Những dịch vụ ngân hàng đầu tiên không dành cho đông đảo người dân bình thường. Các hoàng tộc, vương triều và một số ít nhà buôn giàu mới là đối tượng phục vụ của ngân hàng nguyên thủy. Ngân hàng là tổ chức tài chính nhận tiền gửi và cung cấp các khoản vay. Những ngân hàng đầu tiên được biết tới trong lịch sử nhân loại là các đền thờ cổ đại.
Vào khoảng ba nghìn năm trước Công nguyên. Hình thức ngân hàng sơ khai được nhiều nhà sử học cho rằng đã hình thành trước khi con người phát minh ra tiền. Ban đầu, tài sản gửi tại "ngân hàng'' là các loại ngũ cốc, sau đó là gia cầm, nông sản, rồi đến kim loại quý như vàng. Đền thờ là nơi an toàn để cất trữ tài sản. Đó là các công trình được xây dựng kiên cố, thường xuyên có người tới hành lễ. Và xét về tâm linh thì ngay những tên trộm táo tợn nhất cũng có ý tránh chốn linh thiêng này.
Tại Ai Cập và Mesopotamia, vàng được gửi vào các đền thờ. Nhưng những tài sản quý giá này lại ngủ yên trong đó, trong khi, ở bên ngoài xã hội, các nhóm thương nhân và hoàng tộc lại rất cần sử dụng chúng. Các nhà khảo cổ học tìm được những tàng tích cho thấy tới đầu thế kỷ 18 trước công nguyên, tại Babylon, dưới thời trị vì của Hammurabi, thầy tu trông giữ đền thờ bắt đầu cho các nhà buôn mượn tài sản cất trữ trong đền. Từ đó khái niệm ngân hàng ra đời.
109 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1248 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Kế toán ngân hàng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trường Đại Học Hoa Sen
Hoa Sen University
ĐỀ ÁN MÔN HỌC
Đề Tài:
Kế Toán Ngân Hàng
Giảng viên hướng dẫn : Lê Thị Bích Thảo
Lớp : KT081A
Chuyên ngành : Kế Toán
Các thành viên :
Trương Văn Toàn
Nguyễn Thị Thuận
Trần Phạm Tấn Thành
Năm 2010
TRÍCH YẾU
Ngày nay đất nước ta đang từng bước hội nhập cùng nền Kinh tế Thương mại Thế giới. Vì vậy, chúng ta cần có sự đầu tư về kinh tế nhiều hơn đặc biệt là trong các khối ngành công nghiệp và dịch vụ. Ngân hàng một trong những ngành dịch vụ then chốt thúc đẩy ngành kinh tế phát triển và có ảnh hưởng không nhỏ đối với sự nghiệp phát triển của đất nước.
Ngân Hàng được ví như một bến cảng Giao Thương vì mọi hoạt dộng xuất nhập khẩu của Doanh nghiệp hay cá nhân đều thông qua các dịch vụ của Ngân Hàng. Vì thế mà Ngân Hàng đóng một vai trò quan trọng trong mọi hoạt động, đặc biệt là sự gắn bó mật thiết giữa ngân Hàng và chính sách tiền tệ của một đất nước.
Thông qua đề án nhóm chúng tôi đã tìm hiểu và tự học được những điều mới lạ trong các nghiệp vụ kinh tế cũng như các chính sách của nhà nước đối với Ngân Hàng . Chính vì vậy mà nhóm chúng tôi thực hiện đề án để này để mang lại những điều mà chúng tôi học tập cũng như đã tìm hiểu để chia sẻ với các bạn ngành khác muốn tìm hiểu về Ngân Hàng nói chung và của các bạn Ngành Kế Toán nói riêng..
LỜI CÁM ƠN
Để hoàn thành được đề án 1 đề tài :”Kế toán ngân hàng”nhóm chúng tôi xin chân thành cảm ơn:
Cô Lê Thị Bích Thảo - giảng viên bộ môn khoa Kinh Tế Thương Mại đã truyền đạt các kinh nghiệm làm báo cáo và hướng dẫn nhiệt tình của cô, trong lần đầu tiên nhóm chúng tôi thực hiện đề án.
NHẬP ĐỀ
Ngân hàng một trong những dịch vụ khá phổ biến và không mấy xa lạ với Việt Nam. Tuy nó không xa lạ nhưng nó vẫn còn mới mẻ đối với một số người. Chính vì vậy mà nhóm chúng tôi đã thực hiện đề án 1 nghiên cứu về “Kế Toán Ngân Hàng” để các bạn ngành khác quan tâm muốn hiểu rõ một cách chi tiết về những qui định của nhà nước về ngân hàng và phương pháp hạch toán trong ngân hàng .Qua đó chúng ta có thể phân biệt những đặc điểm khác nhau giữa 2 loại hình kế toán giữa Ngân Hàng và Doanh Nghiệp. Vì vậy mà nhóm chúng tôi thực hiện đề án này với mục đích:
Các mục tiêu của đề án: Đề án này được thực hiện nhằm hoàn thành những mục tiêu có nội dung cụ thể như sau :
Mục đích 1: Các hoạt động chính ,chức năng của ngân hàng và các qui định của nhà nước về ngân hàng
Mục đích 2: Hình thức sổ kế toán mà ngành ngân hàng áp dụng
Mục đích 3: Những điểm khác biệt giữa 2 loại hình kế toán ngân hàng và kế toán Doanh Nghiệp.
Mục đích 4: Một số ứng dụng của ngân hàng trong thực tế.
Để hoàn thành báo cáo này, nhóm chúng tôi đã có sự phân chia công việc hợp lý với các nhiệm vụ của các thành viên như sau:
BẢNG PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC NHÓM
STT
Họ Và Tên
Nhiệm Vụ
Thời Gian Thực Hiện
1
Trương Văn Toàn
Thực hiện mục đích 1,2
Thực hiện từ
tuần 4 đến tuần 12
2
Nguyễn Thị Thuận
Thực hiện mục đích 3
3
Trần Phạm Tấn Thành
Thực hiện mục đích 2,4
Chương 1 :Giới thiệu về kế toán ngân hàng và những văn bản quy định về chế độ kế toán ngân hàng
1.Giới thiệu sơ lược về ngân hàng
Lịch sử
Những dịch vụ ngân hàng đầu tiên không dành cho đông đảo người dân bình thường. Các hoàng tộc, vương triều và một số ít nhà buôn giàu mới là đối tượng phục vụ của ngân hàng nguyên thủy. Ngân hàng là tổ chức tài chính nhận tiền gửi và cung cấp các khoản vay. Những ngân hàng đầu tiên được biết tới trong lịch sử nhân loại là các đền thờ cổ đại.
Vào khoảng ba nghìn năm trước Công nguyên. Hình thức ngân hàng sơ khai được nhiều nhà sử học cho rằng đã hình thành trước khi con người phát minh ra tiền. Ban đầu, tài sản gửi tại "ngân hàng'' là các loại ngũ cốc, sau đó là gia cầm, nông sản, rồi đến kim loại quý như vàng. Đền thờ là nơi an toàn để cất trữ tài sản. Đó là các công trình được xây dựng kiên cố, thường xuyên có người tới hành lễ. Và xét về tâm linh thì ngay những tên trộm táo tợn nhất cũng có ý tránh chốn linh thiêng này.
Tại Ai Cập và Mesopotamia, vàng được gửi vào các đền thờ. Nhưng những tài sản quý giá này lại ngủ yên trong đó, trong khi, ở bên ngoài xã hội, các nhóm thương nhân và hoàng tộc lại rất cần sử dụng chúng. Các nhà khảo cổ học tìm được những tàng tích cho thấy tới đầu thế kỷ 18 trước công nguyên, tại Babylon, dưới thời trị vì của Hammurabi, thầy tu trông giữ đền thờ bắt đầu cho các nhà buôn mượn tài sản cất trữ trong đền. Từ đó khái niệm ngân hàng ra đời.
Các giai đoạn phát triển
Trong thế kỷ 15 đến thế kỷ 18
Trong giai đoạn này hoạt động ngân hàng có 2 đặc trưng:
Các ngân hàng còn hoạt động độc lập chưa tạo ra hệ thống chịu sự ràng buộc lẫn nhau.
Chức năng hoạt đông của các ngân hàng đều như nhau bao gồm việc nhận ký thác,chiết khấu cho vay,phát hành giấy bạc và nhận thực hiện các dịch vụ tiền tệ
Từ TK18 đến TK 20
Trong giai đoạn này nhà nước bắt đầu can thiệp vào hoạt động của ngân hàng bằng cách banhành đạo luật nhằm hạn chế số lượng ngân hàng được phép phát hành.Ở giai đoạn này ngân hàng đã hình thành hệ thống và chia ra làm 2 loại:
Các ngân hàng được phép phát hành tiền gọi là ngân hàng phát hành.các ngân hàng không được phép phát hành gọi là ngân hàng trung gian
Từ đầu TK20 đến nay
Đầu TK20 hầu hết các nước đều thực hiện cơ chế một ngân hàng phát hành .Tuy nhiên ngân hàng phàt hành vẫn còn thuộc sỡ hữu của tư nhân.Mãi đến cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 nhà nước mới bắt đầu quốc hữu hoá và nắm lấy ngân hàng phát hành.
Vai trò của ngân hàng
Trong nền kinh tế hiện nay chúng ta thấy tiền tệ đóng vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế ví như máu huyết lưu thông đối với cơ thể.nếu như máu huyết đóng vai trò cung cấp nguồn dinh dưỡng cho tế bào thì trái tim đóng vai trò vừa bơm vừa hút khiến cho nó không ngùng tuần hoàn trong cơ thể.Tương tự như vậy tiền tệ trong nền kinh tế mang theo động lực thúc đẩy nền kinh tế và ngân hàng đóng vai trò như một trái tim,nó vừa bơm tiền vào từng tế bào để thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế vừa thu hút tiền thừa để lưu thông tiền tệ trong nền kinh tế được điều hoà
Chức năng của ngân hàng
Tuỳ theo từng loại ngân hàng cụ thể mà chức năng của mỗi ngân hàng là khác nhau như:ngân hàng trung ương và ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại:gồm 2 chức năng cơ bản chức năng làm trung gian thanh toán và quản lý các phương tiện thanh toán,chức năng tạo ra tiền ngân hàng trong hệ thống ngân hàng hai cấp
Chức năng làm trung gian thanh toán và quản lý các phương tiện thanh toán Chức năng này có nghĩa là ngân hàng tiến hành nhập tiền vào tài khoản hay chi trả tiền theo lệnh của chủ tài khỏan. Khi các khách hàng gởi tiền vào ngân hàng, họ sẽ được đảm bảo an toàn trong việc cất giữ tiền và thực hiện thu chi một cách nhanh chóng tiện lợi, nhất là đối với các khỏan thanh tóan có giá trị lớn, ở mọi địa phương mà nếu khách hàng tự làm sẽ rất tốn kém khó khăn và không an toàn (ví dụ: chi phí lưu thông, vận chuyển, bảo quản…).Khi làm trung gian thanh toán, ngân hàng tạo ra những công cụ lưu thông và độc quyền quản lý các công cụ đó (sec, giấy chuyển ngân, thẻ thanh toán..) đã tiết kiệm cho xã hội rất nhiều vể chi phí lưu thông, đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn, thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hóa. Ở các nước phát triển phần lớn thanh toán được thực hiện qua sec và được thực hiện bằng việc bù trừ thông qua hệ thống ngân hàng thương mại. Ngoài ra việc thực hiện chức năng là thủ quỹ của các doanh nghiệp qua việc thực hiện các nghiệp vụ thanh toán đã tạo cơ sở cho ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ cho vay.Hiện nay ở các nước công nghiệp phát triển việc sử dụng hình thức chuyển tiền bằng đện tử là chuyện bình thường và chính điều này đưa đến việc không sử dụng sec ngân hàng mà dùng thẻ như thẻ tín dụng. Họ thanh toán bằng cách nối mạng các máy vi tính của các ngân hàng thương mại trong nước nhằm thực hiện chuyển vốn từ tài khoản người này sang người khác một cách nhanh chóng
Chức năng tạo ra tiền ngân hàng trong hệ thống ngân hàng hai cấp Vào cuối thế kỉ 19 hệ thống ngân hàng hai cấp được hình thành, các ngân hàng không còn họat động riêng lẽ nữa mà tạo thành hệ thống, trong đó ngân hàng trung ương là cơ quan quản lý về tiền tệ, tín dụng là ngân hàng của các ngân hàng. Các ngân hàng còn lại kinh doanh tiền tệ, nhờ họat động trong hệ thống các NHTM đã tạo ra bút tệ thay thế cho tiền mặt.Quá trình tạo ra tiền của NHTM được thực hiện thông qua tín dụng và thanh tóan trong hệ thống ngân hàng, trong mối liên hệ chặt chẽ với hệ thống ngân hàng trung ương mỗi nước. Vậy tiền “bút tệ” được NHTM tạo ra bằng cách nào? Bây giờ chúng ta giả sử rằng tất cả các NHTM đều không giữ lại tiền dự trữ quá mức quy định, các sec không chuyển thành tiền mặt và các yếu tố phức tạp khác bị bỏ qua thì quá trình tạo thành tiền như sau:
Tên các ngân hàng
Tiền gửi mới
Thanh toán cho vay mới
Dự trữ bắt buộc
Ngân hàng A
1.000.000
900.000
100.000
Ngân hàng B
900.000
810.000
90.000
Ngân hàng C
810.000
729.000
81.000
...
...
...
Tiền toàn hệ thống ngân hàng
10.000.000
9.000.000
1.000.000
Giả sử ngân hàng A có khoản tiền gửi mới là 1.000.000đ, dự trữ bắt buộc là 10% thì số tiền nó có thể cho vay là 900.000. Khoản tiền cho vay đó được đưa đến người vay, người vay tiền không bao giờ vay tiền về mà cất trong nhà vì như thế họ phải chịu lãi một cách vô ích, họ dùng tiền đó chi trả các khỏan. Và số tiền đó đến tay người được chi trả, người chi trả đem số tiền đó gửi vào ngân hàng B, ngân hàng B lúc này sẽ có một lượng tiền gửi mới là 900.000. Dự trữ bắt buộc là 10%, số tiền có thể cho vay là 810.000. Số tiền này được cho người cần vay vay, người cho vay chi trả các khỏan đến người được chi trả, người được chi trả đem số tiền được trả gửi vào ngân hàng C. Lúc này ngân hàng C sẽ có số tiền gửi mới là 810.000. Và cứ như thế tiếp tục… cho đến khi lượng tiền gửi mới bằng 0. Người ta tính được rằng lượng tiền gửi mới trong tòan hệ thống ngân hàng là 10.000.000, lượng tiền dự trữ bắt buộc là 1.000.000 và tiền cho vay là 9.000.000. Và do cách thức này mà tiền đã được tạo ra trong hệ thống ngân hàng 2 cấp.
Ngân hàng trung ượng:liên quan đến ba chức năng cơ bản, đó là phát hành tiền tệ, ngân hàng của các tổ chức tín dụng, và ngân hàng của chính phủ. Tuy nhiên, không phải ngân hàng trung ương nào cũng mang đầy đủ ba chức năng này.
Phát hành tiền tệ:Ở phần lớn các nước, ngân hàng trung ương là cơ quan duy nhất có quyền phát hành tiền tệ. Ở một số nước khác, ngân hàng trung ương là cơ quan duy nhất phát hành tiền giấy, còn tiền kim loại với tư cách là tiền bổ trợ thì do chính phủ phát hành. Cục Dự trữ Liên bang- ngân hàng trung ương của Mỹ- không có chức năng phát hành tiền, thay vào đó là Bộ Tài chính đảm nhiệm chức năng này. Cũng có thông tin cho rằng Chính phủ Mỹ không có quyền phát hành đồng Đô-la, mà là do Cục Dự Trữ Liên Bang
Ngân hàng của các tổ chức tín dụng:Ngân hàng trung ương thực hiện công việc tái chiết khấu các hối phiếu đối với các tổ chức tín dụng, cấp vốn thông qua cho vay đối với các tổ chức này (đồng thời qua đây kiểm soát lãi suất). Ngân hàng trung ương còn mua và bán các giấy tờ có giá, qua đó điều tiết lượng vốn trên thị trường. .
Ngân hàng trung ương có quyền yêu cầu các ngân hàng thương mại mở tài khoản tại chỗ mình và các ngân hàng phải gửi vào tài khoản của họ một lượng tiền nhất định. Thông thường lượng tiền này được quy định tương đương với một tỷ lệ nào đó tiền gửi vào ngân hàng thương mại, gọi là tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Trong trường hợp có tổ chức tín dụng gặp nguy cơ đổ vỡ làm ảnh hưởng đến cả hệ thống tài chính của quốc gia, ngân hàng trung ương sẽ tái cấp vốn cho tổ chức tín dụng đó để cứu nó. Vì thế, ngân hàng trung ương được gọi là người cho vay cuối cùng (hay người cho vay cứu cánh).
Ngân hàng của Chính phủ:Ở nhiều nước, ngân hàng trung ương là người quản lý tiền nong cho chính phủ. Chính phủ sẽ mở tài khoản giao dịch không lãi suất tại ngân hàng trung ương. Tuy nhiên, ở một số nước, chẳng hạn như ở Việt Nam, chức năng này do kho bạc đảm nhiệm.Ngân hàng trung ương còn làm đại diện cho chính phủ khi can thiệp vào thị trường ngoại hối
e. Hoạt động của ngân hàng:tuỳ thuộc vào từng đối tượng cụ thể mà mỗi ngân hàng đều có các hoạt động khác nhau
Đối với Ngân hàng thương mại :hoạt động chủ yếu của nó là hoạt động huy động vốn,hoạt động cung cấp tín dụng,hoạt động thanh toán qua ngân hàng,hoạt động ngân quỹ,và một số hoạt động khác…
Hoạt động huy động vốn của NHTM
Hoạt động huy động vốn là một trong những hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất của NHTM.Hoạt động này mang lại nguồn vốn để ngân hàng có thể thực hiện các hoạt động khác như cấp tín dụng và cung cấp các dịch vụ ngân hàng cho khách hàng.Chính vì thế NHTM chỉ được huy động vốn dưới các hình thức sau(theo nghị định 49/2000/ND-CP ngày 12/9/2000):
Các ngân hàng thương mại huy động vốn dưới các hình thức:
- Nhận tiền gửi của các tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác dưới các hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại tiền gửi khác bằng đồng Việt Nam, ngoại tệ và vàng.
- Phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá khác để huy động vốn của tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước khi được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước chấp thuận,
- Vay vốn của các tổ chức tín dụng khác hoạt động tại Việt Nam và của tổ chức tín dụng nước ngoài,
- Vay vốn ngắn hạn của Ngân hàng Nhà nước dưới hình thức tái cấp vốn,
- Các hình thức huy động vốn khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước
Hoạt động tín dụng của NHTM
- Ngân hàng thương mại cấp tín dụng bằng đồng Việt Nam, ngoại tệ và vàng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
- Ngân hàng thương mại cho các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình vay vốn dưới các hình thức :Cho vay ngắn hạn, cho vay trung hạn, cho vay dài hạn
Cho vay theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ trong trường hợp cần thiết.
Ngân hàng có quyền yêu cầu khách hàng cung cấp tài liệu chứng minh dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh, dịch vụ, phương án phục vụ đời sống khả thi, khả năng tài chính của mình và của người bảo lãnh trước khi quyết định cho vay.
- Kiểm tra giám sát qúa trình vay vốn, sử dụng vốn vay và trả nợ của khách hàng, có quyền chấm dứt việc cho vay, thu hồi nợ trước khi phát hiện khách hàng cung cấp thông tin sai sự thật, vi phạm hợp đồng tín dụng. Được quyền từ chối cho vay đối với khách hàng không đủ điều kiện vay vốn, các dự án, khoản vay không đem lại hiệu quả kinh tế, không có khả năng thu hồi vốn, không phù hợp với quy định của pháp luật.
- Ngân hàng có quyền xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của khách hàng vay, tài sản của người bảo lãnh trong việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh để thu hồi nợ theo quy định tại Nghị định của Chính phủ về đảm bảo tiền vay của các tổ chức tín dụng, khởi kiện khách hàng vi phạm hợp đồng tín dụng và người bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ bảo lãnh theo quy định của pháp luật.
Ngân hàng miễn, giảm lãi suất cho vay, phí ngân hàng, gia hạn nợ, điều chỉnh kỳ hạn nợ, mua bán nợ theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
Bảo lãnh
- Ngân hàng thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh vay, bảo lãnh thanh toán, bão lãnh thực hiện hợpđồng, bảo lãnh dự thầu và các hình thức bảo lãnh ngân hàng khác cho các tổ chức, cá nhân theo quy định của Ngân hàng Nhà nước
- Ngân hàng thực hiện bảo lãnh vay, bảo lãnh thanh toán và các hình thức bảo lãnh ngân hàng khác mà người nhận bảo lãnh là tổ chức, cá nhân nước ngoài,
- Ngân hàng có quyền yêu cầu người được bảo lãnh thực hiện đúng cam kết của mình với Ngân hàng, có bảo đảm cho việc bảo lãnh của Ngân hàng, cung cấp đầy đủ chính xác các thông tin và tài liệu liên quan đến việc bảo lãnh kiểm soát mọi hoạt động liên quan đến nghĩa vụ bảo lãnh, từ chối bảo lãnh đối với khách hàng không có uy tín.
Chiết khấu thương phiếu, kỳ phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác
- Ngân hàng thực hiện nghiệp vụ chiết khấu thương phiếu, kỳ phiếu và các giấy tờ ngắn hạn khác đối với tổ chức cá nhân.
- Ngân hàng thực hiện nghiệp vụ tái chiết khấu thương phiếu, kỳ phiếu, tín phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác đối với các tổ chức tín dụng khác.
Cho thuê tài chính
Ngân hàng thực hiện nghiệp vụ cho thuê tài chính qua Công ty cho thuê tài chính trực thuộc ngân hàng chủ quản. Công ty cho thuê tài chính tổ chức và hoạt động theo quy định của pháp luật và Điều lệ công ty.
Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ
Để thực hiện được các dịch vụ thanh toán giữa các doanh nghiệp thông qua ngân hàng,NHTM được phép mở TK cho KH trong và ngoài nước ,đồng thời NHTM được phép mở TK tiền gửi tại NHNN nơi đặt trụ sở chính và duy trì tại đó số dư dự trữ tiền gửi bắt buộc theo quy định nhằm thực hiện hoạt động thanh toán giữa các NH với nhau thông qua NHNN. Chính vì thế NHTM đã thực hiện hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ thông qua các hình thức sau:
Cung cấp các phương tiện thanh toán
Thực hiện các dịch vụ thanh toán trong nước cho KH
Thực hiện dịch vụ thu hộ và chi hộ
Thực hiện các dịch vụ thanh toán theo quy định của nhà nước
Thực hiện các dịch vụ thanh toán quốc tế khi được nhà nước cho phép
Thực hiện dịch vụ thu và phát tiền mặt cho KH
Tổ chức hệ thống thanh toán nội bộ và thực hiện hệ thống liên NH trong nước.Tham gia hệ thống thanh toán quốc tế khi được NHNN cho phép
Các hoạt động khác
- Dùng vốn điều lệ và quỹ dự trữ để góp vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp và của các tổ chức tín dụng khác theo quy định của pháp luật.
- Góp vốn với tổ chức tín dụng nước ngoài để thành lập tổ chức tín dụng liên doanh tại Việt Nam theo quy định của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của tổ chức tín dụng nước ngoài tại Việt Nam.
- Tham gia thị trường tiền tệ theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
- Kinh doanh ngoại hối, vàng trên thị trường trong nước và thị trường quốc tế theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
- Ủy thác và nhận ủy thác, làm đại lý trong các lĩnh vực liên quan đến hoạt động ngân hàng, kể cả việc quản lý tài sản, vốn đầu tư của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo hoạt động ủy thác, đại lý..
- Cung ứng dịch vụ bảo hiểm, thành lập công ty trực thuộc, công ty liên doanh để kinh doanh bảo hiểm theo quy định của pháp luật.
- Cung ứng các dịch vụ:
+ Tư vấn tài chính, tiền tệ cho khách hàng dưới hìnhthức trực tiếp tư vấn cho khách hàng, thanh lập công ty trực thuộc theo quy định của pháp luật.
+ Bảo quản hiện vật quý, giấy tờ có giá, cho thuê tủ két, cầm đồ và các dịch vụ khác theo quy định của pháp luật.
- Thực hiện nghiệp vụ khai thác tài sản qua Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của ngân hàng.
- Thực hiện nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán qua công ty trách nhiệm hữu hạn chứng khoán của ngân hàng chủ quản.
- Thực hiện kinh doanh khác có liên quan đến hoạt động ngân hàng theo qui định của pháp luật.
Đối với Ngân Hàng Trung Ương: giữ vai trò là cơ quan đặc trách quản lý hệ thống tiền tệ của quốc gia/nhóm quốc gia/vùng lãnh thổ và chịu trách nhiệm thi hành chính sách tiền tệ .Mục đích hoạt động của ngân hàng trung ương là ổn định giá trị của tiền tệ, ổn định cung tiền , kiểm soát lãi suất, cứu các ngân hàng thương mại có nguy cơ đổ vỡ. Hầu hết các ngân hàng trung ương thuộc sở hữu của Nhà nước, nhưng vẫn có một mức độ độc lập nhất định đối với Chính phủ.Từ đó NHTW đã tiến hành các hoạt động sau nhằm đáp ứng các mục tiêu trên:
Nắm và điều hoà sự phát hành của tiền tệ
Thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng cho chính phủ
Lưu giữ dự trữ tiền tệ của các NH khác
Cung cấp tín dụng cho các NH trung gian khác
Kiểm soát số lượng tiền tê và tín dụng sao cho phù hợp với nhu cầu thực sự của nền kinh tế
2.Đối tượng mục tiêu và vị trí của KTNH
Đối tượng của KTNH
Đối tượng của KTNH là sử dụng thước đo = tiền để phản ánh nguồn vốn , cơ cấu hình thành các nguồn vốn và việc sử dụng vốn trong các hoạt động của NH
Nguồn vốn: được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau từ lúc thành lập cho đến suốt cả quá trình hoạt động
Vốn tự có bao gồm
Vốn điều lệ: là số vốn riêng của từng NH .T