Đặt vấn đề: Phẫu thuật thoát vị bẹn có dùng mảnh ghép đã và đang được dùng nhiều tại Việt Nam. Đau
mạn tính sau mổ thoát vị bẹn được nghiên cứu khá nhiều gần đây ở nước ngoài, nhưng lại chưa được quan tâm
tại Việt nam. Do đó, nghiên cứu này nhằm vào việc xác định tỷ lệ đau sau các phẫu thuật thoát vị bẹn có dùng
mảnh ghép (Lichtenstein và nội soi) và so sánh về đau và dị cảm giữa 2 kỹ thuật mổ này.
Phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu lâm sàng có đối chứng, đánh giá đau theo thang điểm VAS, cỡ mẫu
được tính toán cho mỗi nhóm là 103.
Bệnh nhân và Kết quả: Có 110 ca Lichtenstein và 114 ca nội soi được theo dõi. Không có sự khác biệt giữa
2 nhóm về tuổi, giới, loại thoát vị, tỷ lệ theo dõi. So sánh giữa nhóm Lichtenstein và nội soi cho thấy; không có
khác biệt về đau mạn tính (14,3% so với 14%), nhưng có khác biệt (p<0,001) về dị cảm (25,3% so với 5,4%).
Kết luận: Đau mạn tính sau mổ giữa Lichtenstein và nội soi là như nhau, nhưng dị cảm sau mổ
Lichtenstein nhiều hơn so với mổ nội soi.
9 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 212 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đau mạn tính vùng bẹn đùi sau mổ thoát vị bẹn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 115
ĐAU MẠN TÍNH VÙNG BẸN ĐÙI SAU MỔ THOÁT VỊ BẸN
Vương Thừa Đức*, Dương Ngọc Thành*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Phẫu thuật thoát vị bẹn có dùng mảnh ghép đã và đang được dùng nhiều tại Việt Nam. Đau
mạn tính sau mổ thoát vị bẹn được nghiên cứu khá nhiều gần đây ở nước ngoài, nhưng lại chưa được quan tâm
tại Việt nam. Do đó, nghiên cứu này nhằm vào việc xác định tỷ lệ đau sau các phẫu thuật thoát vị bẹn có dùng
mảnh ghép (Lichtenstein và nội soi) và so sánh về đau và dị cảm giữa 2 kỹ thuật mổ này.
Phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu lâm sàng có đối chứng, đánh giá đau theo thang điểm VAS, cỡ mẫu
được tính toán cho mỗi nhóm là 103.
Bệnh nhân và Kết quả: Có 110 ca Lichtenstein và 114 ca nội soi được theo dõi. Không có sự khác biệt giữa
2 nhóm về tuổi, giới, loại thoát vị, tỷ lệ theo dõi. So sánh giữa nhóm Lichtenstein và nội soi cho thấy; không có
khác biệt về đau mạn tính (14,3% so với 14%), nhưng có khác biệt (p<0,001) về dị cảm (25,3% so với 5,4%).
Kết luận: Đau mạn tính sau mổ giữa Lichtenstein và nội soi là như nhau, nhưng dị cảm sau mổ
Lichtenstein nhiều hơn so với mổ nội soi.
Từ khóa: Đau mạn tính vùng bẹn, dị cảm mạn tính vùng bẹn.
ABSTRACT
CHRONIC GROIN PAIN AFTER INGUINAL HERNIOPLASTY WITH MESH
Vuong Thua Duc, Duong Ngoc Thanh
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 1 - 2011: 115 - 123
Backgroud: Inguinal hernioplasties with mesh have been used popularly in Vietnam. In western countries,
postoperative chronic groin pain has been an important problem for study (secondary to the problem of
recurrence) but it has not made any attention in Vietnam so far. So, this study is to determine and compare the
rates of pain and paresthesia after Lichtenstein and laparoscopic inguinal hernioplasty.
Methode: case control study with population size over 103 in each group and pain was estimated by visual
analogue scale (VAS).
Results: There were 110 cases in Lichtenstein group and 114 cases in laparoscopic group without difference
between these 2 groups in age, sex, types of hernia (Gilbert classification) and rates of following up. We found no
difference in rates of chronic groin pain (14.3% vs 14%) but there was diferrence in rates of chronic paresthesia
between 2 groups (25.3% vs 5.4%).
Conclusions: Chronic groin pain after Lichtenstein repair is equal to laparoscopic repair, but paresthesia
after Lichtenstein repair is much more than laparoscopic repair (p<0.001).
Key words: chronic groin pain, chronic groin paresthesia.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhiều thập niên qua, khi đánh giá một
phương pháp phẫu thuật điều trị bệnh thoát vị
bẹn, người ta thường chỉ nghĩ tới vấn đề tái phát
sau mổ. Từ sau khi mảnh ghép được dùng trong
điều trị thoát vị bẹn, tỷ lệ tái phát sau mổ còn rất
thấp, khoảng 1%(1,6,10,13). Tuy nhiên, khi vấn đề tái
phát sau mổ gần như được giải quyết thì đau
mạn tính vùng bẹn sau mổ đặt mảnh ghép lại
* Bộ Môn Ngọai Tổng Quát– Đại học Y Dược TPHCM
Tác giả liên lạc: PGS.TS BS. Vương Thừa Đức. ĐT: 0903979725. Email: vuongthuaduc@yahoo.com.vn
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Ngoại Khoa 116
dần nổi lên thành một vấn đề mới khá nổi cộm,
có thể ảnh hưởng tới chất lượng cuộc sống bệnh
nhân sau mổ. Một số tác giả cho rằng đặt mảnh
ghép tiền phúc mạc qua nội soi (TEP hay TAPP)
ít gây đau mạn tính vùng bẹn sau mổ hơn kỹ
thuật Lichtenstein(2,5). Ở Việt Nam, phẫu thuật
điều trị thoát vị bẹn bằng mảnh ghép phổ biến
nhất là kỹ thuật Lichtenstein. Vương Thừa
Đức(13) trên 115 ca mổ theo kỹ thuật Lichtenstein
qua thời gian theo dõi 1-2 năm cho thấy tỷ lệ tái
phát thấp khoảng 0,97%, trong nghiên cứu này
tác giả cũng đề cập tới một số trường hợp đau
mạn tính sau mổ ở mức độ đáng kể là khoảng
1,6%. Gần đây, có một số nghiên cứu về phẫu
thuật đặt mảnh ghép (mổ mở và nội soi) với tỷ
lệ tái phát thấp, nhưng không ghi nhận về vấn
đề đau mạn tính vùng bẹn sau mổ. Vì vậy,
những hiểu biết và kinh nghiệm trong nước ta
về vấn đề này còn nhiều thiếu sót nếu không
muốn nói là bị quên lãng. Do đó, chúng tôi tiến
hành nghiên cứu này nhằm khảo sát về tình
trạng đau mạn tính sau đặt mảnh ghép giữa hai
nhóm bệnh nhân; mổ theo kỹ thuật Lichtenstein
và nội soi (TEP hay TAPP), nhằm góp phần tìm
hiểu thêm một kết quả lâu dài khác sau mổ, bên
cạnh vấn đề tái phát. Từ đó, đưa ra thêm một
yếu tố để các phẫu thuật viên cân nhắc khi lựa
chọn phương pháp điều trị cho bệnh nhân bệnh
thoát vị bẹn.
Mục tiêu
So sánh đau mạn tính vùng bẹn sau phẫu
thuật Lichtenstein và nội soi.
So sánh dị cảm mạn tính vùng bẹn sau phẫu
thuật Lichtenstein và nội soi.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu bệnh chứng giữa 2 nhóm bệnh
nhân phục hồi thành bụng bằng mổ mở đặt
mảnh ghép (Lichtenstein) và mổ nội soi đặt
mảnh ghép tiền phúc mạc (TEP hay TAPP).
Cỡ mẫu
N: cỡ mẫu.
Z2 (1 – a/2) = 1,96 với a = 0,05.
P1: Tỷ lệ đau mạn tính sau mổ thoát vị bẹn
bằng kỹ thuật TEP.
P2: Tỷ lệ đau mạn tính sau mổ thoát vị bẹn
bằng kỹ thuật Lichtenstein.
d: sai số cho phép chọn 10%.
Theo Eklund A(2) tỷ lệ đau mạn tính sau mổ
1 năm với kỹ thuật TEP là 11%, và Lichtenstein
là 22%. Từ đó tính ra cỡ mẫu tối thiểu của mỗi
nhóm là 103 ca.
Đối tượng nghiên cứu
Tất cả bệnh nhân được mổ thoát vị bẹn tại
Bệnh Viện ĐHY Dược từ tháng 01/2007 đến
12/2009.
- Có địa chỉ và số điện thoại liên lạc đươc với
bệnh nhân.
- Lớn hơn 15 tuổi.
Chúng tôi loại trừ những bệnh nhân được
mổ do thoát vị bẹn tái phát.
Thu thập số liệu
Định nghĩa đau mạn tính: đau được xem là
mạn tính khi kéo dài trên 6 tháng dựa theo
một số nghiên cứu đa trung tâm(5,15), tác giả
chọn thời điểm 6 tháng làm mốc đánh giá đau
mạn tính. Nghiên cứu của chúng tôi cũng chọn
thời điểm 6 tháng làm mốc đánh giá đau mạn
tính. Do đó, những bệnh nhân mổ ≥ 6 tháng
chúng tôi mới đưa vào nghiên cứu và tiến
hành thu thập số liệu.
Ðầu tiên, gọi điện thoại cho bệnh nhân để
thu thập thông tin. Nếu bệnh nhân than đau hay
dị cảm vùng mổ, mời bệnh nhân tái khám.
Đánh giá đau mạn tính của BN
- Nếu bệnh nhân tái khám thì chúng tôi
đánh giá trực tiếp bằng thang điểm VAS, sau đó
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 117
áp vào thang điểm số có chiều dài tương đương
để quy ra điểm (từ 1 đến 10).
- Nếu bệnh nhân vì lý do nào đó không có
điều kiện tái khám, thì chúng tôi chấm điểm dựa
vào cách mô tả của bệnh nhân để từ đó đồng
nhất theo thang đểm VAS một cách tương đối.
Bảng 1: Đánh giá mức độ đau theo VAS và dựa vào
mô tả của bệnh nhân
Mô tả bằng lời
nói (Verbal
rating Scale)
Mức độ đau Thang điểm quan
sát (Visual
analogue scales)
Đau rất nhẹ Không đáng kể,
không cần thuốc
giảm đau
1 - 2
Đau nhẹ Chịu được, không
cần thuốc giảm đau
3 - 4
Đau vừa Khó chịu, thỉnh
thoảng cần thuốc
giảm đau (uống)
5 - 6
Đau nhiều Khó chịu, thường
cần thuốc giảm đau
(uống)
7 - 8
Đau rất nhiều Không chịu nổi, dù
có thuốc giảm đau
(chích)
9 - 10
Đánh giá dị cảm
Tê và nóng rát, mất cảm giác và khó chịu
khác.
Khác
Tái phát, nhiễm trùng mảnh ghép, teo tinh
hoàn.
Các dữ liệu nghiên cứu
Dịch tễ học: Tuổi, giới tính, phân loại theo
Gilbert.
Phẫu thuật: Loại mảnh ghép dùng. Các khó
khăn trong mổ như; dính nhiều, chảy máu,
thủng phúc mạc, cách đặt trocar (mổ nội soi).
Kết quả theo dõi: Tỷ lệ theo dõi được. Đau
mạn tính sau mổ (tỷ lệ đau, mức độ đau, vị trí
đau). Dị cảm mạn tính sau mổ (tỷ lệ dị cảm,
tính chất và vị trí dị cảm). Các vấn đề khác (tái
phát ).
Xử lý số liệu
Bằng phần mềm SPSS 18.0.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Có 224 ca thỏa tiêu chuẩn chọn vào mẫu
nghiên cứu. Chúng tôi dùng từ ca chỉ mỗi bên
thoát vị được mổ. Nếu một bệnh nhân mổ thoát
vị bẹn 2 bên chúng tôi xem như 2 ca có đặc điểm
giống nhau. Do đó, chúng tôi có 224 ca mổ gồm
110 ca Lichtenstein và 114 nội soi, nhưng chỉ có
207 bệnh nhân.
Đặc điểm dịch tễ học của mẫu nghiên cứu
Tuổi
Tuổi trung bình trong nhóm mổ Lichtenstein
là 56,3 ± 17,8 (17 - 83) và trong nhóm mổ nội soi
là 54,9 ± 17,3 (21 - 80). So sánh tuổi của 2 nhóm
cho thấy không có sư khác biệt (p = 0,59).
Bảng 2: Phân bố nhóm tuổi của bệnh nhân 2 nhóm.
Nhóm tuổi Tuổi
PP mổ 15 - 35 36 - 55 56 – 75 >75
Tổng
cộng
Lichtenstein 21
(19,1%)
27
(24,5%)
45
(40,9%)
17
(15,5%)
110
(100%)
Nội soi 21
(18,4%)
32
(28,1%)
50
(43,9%)
11
(9,6%)
114
(100%)
Tổng cộng 42
(18,8%)
59
26,3,%)
95
(42,4%)
28
(12,5%)
224
(100%)
Giới tính
Đa số bệnh nhân là nam (94,7%), nữ chiếm
rất ít. So sánh về giới tính giữa 2 nhóm cho thấy
không có sự khác biệt (p =0,38).
Bảng 3: Phân bố giới tính của 2 nhóm
Giới tính Giới tính
PP mổ Nữ Nam
Tổng cộng
Lichtenstein 4 (3,6%) 106 (96,4%) 110 (100%)
Nội soi 7 (6,1%) 107 (93,9%) 114 (100%)
Tổng cộng 11 (5,3%) 196 (94,7%) 224 (100%)
Phân loại thoát vị bẹn theo Gilbert
Thoát vị bẹn type II, III chiếm đa số (47 -
56%). Trường hợp không đủ dữ kiện phân loại
chúng tôi xếp vào nhóm không phân loại được.
So sánh giữa 2 nhóm không thấy sự khác biệt (p
= 0,19).
Bảng 4: Phân loại theo Gilbert của 2 nhóm.
Phân loại Gilbert Gilbert
KT mổ II III IV V VI Không
Tổng
cộng
Lichtenstei
n
26
(23,6%)
26
(23,6%)
18
(16,4%)
12
(10,9%)
9
(8,2%)
19
(17,3%)
110
(100%)
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Ngoại Khoa 118
Phân loại Gilbert Gilbert
KT mổ II III IV V VI Không
Tổng
cộng
Nội soi 36
(31,6%)
28
(24,6%)
14
(12,3%)
10
(8,8%)
2
(1,8%)
24
(21,1%)
114
(100%)
Tổng cộng 62
(27,7%)
54
(24,1%)
32
(14,3%)
22
(9,8%)
11
(4,9%)
43
(19,2%)
224
(100%)
Kết quả theo dõi sau phẫu thuật 2 nhóm
Tỷ lệ theo dõi bênh nhân sau mổ
Khi chúng tôi tái khám hoặc phỏng vấn
được trực tiếp bệnh nhân qua điện thoại thì mới
tính bệnh nhân đó theo dõi được. Trường hợp
chúng tôi chỉ gặp được người nhà bệnh nhân thì
chúng tôi gọi lại lần sau hoặc tính vào nhóm mất
liên lạc. So sánh tỷ lệ theo dõi giữa nhóm
Lichtenstein (82,7%) và nội soi (82,6%) cho thấy
không có sự khác biệt (p = 0,599).
Thời gian theo dõi tính từ ngày mổ cho tới
khi liên lạc được với bệnh nhân. Thời gian theo
dõi ngắn nhất 7 tháng, lâu nhất 36 tháng, trung
bình là 17,9 ± 6,9 tháng.
Đau mạn tính sau mổ
Tỷ lệ đau mạn tính
Trong nhóm Lichtenstein, có 13 ca đau
(14,3%) (trong đó 9/13 đến tái khám) và 5/13 ca
vừa đau vùa dị cảm. Trong nhóm nội soi, có 13
ca (14%) (trong đó 10/13 đến tái khám) và 2/13 ca
vừa đau vừa dị cảm. So sánh tỷ lệ đau cho thấy
không khác biệt (p = 0,95).
Bảng 5: Tỷ lệ đau mạn tính của bệnh nhân 2 nhóm.
Đau sau mổ Đau
PP mổ Có không
Tổng cộng
Lichtenstein 13 (14,3%) 78 (85,7%) 91 (100%)
Nội soi 13 (14%) 80 (86%) 93 (100%)
Tổng cộng 26 (14,1%) 158 (85,9%) 184 (100%)
Đối chiếu những trường hợp đau mạn tính với tường
trình phẫu thuật
- Nhóm Lichtenstein: 5/13 ca (38,5%) đau
mạn tính sau mổ ghi nhận có hiện tượng dính
nhiều của túi thoát vị vào cấu trúc xung quanh,
trong đó có 1 ca sau mổ bị teo tinh hoàn. Chúng
tôi ghi nhận có mối tương quan giữa đau mạn
tính với yếu tố dính nhiều của túi thoát vị vào
cấu trúc xung quanh (p< 0,001).
- Nhóm nội soi: 6/13 ca đau có cố định mảnh
ghép, 1 ca chảy máu trong lúc mổ, và 5/13 ca đặt
trocar không trên đường giữa. Chúng tôi ghi
nhận mổ nội soi có cố định mảnh ghép sẽ gây
đau nhiều hơn (p < 0,001).
- Xét mối liên hệ giữa đau mạn tính sau mổ
và cách đặt trocar (có 2 kiểu đặt trocar; kiểu 1 là
3 trocar trên đường trắng dưới rốn, cách 2 là 3
trocar tạo thành tam giác mà 1 đỉnh hướng về hố
chậu phải hay trái tùy vào bên thoát vị): không
có mối liên hệ giữa đau vùng bẹn và cách đặt
trocar (p > 0,14).
Liên hê giữa đau mạn tính và loại mảnh ghép.
Chúng tôi chia 3 nhóm; nhóm mảnh ghép
nhẹ và trung bình (Optilen, Vypro), nhóm mảnh
ghép nặng (Prolen, Premilen) và nhóm không rõ
loại mảnh ghép dùng. Chúng tôi ghi nhận
không có mối tương quan giữa đau và loại
mảnh ghép (p > 0,37).
Bảng 6: Mối liên quan giữa đau sau mổ và loại mảnh
ghép.
Đau sau mổ Đau
TLMG Có không
Tổng cộng
Nhẹ và TB 3 (8,3%) 33 (91,7%) 36 (100%)
Nặng 22 (16,3%) 113 (83,7%) 135 (100%)
Không rõ 1 (7,7%) 12 (92,3%) 13 (100%)
Tổng cộng 26 (14,1%) 158 (85,9%) (100%)
Mức độ đau
Chúng tôi ghi nhận chủ yếu là đau nhẹ (1-
6,5 điểm). Có 1 bệnh nhân đau vừa (6,5 điểm) ở
nhóm mổ nội soi, tất cả các bệnh nhân đều
không cần dùng thuốc giảm đau. So sánh mức
độ đau 2 nhóm cho thấy không có ý nghĩa thống
kê p =0,65.
Vị trí đau mạn tính sau mổ
So sánh vị trí đau giữa 2 nhóm cho thấy
không khác biệt (p = 0,31).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 119
Biểu đồ1: Phân bố vị trí đau mạn tính sau mổ.
Bảng 7: Phân bố vị trí đau mạn tính sau mổ.
Vị trí đau mạn tính sau mổ Vị trí đau
PP mổ Không
TK
chậu
hạ vị
TKSDĐ
(Sinh
dục)
TKSDĐ
(đùi)
Lỗ
trocar
Tổng
cộng
Lichtestein 78 (85,7%)
11
(12,1%)
1
(1,1%)
1
(1,1%) 0
91
(100%)
Nội soi 80 (86%)
8
(8,6%)
2
(2,2%) 0
3
(3,2%)
93
(100%)
Tổng cộng 158 (85,9%)
19
(10,3%)
3
(1,6%)
1
(0,5%)
3
(1,6%)
184
(100%)
Dị cảm mạn tính sau mổ
Bệnh nhân được coi là có dị cảm khi bị tê-
rát, mất cảm giác, khó chịu vùng mổ, thốn. Nếu
bệnh nhân vừa đau vừa dị cảm thì chúng tôi xếp
vào nhóm bệnh nhân có biểu hiện đau và không
tính vào nhóm bị dị cảm nữa.
Tỷ lệ dị cảm mạn tính sau mổ
Nhóm Lichtenstein bị dị cảm nhiều hơn so
với nhóm nội soi (25,3% so với 5,4%) (p< 0,001).
Có 7/23 ca (30,4%) ở nhóm Lichtenstein và 2/5 ca
(40%) ca ở nhóm nội soi không đi khám.
Bảng 8. Phân bố tỷ lệ dị cảm mạn tính sau mổ.
Dị cảm Dị cảm
PP mổ Có Không Tổng cộng
Lichtenstein 23 (25,3%) 68 (74,7%) 91 (100%)
Nội soi 5 (5,4%) 88 (94,6%) 93 (100%)
Tổng cộng 28 (15,2%) 156 (84,8%) 184 (100%)
Đối chiếu trường hợp dị cảm với tường trình phẫu
thuật
-Nhóm Lichtenstein: Có 3/ 23 ca dị cảm
(13%) có ghi nhận dính túi thoát vị vào cấu trúc
xung quanh, không ghi nhận mối liên hệ (p >
0,26).
-Nhóm mổ nội soi: Trong 5 ca dị cảm sau mổ
nội soi thì có 4/5 ca đặt trocar không theo đường
giữa (cách 2). Có mối liên hệ giữa dị cảm và cách
đặt trocar (p < 0,002).
Mối liên hệ giữa dị cảm và loại mảnh ghép
Chúng tôi không ghi nhận mối quan hệ giữa
dị cảm với loại mảnh ghép (p > 0,97).
Bảng 9: Mối liên hệ giữa dị cảm mạn tính với loại
mảnh ghép.
Dị cảm Dị cảm
Mảnh ghép Có Không Tổng cộng
Nhẹ và TB 5 (13,9%) 31 (86,1%) 36 (100%)
Nặng 21 (15,6%) 114 (84,4%) 135 (100%)
Không rõ 2 (15,4%) 11 (84,6%) 13 (100%)
Tổng cộng 28 (15,2%) 156 (84,8%) 184 (100%)
Vị trí dị cảm mạn tính
Vị trí dị cảm nhiều nhất là vùng chi phối của
thần kinh chậu hạ vị. So sánh vị trí dị cảm giữa 2
nhóm cho thấy có sự khác biệt (p < 0,01). Trong
nhóm nội soi, khi xét mối liên hệ giữa vị trí dị
cảm và cách đặt trocar cũng cho thấy có sự khác
biệt (p < 0,002).
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Ngoại Khoa 120
Biểu đồ 2: Phân phối vị trí dị cảm mạn tính sau mổ.
Các yếu tố khác
Tái phát sau mổ
Nhóm Lichtenstein không bị tái phát (0%),
nhóm nội soi có 2 ca tái phát (2,2%). So sánh
giữa 2 nhóm thấy không có sự khác biệt (p >
0,16).
Các biến chứng khác
Nhóm Lichtenstein: có 1 ca bị teo tinh hòan
sau mổ.
Nhóm nội soi: có 1 ca bị lọt lưới vào bụng
(phải mổ lại để lấy ra), 2 ca bị tràn dịch tinh mạc
sau mổ trên 6 tháng. Không có khác biệt khi so
sánh giữa 2 nhóm.
BÀN LUẬN
Đau mạn tính vùng bẹn sau mổ
Đau là một cảm giác hoàn toàn chủ quan,
vì vậy việc đánh giá mức độ đau dù theo cách
thức nào cũng vẫn ít nhiều mang tính chủ
quan(8). Do đó, người ta dùng nhiều thước đo
khác nhau, hỗ trợ lẫn nhau để đánh giá mức
độ đau chính xác hơn.
Đánh giá đau qua lời mô tả của bệnh nhân
thì có thể bị sai lạc và giảm chính xác do tình
trạng bất đồng ngôn ngữ giữa các địa phương
khác nhau, giữa các trình độ văn hoá khác nhau,
nhưng lại đơn giản và dễ ứng dụng mà không
cần huấn luyện trước cho bệnh nhân.
Thang điểm số đòi hỏi người đánh giá phải
có trình độ học vấn nhất định và phải quen với
thang điểm 10. Bất lợi của thang điểm này là dễ
gây thành kiến bởi những con số và cần phải
được tập huấn trước.
Bảng 10: 3 thang điểm cơ bản dùng đo lường cảm
giác đau(8)
Thang điểm nhìn thì tránh được nhược điểm
trên nhưng rất trừu tượng, đòi hỏi người bệnh
phải có học vấn tương đối cao và cũng phải
được tập huấn trước. Đây là thang điểm mà các
nghiên cứu về đau và về hiệu quả của thuốc
giảm đau hiện nay thường dùng. Cũng như
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 121
Bright E(1), EKlund A(2), chúng tôi cũng dùng
thang điểm VAS đánh giá đau mạn tính sau mổ
thoát vị bẹn. Ngoài ra, chúng tôi còn đánh giá
mức độ đau qua thang điểm số và thang trả lời
để so sánh với thang điểm VAS nhằm tăng độ
tin cậy.
Việc đánh giá đau trở thành mạn tính
thường khó khăn. Các tác giả đồng ý rằng đau
được xem là mạn tính khi, đau kéo dài hơn thời
gian lành vết thương, thường được chấp nhận là
thời gian đau từ 3–6 tháng(4,15). Tuy nhiên quy
ước này không đồng bộ, một vài tác giả chấp
nhận đau mạn tính khi đau kéo dài hơn 1 năm.
Theo một nghiên cứu đa trung tâm ở Ý trên 955
bệnh nhân chọn thời điểm 6 tháng làm mốc
đánh giá đau mạn tính(15). Nghiên cứu chúng tôi
cũng chọn đau mạn tính khi đau kéo dài ≥ 6
tháng vì vào thời điểm này quá trình viêm và
sắp xếp lại tổ chức sau mổ đã hoàn thành.
Tỷ lệ đau mạn tính sau mổ
Nhìn chung, khi so sánh giữa kỹ thuật
Lichtenstein và nội soi, phần lớn tác giả đồng ý
rằng, mổ theo kỹ thuật Lichtenstein bị đau
nhiều hơn.
Sanna T. H, Kouhi(11) theo dõi trên 99 ca của
2 nhóm mổ theo phương pháp Lichtensten và
TEP. Ông nhận thấy tỷ lệ đau mạn tính của TEP
so với Lichtenstein là 8,2% so với 27,7%. Tỷ lệ
này giảm dần theo từng năm, sau 2 năm theo
dõi chỉ còn 0% so với 14%.
Langeveld(5) (2010) theo dõi 336 ca TEP và
324 ca Lichtenstein, ghi nhận đau mạn tính 25%
ở nhóm TEP so với 29% nhóm Lichtenstein.
Bright E(1) (2010) so sánh 6497 ca mổ mở và
2116 ca mổ nội soi. Tỷ lệ đau mạn tính sau mổ là
0,71% ở nhóm mổ mở và 4,18% ở nhóm mổ nội
soi. Ông đi tới kết luận là mổ nội soi đau mạn
tính nhiều hơn mổ mở.
EKlund A(2) (2010), so sánh tỷ lệ đau mạn
tính của 705 ca Lichtenstein và 665 ca TEP sau 5
năm, nhận thấy đau mạn tính sau mổ
Lichtenstein cao hơn TEP và giảm dần theo thời
gian: 21,7% và 11,0% tại thời điểm 1 năm; 24,8%
và 11% tại thời điểm 2 năm; 20,2 và 9,9% ở thời
điểm 3 năm; 18,8% và 9,4% ở thời điểm 5 năm.
Kumar(4) theo dõi 560 ca Lichtenstein và TEP
thấy đau ở nhóm Lichtenstein (38%) nhiều hơn
nhóm TEP (22,5%).
Chúng tôi nhận thấy, tỷ lệ đau sau mổ của
nhóm Lichtenstein và nội soi tương tự nhau (#
14%), và trong đó có 2,2% bệnh nhân ở nhóm
Lichtenstein và 4,3% bệnh nhân nội soi có biểu
hiện đau vừa, không có trường hợp nào biểu
hiện đau nhiều. Kết quả này phù hợp với
Langeveld, có phần không phù hợp với các
nghiên cứu của Sanna, Eklund. Qua đó cho thấy
đau mạn tính sau mổ thoát vị bẹn không có tỷ lệ
hằng định mà nó dao động với biên độ cao. Các
báo cáo tổng quan cho thấy tỷ lệ này dao động
từ 0% - 30%(1,2,5,4,5,12,15), tỷ lệ 13% của chúng tôi
nằm trong khoảng này. Mặc khác, chúng tôi chỉ
đánh giá đau mạn tính của bệnh nhân sau mổ ở
1 thời điểm trung bình là 17,6 tháng, mà không
có điều kiện đánh giá ở những thời điểm khác
nhau. Do đó, trong