờn vai Bác vẫn dùng hàng ngày, khi biết các đồng chí phục vụ định thay, Bác không đồng ý. Những trang bản thảo được Bác viết ở mặt sau những tờ tin tham khảo của Việt Nam Thông Tấn Xã. Chiếc ô tô Bác đi công tác hay đi thăm đồng bào và chiến sĩ trong cả nước cũng chỉ là loại xe bình thường. Bác không dùng chiếc điều hoà nhiệt độ do các đồng chí cán bộ ngoại giao đang công tác ở nước ngoài biếu, mà đề nghị chuyển chiếc điều hoà ấy cho các đồng chí thương, bệnh binh đang điều dưỡng tại trại điều dưỡng hoặc quân y viện, mặc dù lúc đó Bác đang ở trong ngôi nhà của người thợ điện rất nóng. Những bữa ăn thanh đạm của Người “thường là dưa cà, đôi khi có thịt”. Những lần đi thăm các địa phương, Bác thường không báo trước và mang theo cơm nắm để tránh sự đón rước linh đình, gây phiền hà và tốn kém tiền của của nhân dân Quả thật “Bác ơi, tim Bác mênh mông thế”! Nói về tấm gương cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư của Bác, Chi bộ 2, qua các lần kiểm điểm tổng kết chi bộ năm, các đảng viên tự đánh giá ưu điểm và nhược điểm, đề ra chương trình hành động cá nhân. Nâng cao trí tuệ trước hết nắm vững và vận dụng đúng đắn chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; vận dụng những thành tựu công nghệ thông tin vào giảng dạy một cách hiệu quả. Tiêu biểu là các Thầy cô đã phấn đấu trong lao động trí tuệ như những con ong cần mẫn hút mật đem lại vị ngọt cho đời, tạo ra những bài giảng hay, hiệu quả đạt Giáo viên dạy giỏi cấp trường như Nguyễn Lâm Hữu Phước, Lê Văn Xin, Lê Thị Hương và Giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh giải thưởng “Võ Minh Đức” như: Nguyễn Kiều Oanh, Lê Minh Hiếu,Nguyễn Mai Linh. Vận động cán bộ, nhân viên quyên góp nhiều sách vở, quần áo cũ, quyên góp tiền 22.126.000đ làm từ thiện thăm hỏi, tặng quà cho cho trẻ em nghèo, khuyết tật tại “Trung tâm bảo trợ xã hội Chánh phú Hòa”, Thị xã Bến cát, Bình Dương và“Trung tâm mái ấm tình mẹ 2” tại xã Hưng Định, Thuận An, Bình Dương. Trong 5 năm qua, 17 đảng viên chi bộ 2 dù ở cương vị nào đều rèn luyện phẩm chất đạo đức theo gương Bác để có một đời tư trong sáng, một lối sống giản dị và khiêm tốn, tích cực học tập để tiến bộ. Từ trình độ trung cấp chuyên nghiệp 3 đảng viên đã học liên thông lên đại học, 5 đảng viên đã học xong thạc sĩ. Tóm lại, việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh theo chuyên đề “Suốt đời phấn đấu Cần, Kiệm, Liêm chính, Chí công vô tư, làm người công bộc tận tụy, trung thành của nhân dân, đời tư trong sáng, cuộc sống riêng giản dị”. Phải hướng vào việc nâng cao vai trò tự giác của mỗi cán bộ, đảng viên. Vì vậy, cần động viên, khuyến khích, cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức tự giác đề ra chỉ tiêu phấn đấu thiết thực. Trong đợt học tập chuyên đề lần này, mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức nhất là các cán bộ lãnh đạo cần xây dựng kế hoạch cá nhân học tập và làm theo Bác với những việc làm cụ thể, định kỳ báo cáo trước chi bộ. Trong Hội nghị Tổng kết này, khi nói về đạo đức Hồ Chí Minh, tôi muốn nhắc lại một lần nữa rằng: “Còn những ai chưa được một lần Trong đời gặp Bác hãy nhanh chân Tiến lên phía trước, trên cao ấy Bác vẫn đưa tay đón lại gần”. (Tố Hữu)
Tài liệu liên quan