Hơn hai thập kỷ vừa qua là thời đại của rất nhiều doanh nghiệp khởi nghiệp
sáng tạo, các công ty công nghệ tăng trưởng nhanh (hay còn gọi là Startup) bùng
nổ trên toàn cầu. Thời báo Kinh tế - The Economist (Hoa Kỳ) đã so sánh sự bùng
nổ của Startup với sự bùng nổ kỷ Cambrian Explosion trong lịch sử sinh học của
trái đất. Các startup đã thâm nhập vào hầu hết các lĩnh vực của xã hội, vì thế các
công ty thuộc kỷ nguyên công nghiệp đều giảm dần hoặc buộc phải chuyển đổi
mô hình kinh doanh cho phù hợp với thời đại thông tin đang nổi lên.
14 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 488 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đầu tư startup - Cơ hội và thách thức, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ỦY BAN NHÂN DÂN TP. HCM BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
55
ĐẦU TƯ STARTUP - CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC
Vietnam Silicon Valley
I. BỐI CẢNH RA ĐỜI ĐỀ ÁN Vietnam Silicon Valley (VSV)
Hơn hai thập kỷ vừa qua là thời đại của rất nhiều doanh nghiệp khởi nghiệp
sáng tạo, các công ty công nghệ tăng trưởng nhanh (hay còn gọi là Startup) bùng
nổ trên toàn cầu. Thời báo Kinh tế - The Economist (Hoa Kỳ) đã so sánh sự bùng
nổ của Startup với sự bùng nổ kỷ Cambrian Explosion trong lịch sử sinh học của
trái đất. Các startup đã thâm nhập vào hầu hết các lĩnh vực của xã hội, vì thế các
công ty thuộc kỷ nguyên công nghiệp đều giảm dần hoặc buộc phải chuyển đổi
mô hình kinh doanh cho phù hợp với thời đại thông tin đang nổi lên.
Chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy sự thay thế ngoạn mục của một số công
ty thời đại thông tin trong việc nâng cấp hoặc thay thế sản phẩm đã có của thời
đại công nghiệp như:
Kodak >< Amazon (Sách), Tower
Records >< Airbnb (Du
lịch), Taxis >< Uber/ Lyft (Vận chuyển - Giao thông vận tải), Hồ sơ nhân sự &
Tuyển dụng >< Truyền thông xã hội
(Thông tin tiêu dùng), Cửa hàng bán lẻ >< Thương mại điện tử (Mua sắm).
Và Silicon Valley được thế giới coi là thánh địa công nghệ toàn cầu với số
lượng Startup từ 14.000 đến 19.000 và từ 1,7 đến 2,2 triệu nhân viên công nghệ
cao. Đây là ngôi nhà của những câu chuyện thành công như: Apple, Google,
Facebook, và vô số những Startup thành công khác. Chỉ với 3 Startup đã tạo ra
1.500 tỷ đô la giá trị vốn hoá thị trường và sử dụng hơn 165.000 lao động. Tác
động của Thung lũng Silicon tới thế giới và chính nước Mỹ là không thể phủ nhận,
trong Báo cáo Dự án đổi mới sáng tạo và Năng lực cạnh tranh chỉ ra rằng mỗi
công nghệ cao trong Hệ sinh thái ở Thung lũng Silicon giúp tạo ra khoảng 5 triệu
việc làm. Trong một số nghiên cứu khác về sự ảnh hưởng của những Startup này,
Facebook đã công bố tạo ra 4 triệu việc làm trên toàn cầu, bao gồm nhân viên phát
triển ứng dụng và nhân viên tiếp thị Facebook. Cứ như vậy, Thung lũng Silicon
đã truyền cảm hứng khởi nghiệp cho toàn thế giới. Ở Châu Á, nhiều quốc gia đã
xác định việc phát triển khoa học là yếu tố then chốt để xây dựng nền kinh tế vững
mạnh. Singapore – Thung lũng Silicon của Châu Á hay Israel – Cường quốc khởi
nghiệp là những minh chứng sống động cho sức mạnh khoa học công nghệ có ảnh
hưởng to lớn như thế nào đối với nền kinh tế.
Tuy nhiên, để có được những thành công như vậy, phải kể đến sự góp mặt
không thể thiếu của các Quỹ đầu tư mạo hiểm và các nhà đầu tư Thiên thần. Đây
ỦY BAN NHÂN DÂN TP. HCM BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
56
có thể nói là mạch máu xuyên suốt nuôi dưỡng quá trình phát triển của Startup.
Theo thống kê của NVCA (National Venture Capital Associates), mỗi năm nước
Mỹ thu hút từ 50 đến 60 tỷ đô la đầu tư mạo hiểm và Siliocon Valley chiếm
khoảng một nửa số này. Với nguồn vốn đầu tư này ước tính xấp xỉ 0,23% GDP
nhưng tạo ra 21% GDP và 11% việc làm mỗi năm cho nước Mỹ. Một tỉ lệ ngoạn
mục cho thấy tác động của nguồn vốn này đến sự phát triển của nền kinh tế Mỹ
và là sự ao ước của nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam.
Bên cạnh việc phát hiện cơ hội phát triển toàn cầu còn một nguyên nhân rất
quan trọng nữa là vào thời điểm 2013, Việt Nam vẫn đang chịu ảnh hưởng của
cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới.. Số lượng doanh nghiệp ngưng hoạt động,
phá sản, giải thể có xu hướng tăng mạnh. Cụ thể theo Tổng cục thống kê trong
năm 2013, Việt Nam có khoảng 60.737 doanh nghiệp ngừng hoạt động, tăng
11,9% so với 2012, trong đó có 9.818 doanh nghiệp chính thức giải thể hẳn. Điều
này đồng thời tác động tiêu cực tới Hệ thống ngân hàng thương mại. Nợ xấu tăng
nhanh, đặc biệt các khoản tín dụng về bất động sản dẫn tới nguồn vốn tín dụng bị
tắc nghẽn. Đồng thời, các điều khoản cho vay được các ngân hàng kiểm soát chặt
chẽ hơn khiến khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp gặp nhiều trở ngại, dù lãi
suất ngân hàng đã có xu hướng giảm, tăng trưởng tín dụng chỉ khoảng 11% so với
mục tiêu 12%. Tỷ giá dù được duy trì tương đối ổn định, thậm chí có phá giá danh
nghĩa, nhưng thực ra đồng Việt Nam vẫn lên giá so với đồng đô la đã làm suy
giảm đáng kể năng lực cạnh tranh của nền kinh tế cũng như của hàng hóa Việt
Nam trên các thị trường quốc tế, thậm chí ngay chính ở thị trường trong nước.
Trong bối cảnh đó, một nhu cầu được đặt ra là cần phải có những chiến lược
mới nhằm tái cơ cấu nền kinh tế, xác định lại trọng tâm phát triển dài hạn từ tạo
điều kiện để doanh nghiệp phát triển và thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Một
điều dễ nhận thấy là hơn đại đa số doanh nghiệp đang kinh doanh tại Việt Nam là
doanh nghiệp SME, mỗi năm tạo thêm trên 500 nghìn việc làm, sử dụng 51% lực
lượng lao động xã hội và đóng góp hơn 40% GDP. Tuy nhiên, đa số các SME
Việt Nam chưa tham gia vào được chuỗi giá trị sản xuất toàn cầu, trình độ khoa
học và năng lực đổi mới sáng tạo còn thấp. Số lượng các doanh nghiệp hoạt động
trong lĩnh vực khoa học công nghệ còn hạn chế. Số lượng nhà khoa học, chuyên
gia làm việc trong các doanh nghiệp chỉ chiếm 0,025% trong tổng số lao động làm
việc trong khu vực doanh nghiệp. Do đó các doanh nghiệp Việt Nam thường
không tạo được sản phẩm có giá trị thặng dư cao, thiếu tính cạnh tranh trong bối
cảnh toàn cầu hóa và ít có khả năng trở thành trụ cột của nền kinh tế như Google,
Facebook của Mỹ.
Mặt khác, trong quá trình hội nhập kinh tế, trào lưu Startup cũng được đông
đảo những trí thức trẻ Việt Nam đón nhận và ngày càng lan tỏa đến mọi tầng lớp
trong xã hội. Với quy mô dân số gần 100 triệu người, trong đó hơn 50 triệu người
dùng internet, một thị trường rộng lớn với nhu cầu rất cao. Nhận thấy đây là
một trong những dấu hiệu rất tiềm năng bùng nổ startup tại Việt Nam, và như vậy
thì có thể coi đây là nguồn tài nguyên vô giá để thu hút nguồn vốn đầu tư mạo
hiểm trong khu vực và trên thế giới. Do đó, nhóm Đề án đã đề xuất với Bộ trưởng
ỦY BAN NHÂN DÂN TP. HCM BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
57
Bộ KH&CN vào tháng 7/2012 để thí điểm mô hình đầu tư mạo hiểm giai đoạn rất
sớm đối với các nhóm Startup công nghệ. Mục tiêu của Đề án là thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế bền vững thông qua việc xây dựng và hoàn thiện Hệ sinh thái khởi
nghiệp đổi mới sáng tạo tại Việt Nam. Nghĩa là tạo môi trường thuận lợi cho thế
hệ doanh nghiệp mới, giàu sức sáng tạo, có khả năng nhân rộng mô hình kinh
doanh để thu hút nguồn vốn đầu tư mạo hiểm tư nhân.
Đề án Thương mại hóa công nghệ theo mô hình Thung lũng Silicon tại Việt
Nam – Vietnam Silicon Valley (gọi tắt là VSV) được Bộ Khoa học và Công nghệ
chính thức phê duyệt và triển khai từ ngày 04/06/2013 theo Quyết định số
1383/QĐ-BKHCN.
Nhìn lại 5 năm về trước cho thấy Đề án không chỉ thể hiện quyết tâm đưa
các kết quả nghiên cứu áp dụng vào thực tiễn kinh doanh, sản xuất mà hơn hết,
thể hiện tầm nhìn chiến lược của Lãnh đạo Bộ KH&CN về tiềm năng to lớn mà
một hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo có thể tạo ra đối với an sinh xã hội
và tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam. Với 5 năm triển khai Đề án VSV, nhóm
thực hiện đã từng bước đạt được kết quả khả thi và hy vọng đã và đang đóng góp
một phần thúc đẩy Việt Nam đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế kỳ vọng, và trong
tương lai không xa trở thành một trung tâm công nghệ của khu vực và trên thế
giới.
II. HỆ SINH THÁI KHỞI NGHIỆP SÁNG TẠO
Hệ sinh thái được hiểu là những tác nhân trong một môi trường cụ thể có
quan hệ một cách hữu cơ với nhau nhằm giúp nhau cùng phát triển, hay nói cách
khác sự phát triển của tác nhân này sẽ thúc đẩy sự phát triển của các tác nhân khác
để cộng đồng ngày một phát triển rộng rãi và bền vững hơn.
Vậy hệ sinh thái dành cho Startup sẽ bao gồm các tác nhân chính nào? Nếu
chia theo chức năng nhiệm vụ thì:
Chức năng Khởi nghiệp: startup, cộng đồng khởi nghiệp,
Chức năng Hỗ trợ: Chính phủ, trường đại học, viện nghiên cứu, phòng thí
nghiệm, các doanh nghiệp lớn, các chuyên gia và cố vấn
Chức năng Đầu tư: nhà đầu tư Thiên thần, Các tổ chức thúc đẩy kinh doanh
Accelerator, các Quỹ đầu tư mạo hiểm và các tổ chức khác
ỦY BAN NHÂN DÂN TP. HCM BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
58
Mô hình Hệ sinh thái Startup
Trong khuôn khổ bài tham luận này, chúng tôi muốn tập trung vào chức
năng Đầu tư; Mặc dù, có thể nói nếu thiếu một trong các chức năng trên thì cũng
không thể có hệ sinh thái khởi nghiệp, nhưng quan trọng hơn cả nếu thiếu đầu tư,
đặc biệt là đầu tư mạo hiểm giai đoạn đầu thì cũng không thể có Startup hay các
doanh nghiệp KH&CN phát triển.
Nói đến đầu tư trong hệ sinh thái khởi nghiệp là nói đến mối quan hệ giữa:
Startup: Doanh nghiệp sáng tạo, có khả năng tăng trưởng đột biến.
Accelerator: Tổ chức thúc đẩy kết hợp đầu tư vốn gieo mầm; Và
Đầu tư mạo hiểm: Nhà đầu tư Thiên thần và Quỹ đầu tư mạo hiểm
Thông qua việc thực hiện Đề án VSV trong 05 năm (2013 – 2017), cả 3 cấu
phần này đã có những bước phát triển nhất định góp phần tạo ra một hệ sinh thái
khởi nghiệp sáng tạo sôi động tại Việt Nam.
Startup trở thành làn sóng phát triển mạnh mẽ, theo số liệu thống kê không
chính thức, Việt Nam hiện có khoảng 15,000 startup đang hoạt động tập trung chủ
yếu tại 2 trung tâm kinh tế lớn là Hà Nội và Tp Hồ Chí Minh. Nhiều startup Việt
đã gây tiếng vang lớn trên thị trường quốc tế như mWork, Cốc Cốc, Prime Circa,
Appota, Divmob, Colorbox, DesignBold Nhiều startup đã chiến thắng các cuộc
thi khởi nghiệp quốc tế và tham gia tranh tài với các doanh nghiệp khác trên toàn
thế giới như Hachi, hiSella, Younet, Umbala, Triip.me, Tiềm năng của startup
được khẳng định rõ nét qua các thương vụ đầu tư hàng triệu đô la Mỹ vào Lozi,
Momo, OnOnPay
ỦY BAN NHÂN DÂN TP. HCM BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
59
Đầu tư mạo hiểm: Thị trường đầu tư mạo hiểm Việt Nam hiện tại không chỉ
là mảnh đất của các quỹ nước ngoài như IDG Ventures Vietnam, Cyber Agent,
Mekong Capital, DFJ Vina Capital mà còn có sự tham gia tích cực của các quỹ
nội địa như SeedCom, FPT Ventures, CMC Innovation Fund
Mô hình Tổ chức Thúc đẩy kinh doanh đã được chứng minh tính khả thi
và mức độ hiệu quả thông qua quá trình tiên phong thử nghiệm của Vietnam
Silcon Valley Accelerator. Kéo theo đó là sự ra đời của Hatch Ventures, Viettel
Accelerator, Microsoft Class Expara, VIISA Các Tổ chức Thúc đẩy kinh doanh
quốc tế như Lotte Accelerator, Hebronstar cũng đã chính thức tham gia thị trường
Việt Nam. Không những thế, các vườn ươm doanh nghiệp thuộc nhà nước cũng
đang trong quá trình nghiên cứu để chuyển dịch mô hình sang thành Tổ chức Thúc
đẩy doanh nghiệp.
Để dễ dàng tìm hiểu kỹ hơn về 3 cấu phần quan trọng này, chúng tôi sẽ cố
gắng phân tích và lý giải chi tiết với mong muốn hỗ trợ thiết thực hơn cho việc
phát triển hệ sinh thái Startup Việt Nam.
1. Startup hay sự giống và khác nhau giữa Startup và SME
Startup tận dụng công nghệ để tạo lợi thế cạnh tranh, theo định nghĩa Startup
là một tập hợp của các nguồn lực tạm thời (nhân lực, tiền, thời gian...) để đi tìm
kiếm một mô hình kinh doanh mới và nhanh chóng xây dựng thành một tổ
chức/doanh nghiệp đạt quy mô, đồng thời có khả năng lặp lại hay nhân rộng tại
các thị trường khác nhau; (Temporary Organization – Searching Business Model
to be Profitable, Repeatable & Scalable)
Định nghĩa này đã bao hàm việc Startup có thể chưa phải là một doanh
nghiệp và việc đi tìm kiếm mô hình kinh doanh MỚI đồng nghĩa với việc mỗi
Startup thường không có tiền lệ. Thực tế cho thấy những Startup thành công nhất
sẽ không có tấm gương nào để so sánh, đánh giá hay để ước lượng được khả năng
thành công.
Startup công nghệ mang tính toàn cầu, không lệ thuộc lợi thế địa lý hay khu
vực nên thị trường và khách hàng là một tập hợp lớn không giới hạn. Startup dễ
dàng chấp nhận pha loãng cổ phần để gây vốn với mục tiêu nhanh chóng nhân
rộng mô hình kinh doanh... do đó Startup có nhiều ưu điểm như:
Mở ra nhiều cơ hội việc làm cho những người có tri thức cao
Tạo nhiều lựa chọn khác nhau cho giới trẻ sau khi tốt nghiệp đại học
Sử dụng lao động địa phương để phục vụ cho khách hàng toàn cầu do khả
năng nhân rộng của mô hình kinh doanh.
Ví dụ: Một cửa hàng cafe hay Một cửa hàng quần áo sẽ khó có thể tạo được
công ăn việc làm cho 60 nghìn người có tri thức cao vì các mô hình kinh doanh
này không đạt được quy mô cần thiết đến số lượng lao động có trình độ cao như
vậy. Nhưng Một Startup công nghệ như Google phát triển từ 20 người năm 2000
đến năm 2016 đạt quy mô 60 nghìn người đa số là kỹ sư các ngành công nghệ tiên
tiến.
ỦY BAN NHÂN DÂN TP. HCM BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
60
Trong một so sánh khác: Tổng GDP của Việt Nam năm 2015 đạt 4.193 nghìn
tỷ đồng, Doanh thu của Google năm 2015 đạt 1.681 nghìn tỷ đồng tương đương
40% GDP cả Việt Nam.
Nhìn bên ngoài, có vẻ như Startup và SME không có gì khác nhau về cả quy
mô lẫn hoạt động, nhưng hãy xét về bản chất sẽ thấy Startup mới chỉ bắt đầu có ý
tưởng và/hoặc thử nghiệm công nghệ chứ chưa đưa ra được mô hình kinh doanh,
chưa xác định được đối tượng khách hàng, chưa xác định được thị trường nên tỉ
lệ thành công rất thấp (chỉ 10%). Nhưng nếu mô hình kinh doanh được minh
chứng là khả thi và tiềm năng thì họ sẽ nhận được vốn đầu tư và có cơ hội bứt phá
nhanh chóng hơn SME gấp nhiều lần.
SME truyền thống thường bắt đầu là một công ty gia đình sở hữu từ 70% đến
100%, không muốn mất cổ phần và quyền kiểm soát, mang tính cục bộ, địa
phương và gắn liền với lợi thế về địa lý nên thị trường và khách hàng đã được xác
định và hữu hạn. Do vậy khó nhân rộng (scaleable) nên SME muốn phát triển phải
dựa vào vốn vay chứ không thu hút được đầu tư, đặc biệt là đầu tư mạo hiểm.
2. Đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam.
a. Hiện trạng:
Thị trường Việt Nam đã ghi nhận sự tham gia của một số quỹ đầu tư vào các
startup như: Cyber Agent (Nhật Bản), Golden Gate Venture (Singapore), IDG,
500 startup (Mỹ)... Nguồn vốn đầu tư cho startup của các Quỹ kể trên là tương
đối lớn nhưng startup Việt Nam lại không đủ khả năng đáp ứng được các tiêu chí
lựa chọn đầu tư của các quỹ này.
Nhìn lại thị trường đầu tư mạo hiểm những năm gần đây cho thấy các thương
vụ đầu tư mạo hiểm không có xu hướng tăng, thậm chí giảm nhưng số lượng vốn
đầu tư bình quân trên từng thương vụ lại gia tăng đáng kể. Các khoản từ vài trăm
nghìn cho tới hàng triệu đô la có nhiều nhưng khoản đầu tư nhỏ ban đầu (vốn gieo
mầm) thì rất ít. Đây là nguồn vốn tuy nhỏ nhưng lại rất quan trọng do mang yếu
tố “kickoff” - có tính chất khởi động, thúc đẩy ban đầu cho các startup có khả
năng hoàn thiện sản phẩm, kiểm tra phản ứng của thị trường và thử nghiệm các
chiến lược, mô hình kinh doanh khác nhau.
Nếu chúng ta đã xác định rằng Startup là công cụ để tạo bước nhảy đột phá
cho nền kinh tế cũng như có tiềm năng tạo ra siêu lợi nhuận cho nhà đầu tư. Vậy
tại sao lựa chọn đầu tư cho Startup thực sự là quyết định rất khó khăn cho nhà đầu
tư Việt Nam cũng như cho Chính phủ?
Giả sử có 1 tỷ đồng đầu tư trong 10 năm và cho 2 lựa chọn:
- Phương án A: có thể 90% thất bại chỉ 10% thành công nhưng tạo ra 200 tỷ
đồng (lợi nhuận 200 lần). (Theo thống kê của Hiệp hội đầu tư mạo hiểm Hoa Kỳ
thì đầu tư vào 10 Startup thì chỉ được 1 thành công, nhưng là một thành công đột
phá).
- Phương án B: sẽ có 90% thành công và tạo ra 2 tỷ đồng (lợi nhuận 2 lần)
chỉ có 10% thất bại
ỦY BAN NHÂN DÂN TP. HCM BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
61
Chúng ta sẽ lựa chọn phương án nào?
Đa số các nhà đầu tư sẽ lựa chọn phương án B mặc dù giá trị cơ hội của
phương án A lớn hơn phương án B.
Từ trước đến nay, nhắc đến đầu tư Việt Nam là nói đến thị trường bất động
sản, tài chính, tài nguyên. Những doanh nhân thành công từ những lĩnh vực này
thường có cái nhìn rất khác và không nắm rõ về Startup cũng như đầu tư mạo
hiểm. Vì vậy, họ sẵn sàng bỏ tiền vào lĩnh vực có thế mạnh, nơi có nhiều mối
quan hệ và hiểu rõ thị trường thay vì đầu tư vào startup.
Một so sánh khác cho thấy doanh nghiệp SME tăng vốn để mở rộng kinh
doanh hoặc sớm hơn là để bắt đầu kinh doanh, tiền đầu tư được phục vụ cho việc
mua máy móc thiết bị hoặc mua nguyên vật liệu để sản xuất ra thành phẩm đem
bán hoặc nhập luôn thành phẩm để bán lấy chênh lệch. Đặc thù của các hoạt động
này là máy móc thiết bị và các món hàng được nhập về là Tài Sản và thường có
giá trị được mua bán trên thị trường và trong trường hợp xấu nhất, SME đó có thể
bán lại các máy móc này để lấy tiền trả lại cho nhà đầu tư hoặc ngân hàng.
Đối với Startup, nhất là Startup ở giai đoạn vốn mồi, tiền đầu tư thường được
sử dụng để xây sản phẩm công nghệ. Cái khó cho nhà đầu tư trong việc cấp vốn
cho Startup nằm ở tính chất sử dụng của nguồn vốn thực chất là chi trả cho chi
phí nhân sự, marketing và bán hàng. Đây chính xác là chi phí và không có khả
năng thu hồi nếu Startup không phát triển thành công.
Tóm lại, hầu hết các kết quả khảo sát trên thị trường đều chỉ ra rằng vấn đề
lớn nhất Startup Việt Nam gặp phải là gọi vốn.
Nguyên nhân: do đây là giai đoạn rủi ro nhất trong đầu tư về khởi nghiệp,
các startup vẫn đang trong giai đoạn phát triển ý tưởng và hoàn thiện sản phẩm
mẫu, chưa thử nghiệm được trên thị trường. Startup ở giai đoạn này không có khả
năng huy động vốn ở các kênh khác do không có tài sản đảm bảo. Bên cạnh đó,
hành lang pháp lý bảo vệ nhà đầu tư mạo hiểm chưa có trong khi đầu tư mạo hiểm
rủi ro lớn sẽ dễ khiến các nhà đầu tư chùn bước trong quyết định đầu tư vào
Startup.
b. Các kênh huy động vốn truyền thống
Chúng ta có thể điểm lại một số kênh truyền thống mà các công ty có thể tận
dụng để kêu gọi vốn:
Người thân và gia đình: rất phù hợp cho các công ty Startup mới khởi đầu
nhưng không phải gia đình nào cũng có điều kiện để tự đầu tư và mô hình đầu tư
này chỉ có thể mang tính chất tự phát chứ Nhà nước không thể có phương tiện nào
để xây dựng mô hình này thành một kênh đầu tư quy mô.
Ngân hàng: khác với quỹ đầu tư mạo hiểm, đặc thù của ngân hàng là không
bao giờ được mất vốn của những người gửi tiết kiệm, do đó khi ngân hàng cấp
khoản vay, tiêu chí hàng đầu là khả năng đảm bảo thu hồi tiền thông qua thẩm
định doanh nghiệp và đánh giá các tiêu chí như doanh thu, dòng tiền, lợi nhuận
và tài sản đảm bảo... Như vậy, có thể thấy rằng Startup trong những năm đầu tiên
ỦY BAN NHÂN DÂN TP. HCM BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
62
sẽ không có cách nào để đảm bảo 2 yếu tố này. Ngoài ra, khác với quỹ đầu tư mạo
hiểm cấp vốn để đổi lại cổ phần, ngân hàng cấp vốn thông qua khoản vay có lãi
và Startup mới thành lập sẽ khó có thể đáp ứng được yêu cầu trả lãi vay và trả cả
gốc.
Quỹ đầu tư mạo hiểm: cặp bài trùng của Startup, tuy nhiên ngay cả quỹ
đầu tư mạo hiểm cũng có các quy định trong việc quản lý vốn cũng như số tiền
tối thiểu đầu tư vào mỗi công ty (thường từ 500 ngàn đô la trở lên) và các Startup
Việt Nam đa phần đều không đạt quy mô cần thiết. Ngoài ra, quỹ đầu tư mạo hiểm
đầu tư theo xu thế và theo hiệu quả khai thác thị trường của Startup. Điều này tạo
thành vòng luẩn quẩn cho Startup: không có người dùng và/hoặc không có doanh
thu dẫn đến không huy động được vốn; không huy động được vốn thì không có
vốn để kinh doanh, và không có vốn kinh doanh thì lại dẫn đến không có người
dùng/không có doanh thu....
Sàn chứng khoán: là một kênh huy động vốn lý tưởng cho các doanh
nghiệp, nhưng Startup ở giai đoạn rất sớm (very early stage) chưa chứng minh
được sự thành công thì không thể huy động từ sàn chứng khoán. Và ngược lại các
Startup đã thành công lại chưa chắc đã muốn huy động vốn từ sàn chứng khoán
với các lý do sau: Mất quyền kiểm soát của doanh nghiệp; Phải công khai kết quả
kinh doanh và bị theo dõi sát sao hơn bởi báo chí và truyền thông (cả tích cực và
tiêu cực).
Các quỹ của nhà nước, các tổ chức phi Chính phủ: Startup và doanh
nghiệp nói chung thường ít tìm đến các quỹ này vì hoạt động đầu tư củ