Ngày nay, quốc tế hoá, toàn cầu hoá đang là xu thế chung của nhân loại, không một quốc gia nào có thể thực hiện một chính sách đóng cửa mà vẫn có thể phồn vinh được. Vì vậy, bất kỳ nước nào cũng xây dùng mét nền kinh tế mở, hội nhập khu vực và thế giới, tham gia hợp tác, liên kết với nước ngoài, đẩy mạnh các hoạt động xuất nhập khẩu. Trong đó, hoạt động xuất khẩu đóng vai trò quan trọng, là phương tiện phát triển kinh tế.
Ở nước ta với đặc điểm là một nước nông nghiệp, công nghiệp nặng chưa phát triển, nguồn lao động dồi dào, trình độ lao động còn thấp. thích hợp với phát triển công nghiệp nhẹ. Vì vậy, Đảng ta chủ trương tập trung vào xuất khẩu dệt may. Đó là ngành sản xuất cổ truyền của dân téc ta. Trong suốt hàng nghìn năm tồn tại và phát triển, từ sản xuất thủ công đến một ngành công nghiệp hiện đại, ngành dệt may đã trải qua nhiều thăng trầm khác nhau, nhưng nhìn chung ngày càng phát triển. cho đến nay, ngành dệt may đã có bước phát triển vượt bậc và đang là ngành xuất khẩu quan trọng hàng đầu. Nó đã lần lượt vượt qua các mặt hàng xuất khẩu chủ lực khác vươn lên vị trí số một trong danh sách 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam( năm1998).
Ngày nay, trong bối cảnh hội nhập kinh tế thế giới và khu vực, cạnh tranh ngày càng gay gắt để xuất khẩu dệt may vẫn tăng trưởng ổn định, tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu đang là vấn đề bức xúc, được nhà nước quan tâm. Và đó còng chính là lý do em chọn đề tài : “Đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may trong xu thế hội nhập kinh tế ”
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy Nguyễn Đình Trung, người đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo, giúp đỡ em trong suốt thời gian thực hiện đề án này. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian có hạn, cùng với hiểu biết của em còn hạn chế. Cho nên, em không thể tránh khỏi những thiếu sót trong bài viết của mình. Em rất mong các thầy cô trong khoa tận tình giúp đỡ cho em để hoàn thành tốt đề án này.
27 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1348 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may trong xu thế hội nhập kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Ngày nay, quốc tế hoá, toàn cầu hoá đang là xu thế chung của nhân loại, không một quốc gia nào có thể thực hiện một chính sách đóng cửa mà vẫn có thể phồn vinh được. Vì vậy, bất kỳ nước nào cũng xây dùng mét nền kinh tế mở, hội nhập khu vực và thế giới, tham gia hợp tác, liên kết với nước ngoài, đẩy mạnh các hoạt động xuất nhập khẩu. Trong đó, hoạt động xuất khẩu đóng vai trò quan trọng, là phương tiện phát triển kinh tế.
Ở nước ta với đặc điểm là một nước nông nghiệp, công nghiệp nặng chưa phát triển, nguồn lao động dồi dào, trình độ lao động còn thấp... thích hợp với phát triển công nghiệp nhẹ. Vì vậy, Đảng ta chủ trương tập trung vào xuất khẩu dệt may. Đó là ngành sản xuất cổ truyền của dân téc ta. Trong suốt hàng nghìn năm tồn tại và phát triển, từ sản xuất thủ công đến một ngành công nghiệp hiện đại, ngành dệt may đã trải qua nhiều thăng trầm khác nhau, nhưng nhìn chung ngày càng phát triển. cho đến nay, ngành dệt may đã có bước phát triển vượt bậc và đang là ngành xuất khẩu quan trọng hàng đầu. Nó đã lần lượt vượt qua các mặt hàng xuất khẩu chủ lực khác vươn lên vị trí số một trong danh sách 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam( năm1998).
Ngày nay, trong bối cảnh hội nhập kinh tế thế giới và khu vực, cạnh tranh ngày càng gay gắt để xuất khẩu dệt may vẫn tăng trưởng ổn định, tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu đang là vấn đề bức xúc, được nhà nước quan tâm. Và đó còng chính là lý do em chọn đề tài : “Đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may trong xu thế hội nhập kinh tế ”
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy Nguyễn Đình Trung, người đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo, giúp đỡ em trong suốt thời gian thực hiện đề án này. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian có hạn, cùng với hiểu biết của em còn hạn chế. Cho nên, em không thể tránh khỏi những thiếu sót trong bài viết của mình. Em rất mong các thầy cô trong khoa tận tình giúp đỡ cho em để hoàn thành tốt đề án này.
Em xin chân thành cảm ơn.
CHƯƠNGI:CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Xuất khẩu và tầm quan trọng của xuất khẩu:
1.1 Thực chất xuất khẩu:
Xuất khẩu thực chất là việc bán hàng hoá với nước ngoàI nhằm phát triển sản xuất, kinh doanh và đời sống.
Vì vậy, nó có những nét riêng, phức tạp hơn trong nước như giao dịch với người có quốc tịch khác nhau, thị trường rộng lớn khó kiểm soát, mua bán qua trung gian chiếm tỷ trọng lớn, đồng tiền thanh toán bằng ngoại tệ mạnh, hàng hoá vận chuyển qua biên giới, của khẩu các quốc gia khác nhau phảI tuân theo các tập quán quốc tế cũng như địa phương.
1.2 Tầm quan trọng của xuất khẩu:
Đó là:
Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu.
Xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang nền kinh tế hướng ngoại .
Xuất khẩu tạo thêm công ăn việc làm và cải thiện đời sống của nhân dân.
Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta.
Xuất khẩu đóng vai trò quan trọng, nó tạo điều kiện , thóc đẩy kinh tế phát triển. Vì vậy chúng ta phảI đẩy mạnh xuất khẩu.
2. Những qui định hoặc ưu đãI của nhà nước đối với xuất khẩu dệt may Việt Nam:
2.1 Về đầu tư:
Luật đầu tư nước ngoàI sửa đổi và luật khuyến khích đầu tư trong nước ban hành đã mở rộng và tạo điều kiện thuận lợi cho mọi thành phần kinh tế đầu tư sản xuất kinh doanh, đẩy nhanh tốc độ phát triển và tăng sức cạnh tranh cho nền kinh tế Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp dệt may nói riêng. Đặc biệt trong vấn đề thu hót vốn đầu tư nước ngoàI với những chính sách cởi mở, cùng với những thủ tục xin cấp giấy phép đầu tư được cảI tiến, ngành dệt may thu hót số lượng lớn các dự án đầu tư nước ngoàI từ đó tạo cho ngành dệt may một lực lượng sản xuất hùng hậu, sử dụng công nghệ khá tiên tiến, góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng của ngành.
2.2 Về thương mại- xuất khẩu :
Quỹ hỗ trợ xuất khẩu được thành lập theo quyết định 195/1999/QĐ-TTg, do thủ tướng ký ngày 27/9/1999 nhằm tâp trung tàI chính, hỗ trợ khuyến khích doanh ngiệp đẩy mạnh sản xuất và mở rộng thị trường xuất khẩu. Đên tháng6/2001, Bộ thương mại đã thống nhất với Bộ tàI chính điều chỉnh, bổ sung vào văn bản hướng dẫn sử dụng Quĩ hỗ trợ xuất khẩu mục qui chế chi hoa hồng trong môI giới thương mại. Quyết định này theo đánh giá chung của các chuyên gia trong ngành và các doanh nghiệp đã tăng thêm quyền tự chủ và trách nhiệm của doanh nghiệp nhà nước trong việc quyết định các hình thức, mức chi và hạch toán các khoản chi hoa hồng phù hợp với đặc điểm của từng đối tác giao dich và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Quyết định 46/2001/QĐ- TTg, ngày 4/4/2001, ban hành cơ chế quản lí xuất nhập khẩu hàng hoá trong 5 năm. Quyết định này tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có thể chủ động bố trí kế hoạch sản xuất và kinh doanh trong thời gian dàI, tạo hành lang thông thoáng, tháo gỡ vướng mắc lâu nay mà doanh nghiệp vẫn thường gặp bởi cơ chế ” xin- cho”. Đồng thời thực hiện quyết định 133/ 2001/QĐ-TTg ngày 10/9/2001 của thủ tướng chính phủ, bộ tàI chính đã ban hành qui chế hoạt động của quĩ tín dụng hỗ trợ xuất khẩu, để làm căn cứ cho vay và bảo lãnh tín dông.
2.3 Về chính sách thuế xuất nhập khẩu:
Áp dụng mức thuế suất 0% đối với sản phẩm dệt may xuất khẩu. Thuế giá trị gia tăng cũng áp dụng thuế suất 0%. Đối với vật tư, nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu trong thời hạn 275 ngày không phảI nép thuế nhập khẩu, nếu ngoàI thời hạn trên doanh nghiệp phảI nép thuế nhập khẩu nhưng sẽ được hoàn trả lại khi sản phẩm dược xuât khẩu. Miễn thuế với vật tư nguyên liệu nhập khẩu để gia công cho hàng nước ngoài. Không áp dụng giá tính thuế tối thiểu để xác định giá tính thuế nhập khẩu đối với vật tư, nguyên liệu sản xuất hàng dệt may. Thuế suất đối với nhập khẩu máy móc thiết bị phục vụ ngành dệt may hầu hết là 0%, vật tư nguyên liệu của hàng dệt may có thuế suất thấp từ 0- 10%. Có thể nói nhờ những chính sách trên mà trong những năm qua, dệt may từ một ngành chuyên sản xuất các sản phẩm sang thị trường Đông Âu và Liên Xô( cũ), nay các sản phẩm của ngành đã có mặt trên khắp các thị trường chính như: EU, Nhật, Mỹ… và trở thành một trong 2 ngành hàng xuất khẩu chủ lực đóng góp lớn vào sự phát triển kinh tế đất nước.
3. Các phương thức xuất khẩu của hàng dệt may:
Hiện nay, hàng dệt may nước ta chủ yếu xuất khẩu theo phương thức gia công quốc tế. Thực chất của phương thức gia công quốc tế là một bên gọi là bên nhận gia công nhập khẩu nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của một bên khác(gọi là bên đặt gia công) để chế biến thành thành phẩm giao lại cho bên đặt gia công và nhận thù lao(gọi là tiền gia công).Gia công quốc tế giảI quyết được nhiều việc làm và tạo được thị trường sản phẩm.
Nước ta đang dần dần chuyển từ hình thức gia công quốc tế sang xuất khẩu trực tiếp(FOB).Xuất khẩu trực tiếp là hình thức kinh doanh trong đó các doanh nghiệp tự mua nguyên vật liệu, sản xuất và tự bán thành phẩm của mình. Theo phương thức này các doanh nghiệp phảI tự mình tìm kiếm thị trường, tự thiết kế sản phẩm và xúc tiến bán hàng. Phương thức này ngày càng được các doanh nghiệp dệt may nước ta áp dụng. Bởi vì nó giúp doanh nghiệp dệt may thu được lợi nhuận cao hơn, chủ động hơn, trực tiếp quan hệ với khách hàngkhông phảI qua trung gian, khẳng định được uy tín, thương hiệu của mình trên thị trường quốc tế.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU DỆT MAY
1.Tốc độ phát triển:
Trong những năm qua, ngành dệt may Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể, tốc độ tăng trưởng giá trị xuất khẩu luôn đạt 25-30%/năm, tạo công ăn việc làm cho khoảng 1,6 triệu lao động và hàng vạn lao động gián tiếp. Cụ thể, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đã tăng trưởng không ngừng và chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu( đứng thứ hai sau dầu thô). Xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam tăng trưởng đều , đạt 1.45 tỷ USD trong năm 1998, tới năm 1999 đã tăng lên 1,76 tỷ USD và năm 2000 đạt khoảng 1,9 tỷ USD.
Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam 1995 – 2002
Đơn vị: triệu USD
Năm
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
KNXK
850
1150
1500
1451
1764
1892
1962
2750
( trích nguồn tổng công ty dệt may Viêt Nam)
Qua trên ta thấy năm 2002 đánh dấu một bước trưởng thành vượt bậc với kim ngạch xuất khẩu đạt 2,75 tỉ USD, tăng 36% so với năm 2001, vượt mức kế hoach đề ra 12,5%. Không chỉ dừng lại ở đây kim ngạch xuất khẩu năm 2003đạt 3,6 tỉ USD, tăng thêm 30% so với năm 2002.
Mặc dù, kim ngạch xuất khẩu vẫn tăng nhưng tốc độ tăng trưởng giảm dần do hiện nay hàng dệt may đang phải đối đầu với những thách thức lớn.
2. Tình hình xuất khẩu hàng đệt may Việt Nam trong những năm qua:
Hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang ba thị trường chính: EU, Mỹ, Nhật
2.1 Tại thị trường EU :
Từ trước tới nay, EU luôn là thị trường xuất khẩu lớn nhất của hàng dệt may Việt Nam, chiếm hơn 40% tổng kim ngạch xuất khẩu. Dù cho trong thời gian gần đây, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam có bị cuốn vào dòng thác tìm dường xuất khẩu vào thị trương Mỹ- 1 thị trường đầy tiềm năng và rất nhiều hứa hẹn- thì EU vẫn là thị trương truyền thống và giữ vị trí chiến lược quan trọng hàng đầu
a) Đặc điểm thị trường EU về hàng dệt may:
Nhu cầu nhập khẩu của EU về quần áo các loại vào khoảng 63 Tỉ USD và hàng dệt vào khoảng trên 46 tỉ USD đang là cơ hội cho nhiều nước đang phát triển. Dẫn đầu nhu cầu hàng dệt là các nước Đức( 12 tỉ USD), Anh( 6,9 tỉ USD), Italia( 5,6 tỉ USD). Dẫn đâu về nhu cầu nhập khẩu cũng là các nước nói trên: Đức( 24,8 tỉ USD), Anh( 7,9 tỉ USD), Pháp( 9,8 tỉ USD). Hiện nay, EU đang có xu hướng nhập khẩu sang các nước đang phát triển để tận dụng nguồn lao động giá rẻ của các nước này. Đây có thể coi là cơ hội tốt cho các nước Châu Á nói chung và Việt Nam nói riêng.
Bên cạnh những thuận lợi trên thì việc xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường EU cũng gặp nhiều khó khăn.
- Thuế cho mặt hàng dệt may vào EU là khá cao và EU cũng áp dụng biểu thuế quan chung CCT.
- EU bảo hộ sản xuất trong nước rất nghiêm ngặt bằng việc quản lí hạn ngạch đối với dệt may vào EU.
- Mức độ cạnh tranh trên thị trường EU cao, khi khủng hoảng tài chính – tiền tệ khu vực xảy ra thì nhiêu khách hàng từ EU chuyển sang đặt hàng ở khu vực này làm giá gia công ở Việt Nam liên tục giảm.
b) Kim ngạch xuất khẩu
Kim ngạch xuất khẩu sang Eu bắt đầu tăng mạnh kể từ khi hiệp định hàng dệt may dược kí tắt vào ngày 15/12/1992 có hiệu lực vào ngày 1/1/1993. Kể từ đó, kim ngạch xuất khẩu vào thị trường EU tăng liên tục với tỉ lệ bình quân là 40% thời kỳ 1993-2000
Năm
XKvàoEU
Tăng%
So với tổng KN
1994
298
19,2
54,2
1995
355
19,1
47,3
1996
428
20,6
37,2
1997
460
7,5
34,1
1998
546
18,7
40,4
1999
605
10,8
35,96
2000
650
7,4
35,7
Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường EU
c)Thị trường xuất khẩu dệt may trong EU
Trong 15 nước thuộc EU, Đức là bạn hàng lớn nhất. Hàng dệt may xuất khẩu hàng năm vào Đức thực tế chiếm tỷ trọng trên 40% tổng giá hàng dệt may xuất khẩu vào EU. Tiếp theo, Pháp(13%), Hà Lan (10%),Anh(9%),Italia(7%) và còn lại là các nước EU
d) Chủng loại hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam.
Về chủng loại hàng may mặc xuất khẩu sang EU hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ tập trung vào sản xuất một số sản phẩmdễ dàng, các mã hàng nóng như jăcket(51,7%), áo sơ mi(11%), quần âu(5%), áo len và áo dệt kim(3,9%), quần áo(3,5%), T-shirt và Polo-shirt(3,4%), quần dệt kim(22,7%), bộ quần áo và bảo hộ lao động (2,1%), áo khoác nam(1,8%) và áo sơ mi nữ(1,4%).
e) Hình thức xuất khẩu.
Hình thức xuất khẩu chủ yếu là gia công xuất khẩu , chiếm tỷ trọng trên 80% trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Vì thế hiệu quả thực của xuất khẩu dệt may là rất nhỏ. Hiện có 70% hạn ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang EU thông qua các thị trường trung gian là Hàn Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, Singapore. Các nước này thường nhập khẩu và thuê Việt Nam gia công rồi tái xuất khẩu sang thị trường EU. Nếu làm một phép tính so sánh thì xuất khẩu trọn gói theo giá FOB sẽ lãi gấp 2lần so với may gia công, trung bình các nhà gia công Việt Nam chỉ nhận được khoảng 20% giá thành xuất khẩu, chủ yếu là phí gia công còn 80% là của chủ đặt hàng và của các công ty trung gian cung cấp nguyên phụ liệu, mẫu mã. Nếu tính trên giá bán lẻ thì chỉ nhận được trên 4% cho một áo sơ mi.
Hiện nay, kim ngạch xuất khẩu của hàng dệt may Việt Nam sang EU có xu hướng giảm dần nguyên nhân là do khi hoạt động thương mại Việt Mỹ có hiệu lực thi hành nhiều doanh nghiệp dệt may trong nước tỏ ra lơ là với thị trường EU, đổ xô vào thị trường Mỹ chiếm thị phần.
2.2 Tại thị trường Mỹ:
Theo đánh giá của bộ thương mại tốc độ tăng trưởng kim ngạch hàng dệt may vào Mỹ đạt cao nhất trong sè ba thị trường chính kể từ khi hiệp định thương mại Việt Mỹ có hiệu lực.
Năm 1998 kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Mỹ đạt 26,4 tr USD, năm 1999 là 48 tr USD, năm 2000 là 60 tr USD, năm 2001 đạt 47,5 tr USD. Riêng chỉ tính đến tháng 8 năm 2002, con số này đã lên đến 420 tr USD, tăng gấp 9 lần đứng thứ 2 sau thị trường truyền thống EU( 450tr USD).
Hiện nay các doanh nghiệp trong nước xuất khẩu sang thị trường Mỹ phải qua các công ty trung gian ở Hồng Kông, Đài Loan và Hàn Quốc. Đến nay xuất khẩu FOB sang thị trường Mỹ nói riêng và các thị trường khác nói chung mới chỉ đạt ở mức khiêm tốn khoảng 25-30 % tổng kim ngạch.
Việt Nam xuát khẩu sang thị trường Mỹ chủ yếu là hàng quần áo. Kim ngạch xuất khẩu gần 60 tỉ USD có nghĩa là xuất khẩu dệt may của Việt Nam mới chỉ chiếm khoảng 0,7 % thị phần.
Đặc biệt thị trường Mỹ là nước có hệ thống pháp luật về thương mại vô cùng rắc rối và phức tạp. Để xuất khẩu sang Mỹ tăng nhanh chóng ta phải thông thạo hệ thống luật pháp, nắm bắt được hệ thống quản lí xuất nhập khẩu còng nh hệ thống hạn ngạch của Mỹ. Hạn ngạch của Mỹ được chia làm hai loại: hạn ngạch tuyệt đối và hạn ngạch thuế xuất.
Hạn ngạch tuyệt đối là số lượng cụ thể được phép nhập khẩu đối với từng loại hàng trong một thời gian nhất định.
Hạn ngạch thuế suất là mức thuế dược miễn giảm đối với từng mặt hàng trong một thời gian nhất định.
Năm 2003, Mỹ áp dụng hạn ngạch đối với Việt Nam. Việc phân bổ hạn ngạch vào thị trường Mỹ năm 2003 đã và đang nảy sinh nhiều vướng mắc đó là trên 50% doanh nghiệp phải tạm đống cửa do không có hạn ngạch để xuất hàng vào vào Mỹ. Bên cạnh đó một số doanh nghiệp có hạn ngạchtrong tay nhưng vẫn phải đóng cửa vì số hạn ngạch dược cấp quá Ýt, không đủ đẻ kí 1 hợp đồng XK, Các doanh gnhiệp có khả năng XK thì lại không có hạn ngạch, còn các doanh ngiệp không có khả năng xuất khẩu thì lại có hạn ngạch...
2.3 Tại thị trường Nhật
Nhật Bản là thị trường hàng may mặc lớ thứ ba thế giới sau EU và Mỹ. Tổng số giá trị bán buôn hàng may mẳctên thị trường Nhật rrong năm 1999 ước khỏng 35,6 tiUSDtrong đó hàng may mặc cho nữ chiếm khoảng 55%, cho nam chiếm 32% và cho trẻ em chiếm khoảng 13 %. Đồng thời Nhật Bản dược xem là thị trường cạnh tranh cao, do số lượng hàng nhập khẩu lớn và từ nhiều nguồn gốc xuất xứ khác nhau.Người Nhật Bản tương đối khắt khe về chất lượng lượng sản phẩm song đổi lại họ chấp nhận giá cao hơn cho những sản phẩm có chất lượng tốt.
Nhật Bản là thị trường nhập khẩu không hạn ngạch lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch xuất khẩu hàng năm tăng rất nhanh. Việt Nam bắt đầu xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Nhật Bản từ 1994. Và ngay năm tiếp theo Việt Nam đã lọt vào danh sách 10 nước xuất khẩu lớn nhát vào Nhật Bản. Năm 1996, Việt Nam vươn lên đứng hàng thứ tám và 1997 đã trỏ thành một trong 7 nước xuất khẩu quần áo lớn nhất vào thị trường Nhật Bản với thị phần hàng dệt thoi là 3,6 % và hàng dệt kim là 2,3 %. Năm 2001 trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Nhật Bản 2510 tr USD, hàng dệt may đạt 592 tr USD chiếm tỉ trọng cao nhất 24%.
Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may vào Nhật Bản GĐ 1996-1999
1996
1997
1998
1999
SL
GT
SL
GT
SL
GT
SL
GT
Dệt Kim
299344
782147
275135
770204
296950
783120
349540
719312
Dệt thoi
334608
1062748
292937
995128
272126
906234
331989
902649
Tổng
633952
1844895
568072
1765332
569075
1683353
681529
1621960
Hàng dệt may của Viẹt Nam xuất khẩu sang thị trừơng Nhật Bản được hưởng thuế ưu đãi theo hệ thống GSP của Nhật Bản. Đây là một thuận lợi lớn cho ngành may xuất khẩu của Việt Nam tăng nhanh không chỉ về kim ngạch mà còn đa dạng về chủng loại và tăng mạnh về khối lượng. Tuy nhiên hàng dệt may của Việt Nam đang phải cạnh tranh mạnh về giá và bị sức Ðp nhập khẩu từ các nhà sản xuất Nhật Bản.
Gần đây các nhà sản xuất hàng dệt may Nhật Bản đẫ kiến nghị chính phủ áp dụng hạn ngạch nhập khẩu từ Trung Quốc và Viêtl Nam do số lượng nhập khẩu từ hai nước quá lớn. Thêm vào đó nền kinh tế nước Nhật đang bị suy thoái, mức tăng trưởng dự kiến chỉ đạt 0,6% trong năm 2001( Thay vì 1,8 % nh dù đoán từ cuối năm 2000). Do vậy khả năng tăng cường xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản trong thời gian tới là hết sức khó khăn
3. Cơ hôị và thách thức đối với xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam:
Bắt đầu từ ngày 1/1/2005( đối với các nước nằm trong WTO), rào cản của trên 700 Quota các loại hàng dệt may ở thị trường Mỹ, 239 ở thị trường Canada và khoảng 165ở thị trường EU sẽ được dỡ bỏ. Điều này đưa hàng dệt may Việt Nam đứng trước cơ hội và thách thức không nhỏ.
3.1 Cơ hội đối với xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam:
Hiệp định thương mại Việt- Mỹ được Quốc hội hai nước thông qua vào tháng 12/2001, và có hiệu lực vào đầu năm 2002 được xem là một cơ hội lớn cho ngành dệt may Việt Nam. Bởi vì hiện nay, Mỹ là thị trường rộng lớn, hàng năm tiêu thụ một số lượng lớn hàng dệt may của thế giới. Nắm bắt được cơ hội này các doanh nghiệp dệt may Việt Nam đã không ngừng tìm kiếm và khai thông các con đường xâm nhập vào thị trường Mỹ nhằm khai thác tối đa thị trường tiềm năng này. Thực tế cho thấy, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may vào Mỹ tăng nhanh, năm 2002 đạt khoảng 900 triệu USD( gấp hơn 20 lần năm 2001).
Xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá, tiến trình hội nhập kinh tế, tự do hoá thương mại trong đó có thương mại dệt may theo ATC/ WTO diễn ra mạnh mẽ đã và đang tạo ra cho các doanh nghiệp dệt may một thị trường rộng mở và hết sức đa dạng. Việc Việt Nam tham gia vào khu vực mậu dịch tự do ASEAN( AFTA) cũng mở ra cơ hội lớn cho ngành dệt may. Đến năm 2005, thuế suất nhập khẩu của tất cả các nước ASEAN đều ở mức thấp 0- 5%, tạo điều kiện cho ngành dệt may Việt Nam ra tăng giá trị xuất khẩu, góp phần tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Không chỉ có vậy, trong một tương lai gần, Việt Nam sẽ ra nhập tổ chức thương mại thế giới WTO. Đó là một cơ hội lớn đối với hàng dệt may Việt Nam, thị trường mở rộng, không có bất cứ cản trở nào. Đây là cơ hội cho ngành dệt may khai thác thị trường mới mở nh: Nam Mỹ, Trung Đông. Thực tế đã chứng minh hai năm gần đây, hàng dệt may Việt Nam đã có mặt trên hầu hết các nước trên thế giới.
Xu thế đặt hàng theo điều kiện giao hàng FOB đã mở thêm một cơ hội lớn cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam. Điều này không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty xuất khẩu của Việt Nam tăng giá trị hạn ngạch xuất khẩu mà còn có cơ hội thoát cảnh làm gia công cho các đối tác nước ngoài.
Xu hướng chuyển dịch hàng dệt may sang các nước đang phát triển đã mở ra một cơ hội mới, một sức sống mới cho các doanh nghiệp Việt Nam. Nã đã tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nước ngoàI ồ ạt đầu tư vào ngành dệt may Việt Nam bằng việc xây dựng các nhà máy với các trang thiết bị hiện đại, dây chuyền sản xuất tự động. Hơn nữa, nó còn tạo công ăn việc làm cho hàng vạn lao động phổ thông nhàn rỗi. Chính vì vậy, chỉ trong vòng 5 năm( 1997- 2002) ngành dệt may Việt Nam đã vươn lên trở thành ngành công nghiệp mòi nhọn hướng ra xuất khẩu.
3.2 Thách thức đối với xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam:
Hiệp định dệt may Việt Nam- Hoa Kỳ qui định khống chế hạn ngạch nhập hàng dệt may từ Việt Nam vào Mỹ(2003) là một thách thức đối với Việt Nam hiện nay, bởi vì ngày 1/1/2005 Mỹ xoá bỏ hạn ngạch đối với các nước là thành viên của WTO. Nếu việt Nam chưa gia nhập WTO thì hàng dệt may của Vệt Nam sẽ cạnh tranh khốc liệt với các đối thủ là thành viên của WTO.
Xu thế toàn cầu hoá, tự do hoá thương mại đối với ngành dệt mayđang được thực hiện từng bước theo lịch trìnhcủa hiệp định ATC. Theo hiệp định này