Chóng ta đều biết tác dụng to lớn, tích cực cũng nh vai trò động lực của công nghiệp hoá- hiện đại hoá đối với sự phát triển của xã hội loài người là hết sức quan trọng. Chỉ vài ba thế kỷ lại đây, nhờ có công nghiệp hóa- hiện đại hoá đã biến nhiều nước vốn lạc hậu, kém phát triển trở thành những nước phát triển cao. Các cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật công nghệ cùng với quá trình công nghiệp hoá đã làm biến đổi sâu sắc và triệt để tự nhiên- xã hội- con người. Thắng lợi to lớn đó đã làm cho con người tưởng rằng họ có thể hoàn toàn thống trị được tự nhiên. Do vậy, đã từ lâu con người tác động vào tự nhiên, khai thác tự nhiên không thương tiếc,sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên lãng phí, đó là nguyên nhân chính gây ra ô nhiễm môi trường sinh thái.
Đối với Việt Nam, trong quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể đưa nền kinh tế đất nước từ lạc hậu sang bước phát triển mới với cơ cấu ngành đa dạng. Trong đó nền công nghiệp Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng, nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất ra đời đang tạo chỗ dựa vững chắc cho nền kinh tế phát triển, đồng thời không thể không kể đến sự duy trì và phát triển của các làng nghề truyền thống. Hiện nay, nước ta có khoảng 1450 làng nghề đem lại doanh thu hàng nghìn tỷ đồng.Trong những năm đổi mới, với chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trong cơ chế thị trường, các làng nghề truyền thống được khôi phục mạnh mẽ và phát triển lan toả thêm hàng trăm làng nghề mới.
Sự phát triển của các làng nghề truyền thống không chỉ đóng góp vào sự tăng trưởng của nền kinh tế mà còn có tác dụng giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người nông dân, làm thay đổi bộ mặt nông thôn Tuy nhiên, nó cũng đã và đang thải ra môi trường khối lượng lớn chất thải, bụi khói gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe cộng đồng, việc khai thác không hợp lý tài nguyên thiên nhiên tại các làng nghề gây tình trạng cạn kiệt tài nguyên, làm mất cảnh quan chung không chỉ tại chính địa phương
Như vậy, vấn đề bảo vệ môi trường hiện nay không chỉ là vấn đề mà Đảng và Nhà nước quan tâm mà là vấn đề của tất cả mọi người với phương châm lấy phòng ngừa và ngăn chặn làm nguyên tắc chủ đạo kết hợp với xử lý ô nhiễm, cải thiện môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ và sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên, mỗi chúng ta cần phải không ngừng bảo vệ và cải thiện môi trường nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống, đảm bảo sự phát triển bền vững của đất nước, đó cũng chính là bảo vệ và cải thiện cuộc sống của chính mình.
Thực tế hiện nay ở Sóc Sơn-Hà Nội, hoạt động khai thác,sản xuất cao lanh đang tiến hành trên qui mô lớn( hàng trăm nghìn tấn sản phẩm/năm), theo nhiều phương pháp (cơ giới, bán cơ giới,thủ công) đang gây ra tình trạng lãng phí tài nguyên và ô nhiễm môi trường khu vực đòi hỏi phải có nhiều giải pháp xử lý thích hợp và hiệu quả.
Do vậy,việc xây dựng và phát triển phải đi đôi với bảo vệ môi trường sinh thái, đó là lý do mà em thực hiện đề tài:
“Một số vấn đề về phát triển công nghiệp với môi trường sinh thái”
(thực trạng tại làng nghề khai thác và sản xuất cao lanh ở Sóc Sơn- Hà Nội)
Đây là vấn đề có tính chất chung mà hiện nay đang được các cấp, các ngành cũng nh các cá nhân quan tâm .
Bài viết này chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được sự giúp đỡ của thầy giáo để có thể hoàn thành tốt hơn.
Em xin chân thành cảm ơn.
30 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1324 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Một số vấn đề về phát triển công nghiệp với môi trường sinh thái, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Chóng ta đều biết tác dụng to lớn, tích cực cũng nh vai trò động lực của công nghiệp hoá- hiện đại hoá đối với sự phát triển của xã hội loài người là hết sức quan trọng. Chỉ vài ba thế kỷ lại đây, nhờ có công nghiệp hóa- hiện đại hoá đã biến nhiều nước vốn lạc hậu, kém phát triển trở thành những nước phát triển cao. Các cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật công nghệ cùng với quá trình công nghiệp hoá đã làm biến đổi sâu sắc và triệt để tự nhiên- xã hội- con người. Thắng lợi to lớn đó đã làm cho con người tưởng rằng họ có thể hoàn toàn thống trị được tự nhiên. Do vậy, đã từ lâu con người tác động vào tự nhiên, khai thác tự nhiên không thương tiếc,sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên lãng phí, đó là nguyên nhân chính gây ra ô nhiễm môi trường sinh thái.
Đối với Việt Nam, trong quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể đưa nền kinh tế đất nước từ lạc hậu sang bước phát triển mới với cơ cấu ngành đa dạng. Trong đó nền công nghiệp Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng, nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất ra đời đang tạo chỗ dựa vững chắc cho nền kinh tế phát triển, đồng thời không thể không kể đến sự duy trì và phát triển của các làng nghề truyền thống. Hiện nay, nước ta có khoảng 1450 làng nghề đem lại doanh thu hàng nghìn tỷ đồng.Trong những năm đổi mới, với chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trong cơ chế thị trường, các làng nghề truyền thống được khôi phục mạnh mẽ và phát triển lan toả thêm hàng trăm làng nghề mới.
Sự phát triển của các làng nghề truyền thống không chỉ đóng góp vào sự tăng trưởng của nền kinh tế mà còn có tác dụng giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người nông dân, làm thay đổi bộ mặt nông thôn…Tuy nhiên, nó cũng đã và đang thải ra môi trường khối lượng lớn chất thải, bụi khói…gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe cộng đồng, việc khai thác không hợp lý tài nguyên thiên nhiên tại các làng nghề gây tình trạng cạn kiệt tài nguyên, làm mất cảnh quan chung không chỉ tại chính địa phương…
Như vậy, vấn đề bảo vệ môi trường hiện nay không chỉ là vấn đề mà Đảng và Nhà nước quan tâm mà là vấn đề của tất cả mọi người với phương châm lấy phòng ngừa và ngăn chặn làm nguyên tắc chủ đạo kết hợp với xử lý ô nhiễm, cải thiện môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ và sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên, mỗi chúng ta cần phải không ngừng bảo vệ và cải thiện môi trường nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống, đảm bảo sự phát triển bền vững của đất nước, đó cũng chính là bảo vệ và cải thiện cuộc sống của chính mình.
Thực tế hiện nay ở Sóc Sơn-Hà Nội, hoạt động khai thác,sản xuất cao lanh đang tiến hành trên qui mô lớn( hàng trăm nghìn tấn sản phẩm/năm), theo nhiều phương pháp (cơ giới, bán cơ giới,thủ công) đang gây ra tình trạng lãng phí tài nguyên và ô nhiễm môi trường khu vực đòi hỏi phải có nhiều giải pháp xử lý thích hợp và hiệu quả.
Do vậy,việc xây dựng và phát triển phải đi đôi với bảo vệ môi trường sinh thái, đó là lý do mà em thực hiện đề tài:
“Một số vấn đề về phát triển công nghiệp với môi trường sinh thái”
(thực trạng tại làng nghề khai thác và sản xuất cao lanh ở Sóc Sơn- Hà Nội)
Đây là vấn đề có tính chất chung mà hiện nay đang được các cấp, các ngành cũng nh các cá nhân quan tâm .
Bài viết này chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được sự giúp đỡ của thầy giáo để có thể hoàn thành tốt hơn.
Em xin chân thành cảm ơn.
PHẦN NỘI DUNG
Chương I:
Môi trường và ô nhiễm môi trường
1.1. Môi trường và môi trường sinh thái
1.1.1. Môi trường
Môi trường là một khái niệm rất rộng, được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau nhưng tất cả đều thống nhất theo định nghĩa sau:
Môi trường bao gồm các yếu tố vật chất nhân tạo, quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và thiên nhiên.
Theo đó, ta thấy rằng môi trường bao gồm nhiều thành phần hợp thành, các thành phần Êy thường xuyên tác động lẫn nhau, quy định và phụ thuộc lẫn nhau làm cho hệ thống môi trường phát triển. Môi trường không phải là một hệ tĩnh mà luôn luôn thay đổi trong cấu trúc của nó, trong quan hệ tương tác giữa các phần tử cơ cấu và trong từng phần tử cơ cấu. Môi trường dù có quy mô thế nào thì nó cũng là hệ thống mở, tức là các dòng vật chất, năng lượng, thời gian liên tục “chảy” trong không gian và thời gian, vì thế, các vấn đề môi trường cần được giải quyết bằng nỗ lực của toàn thể cộng đồng. Đồng thời, môi trường có khả năng tự tổ chức và tự điều chỉnh , tức là chúng có khả năng tự tổ chức lại hoạt động của mình và tự điều chỉnh để thích ứng với những thay đổi bên ngoài theo qui luật tiến hoá nhằm hướng tới sự ổn định, nhờ có đặc tính này đã tạo mở hướng giải quyết căn bản, lâu dài cho các vấn đề môi trường cấp bách hiện nay (tạo khả năng tự phục hồi của các tài nguyên sinh vật đã suy kiệt…).
1.1.2. Môi trường sinh thái
Môi trường sinh thái được định nghĩa là hệ thống các quần thể sinh vật cùng sống và cùng phát triển trong một môi trường nhất định, có quan hệ tương tác với nhau và với môi trường đó.
Qua định nghĩa trên ta thấy được mối quan hệ chặt chẽ giữa con người và tự nhiên, đó là mối quan hệ song song cùng tồn tại và phát triển, không thể có sự phát triển tách rời giữa tự nhiên và con người.
1.1.3. Ô nhiễm môi trường
Ô nhiễm môi trường là sự làm thay đổi tính chất của môi trường bởi các chất gây ô nhiễm, trong đó chất gây ô nhiễm là những chất độc hại được thải ra trong sinh hoạt, trong quá trình sản xuất hay trong các hoạt dộng khác, chất thải có thể ở dạng rắn, lỏng, khí hoặc các dạng khác.
Ô nhiễm môi trường gây ảnh hưởng xấu cho đời sống của con người và thiên nhiên (thành phần của môi trường bao gồm không khí, đất, nước, âm thanh, ánh sáng, núi, rừng, sông, hồ, các khu dân cư, khu sản xuất, cảnh quan thiên nhiên, và các hình thái vật chất khác,…).
Ô nhiễm môi trường còn có thể dẫn đến suy thoái và những sự cố môi trường, đó là các tai biến hay rủi ro xảy ra như bão, lũ, hạn hán, cháy rừng, mưa axit, núi lửa phun trào, động đất,…gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới đời sống của con người.
1.2. Sự phát triển của các doanh nghiệp công nghiệp và các làng nghề ở Việt Nam
Các doanh nghiệp hay các làng nghề được hình thành đều nhằm mục đích chủ yếu là thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh để sinh lời, tìm kiếm lợi nhuận. Chúng có vị trí rất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, vừa là tế bào kinh tế vừa là tổ chức xã hội của đất nước, đồng thời đóng góp phần đáng kể vào thu nhập quốc dân.
Trong 5 năm gần đây, ngành công nghiệp nước ta đã có những bước tiến đáng kể nhờ có sự đổi mới các chính sách kinh tế, tốc độ tăng GDP trong ngành đạt hơn 13%, tỷ trọng các ngành công nghiệp trong GDP đang tăng (năm 1991 là19,8% lên 23,7% năm 1996, đến năm1999 đã là 29,1%…) và phấn đấu đến năm 2010 sẽ đạt tỷ trọng 35%.
Bên cạnh các ngành công nghiệp truyền thống ngày càng phát triển nhanh cả về qui mô, chất lượng, hiệu quả như dệt may,da giày, chế biến nông sản- thực phẩm…, đã hình thành một số ngành công nghiệp mới đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế như dầu khí, điện tử, cơ khí lắp ráp ôtô-xe máy…Kim ngạch xuất khẩu hàng công nghiệp ngày càng tăng nhanh, chiếm khoảng 70% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất ra đời đã và đang tạo nên chỗ dựa vững chắc cho nền kinh tế. Hiện nay, nước ta đã có hàng trăm khu công nghiệp thu hút hàng nghìn dự án với tổng số vốn đầu tư đăng ký trên 10 tỷ USD, giải quyết việc làm cho hơn 100.000 người lao động, đóng góp đáng kể vào giá trị sản lượng công nghiệp và xuất khẩu.
Đồng thời không thể không nhắc đến sự đóng góp của các làng nghề vào sự phát triển chung của nền kinh tế quốc dân, nó đã góp phần cải tạo bộ mặt nông thôn Việt Nam, cải thiện đời sống cho người nông dân. Nước ta có khoảng 1450 làng nghề hàng năm đem lại doanh thu tới hàng nghìn tỷ đồng. Hiện nay, cùng với sự đổi mới của các chính sách kinh tế, các làng nghề đang phát triển mạnh mẽ.
Tuy nhiên, nhìn chung thực tế nền công nghiệp nước ta vẫn chỉ là một nền công nghiệp lạc hậu so với thế giới, vẫn còn là nền công nghiệp ở trình độ thấp, đa phần là qui mô vừa và nhỏ, công nghệ cũ, lạc hậu hoặc không đồng bộ…, hơn nữa nguồn vốn cho xử lý chất thải lại quá eo hẹp, đôi khi còn không được tính đến nên đã gây thiệt hại lớn về môi trường.
1.3. Mối quan hệ giữa phát triển công nghiệp với môi trường sinh thái
Kinh tế, xã hội và môi trường luôn ở trong mối quan hệ hữu cơ ràng buộc và thúc đẩy lẫn nhau. Tác động của môi trường tới quá trình phát triển kinh tế - xã hội là sự tác động hai chiều, vừa có tính tích cực cũng lại có tính tiêu cực. Nói cách khác, môi trường có những tác động thúc đẩy sự phát triển, song nó cũng gây ra những cản trở đối với quá trình phát triển. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa môi trường và phát triển kinh tế – xã hội là nhiệm vụ có tính sống còn của loài người. Tuỳ thuộc vào trình độ khoa học công nghệ và trình độ quản lý, ở mỗi thời kỳ, mỗi cộng đồng có những cách giải quyết mối quan hệ này khác nhau.
Trong mối quan hệ với kinh tế, môi trường đóng vai trò là nguồn cung cấp đầu vào cho quá trình sản xuất, phát triển (nhất là đối với ngành công nghiệp vì công nghiệp là ngành kinh tế chủ đạo, quyết định sự phát triển của các ngành khác cũng như của toàn bộ nền kinh tế ). Không có một quá trình sản xuất nào không đòi hỏi phải khai thác tài nguyên thiên nhiên, các thành phần môi trường. Ngay từ thời kỳ sơ khai con người đã nhận thức được mối quan hệ xuôi chiều này, con người đã sớm lệ thuộc vào tự nhiên vì khi đó, săn, bắt, hái lượm là nguồn thu nhập chính của con người. Đến thế kỷ 18, cuộc cách mạng công nghiệp đã biến công nghiệp trở thành một ngành phát triển rất nhanh về cả qui mô, phạm vi và tốc độ. Và hoạt động của ngành công nghiệp có những tác động mạnh mẽ nhất, làm biến đổi nhanh chóng môi trường thiên nhiên nhất. Các quá trình công nghiệp tạo ra những vòng tuần hoàn, chu chuyển mới của vật chất trong hệ thống “sản xuất công nghiệp – môi trường ” như sau:
Môi trường Sản xuất công nghiệp Chất thải công nghiệp
Sản phẩm có Ých
Quá trình tiêu dùng
Chất thải
Tốc độ sử dụng và khai thác tài nguyên động thực vật dùng cho chế biến công nghiệp nhanh hơn rất nhiều lần khả năng tự tái sinh của chúng, tốc độ khai thác tài nguyên khoáng sản của ngành công nghiệp khai thác cũng nhanh không kém và tốc độ này tăng không ngừng trong những năm gần đây. Nhìn chung hầu hết các ngành công nghiệp đều sử dụng lãng phí nguồn tài nguyên thiên nhiên. Tuy nhiên nguồn cung cấp này có giới hạn, không phải là vô hạn như người ta vẫn tưởng. Do đó, yêu cầu đặt ra là vấn đề khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Trong mối quan hệ với các hiện tượng xã hội, môi trường lại chịu sự chi phối, sự tác động mạnh mẽ bởi các hiện tượng này như vấn đề gia tăng dân số đã gây áp lực rất lớn với môi trường do các nhu cầu tiêu dùng tăng quá nhanh cộng với lối sống thiếu tính ổn định của tầng lớp giàu có cũng gây sức Ðp nhất định; nạn nghèo đói, thất nghiệp, trình độ dân trí thấp … cũng là những vấn đề đe dọa đối với môi trường.
Nh vậy, môi trường có vai trò hết sức quan trọng trong cuộc sống con người. Phát triển kinh tế không những gây ra những tác động trực tiếp tới môi trường mà còn có thể gây ra tác động gián tiếp do các hiện tượng xã hội phát sinh trong quá trình phát triển. Vì vậy, công tác bảo vệ môi trường luôn phải tiến hành song song với những hoạt động kinh tế - xã hội,tức là vấn đề về môi trường phải là vấn đề được đưa ra ngay khi bắt đầu lập kế hoạch của quá trình sản xuất.
1.4.Tình trạng ô nhiễm môi trường hiện nay
Ngày nay, các vấn đề về môi trường như ô nhiễm không khí, ô nhiễm nguồn nước, hiệu ứng nhà kính, mưa axit, lỗ thủng tầng ôzôn…không còn là vấn đề mới mẻ trên trái đất của chúng ta, chúng được đề cập thường xuyên hơn trên các phương tiện thông tin đại chúng, dù vậy chúng không những chưa được giải quyết mà còn có xu hướng gia tăng mạnh.
1.4.1.Một vài đánh giá chung về tình trạng ô nhiễm môi trường
Trong gần 20 năm nay, tầng ôzôn của trái đất có nhiều biến đổi, theo báo cáo của Tổ chức Khí tượng thế giới cho biết tầng ôzôn đã giảm tới mức thấp nhất trong 100 năm qua. Dự báo đến năm 2075 tầng ôzôn của khí quyển sẽ giảm xuống 40% so với năm 1985, do đó số người mắc bệnh ung thư da sẽ là 150 triệu người, đục thuỷ tinh thể sẽ là 18 triệu người, sản lượng mùa màng giảm 7,5%, tài nguên thuỷ sản tổn thất 25%, khả năng miễn dịch của cơ thể con người sẽ bị suy giảm nhiều. Nếu cứ tiếp tục nh vậy thì không bao lâu sau con người cũng nh các loài sinh vật khác đều sẽ bị huỷ diệt.
Nước của các biển và đại dương luôn bị ô nhiễm bởi các chất phế thải từ trên bờ, các đại dương đang dần trở thành “thùng rác” của trái đất.
Rác thải đang là một tai họa lớn của nhân loại trong thế giới hiện đại, rác thải tràn ngập khắp các lục địa, các đại dương và bầu trời của trái đất. Rác thải chủ yếu từ sinh hoạt, từ sản xuất đã trở thành vấn đề của nhiều nước. Hiện nay, mỗi năm trên thế giới có khoảng 2 tỷ tấn rác thải công nghiệp, trong đó có khoảng 500 triệu tấn có chất độc hại. Vấn đề về rác thải đang được liệt vào một trong mười vấn đề lớn nhất về môi trường.
Trên trái đất có hằng hà sa số các loại sinh vật gọi là tính đa dạng sinh học. Tuy nhiên, tính đa dạng bao gồm cả loài người Êy đang bị tổn thương nghiêm trọng: tính đến cuối thế kỷ này, toàn cầu sẽ có khoảng 100 loài sinh vật bị tuyệt chủng, đã có 75% giống cây trồng bị tuyệt chủng, trong 4500 loài gia súc và gia cầm có 1/3 đang có nguy cơ tuyệt chủng…Dự báo hai đến ba năm tới sẽ có khoảng 1/ 4 sinh vật trên trái đất lâm vào cảnh tuyệt chủng, đến năm 2050 tỷ lệ Êy có thể là 1/ 2, như vậy có nghĩa là mỗi ngày có khoảng 15 –150 loài biến mất.
Rừng nuôi dưỡng nhân loại và được coi là “lá phổi siêu cấp của thiên nhiên”, có thể nói không có rừng thì không thể có ngày nay của nhân loại. Thế nhưng ngày nay tài nguyên rừng đang ngày càng cạn kiệt, ở thời kỳ đầu văn minh của con người diện tích rừng khoảng 8 tỷ ha, đến thế kỷ 19 chỉ còn 5,5 tỷ ha, cuối thế kỷ 20 thì chỉ còn 2,6 tỷ ha, như vậy, cứ mỗi năm giảm đi 11 –15 triệu ha.
Nói riêng ở Việt Nam, rừng đang bị phá hoại nghiêm trọng và ngày nay cũng bị giảm sút nghiêm trọng, rừng nguyên thuỷ nước ta ban đầu có diện tích gần bằng diện tích cả nước giờ chỉ còn lại 66432 km2, độ che phủ từ 48% tổng diện tích cả nước chỉ còn 20% trong năm 1990, nói chung mỗi năm rừng Việt Nam bị mất khoảng 200.000 ha.
1.4.2. Tình trạng ô nhiễm môi trường do sản xuất công nghiệp
Quy mô sản xuất công nghiệp ngày càng mở rộng và tăng với tốc độ rất nhanh ( hàng loạt các ngành công nghiệp mới ra đời, số lượng các doanh nghiệp công nghiệp xuất hiện ngày càng tăng…) đã khai thác và sử dụng tài nguyên với khối lượng ngày càng lớn làm cho nguồn tài nguyên trở nên bị cạn kiệt.
Công nghiệp chế biến gỗ đã làm giảm tài nguyên rừng nghiêm trọng, diện tích rừng không ngừng bị thu hẹp, riêng ở nước ta diện tích rừng hiện nay chỉ còn trên 10%, theo ước tính hàng năm khai thác phá huỷ 60-200 ngàn ha…Công nghiệp chế biến với công nghệ hiện đại sử dụng nguồn tài nguyên còn lãng phí rất nhiều. Lượng chất thải lớn được thải ra từ công nghiệp trở lại môi trường dưới các dạng lý, hoá tính khác nhau. Những năm gần đây với công nghệ hiện đại, hoạt động sản xuất của con người thải vào không khí 110 triệu tấn SO2 ,69 triệu tấn NO2, 2 triệu tấn chì, 11000 tấn thuỷ ngân… Ở nước ta, sản xuất công nghiệp cũng đã thải ra một khối lượng lớn chất thải làm tăng dần ô nhiễm môi trường sinh thái ( khu công nghiệp Việt Trì hàng năm lượng nước thải từ các nhà máy lên tới 35 triệu m3 trong đó có chứa khoảng 100 tấn H2SO4, 4000 tấn HCl,…).
Công nghiệp khai thác tài nguyên khoáng sản phát triển nhanh đáp ứng nhu cầu trực tiếp của công nghiệp chế biến, vì thế đã góp phần làm giảm nguồn tài nguyên thiên nhiên một lượng đáng kể.
Ở các khu công nghiệp của Việt Nam thường tiêu thụ và thải ra một lượng lớn nước rất lớn có mức ô nhiễm cao, đến nay hầu như đều chưa có hệ thống xử lý nước thải tập trung hoàn chỉnhvà vận hành theo qui trình, mới chỉ có 5 khu công nghiệp có trạm xử lý nước thải tập trung là Loteco, Vedan ( Đồng Nai ), khu công nghiệp Việt Nam – Singapor (Bình Dương ), khu công nghiệp Nomura (Hải Phòng), khu công nghiệp Nội Bài ( Hà Nội ). Vì thế lượng nước thải ô nhiễm thải ra môi trường ngày càng tăng, theo tính toán hiện tại các khu công nghiệp trọng điểm phía Nam hàng ngày thải vào sông Sài Gòn, Đồng Nai khoảng 130.000 m3 nước thải trong đó có khoảng 23,2 tấn cặn lơ lửng, 7,5 tấn nitro, 1 tấn photpho và nhiều kim loại nặng…
Đo đạc thực tế tại một số khu công nghiệp cho thấy đã có một số khu bị ô nhiễm khí SO2 như các khu Thượng Đình (Hà Nội ), dệt Nam Định có nồng độ SO2 vượt tiêu chuẩn cho phép 3- 4 lần, một số khu công nghiệp thải nhiều khí SO2 gây hiện tượng lắng đọng axit cục bộ, làm môi trường đất xung quanh bị axít hoá.
Tuy nhiên, tình trạng ô nhiễm môi trường cũng thường xảy ra ở các cơ sởan xuất qui mô vừa và nhỏ do không được đầu tư nhiều, công nghệ còn lạc hậu, chưa chú trọng đến vấn đề xử lý ô nhiễm.
Ở Bắc Ninh hiện nay có khoảng 158 làng nghề truyền thống đang trong tình trạng báo động về ô nhiễm môi trường, trong đó có nhiều làng nghề nổi tiếng như làng mộc Đồng Kỵ ( Đồng Quang – Từ Sơn), làng tranh Đông Hồ, làng giấy Phong Khê…, các làng nghề đã khôi phục và phát triển góp phần nâng cao đời sống nhân dân, song nó cũng góp phần không nhỏ vào vịêc làm ô nhiễm môi trường. Một trong những làng nghề có nguồn nước thải khá lớn là làng giấy Phong Khê (Yên Phong) và khu vực sản xuất giấy Phúc Lâm (Tiên Du) với hơn 50 xí nghiệp và trên 70 phân xưởng sản xuất đã tạo ra 1200 – 1500 m3 nước thải; làng nghề Đa Hội, nơi có hơn 200 hộ sản xuất chuyên nghề sắt với qui mô xí nghiệp và hàng ngàn hộ sản xuất thủ công với qui mô nhỏ mỗi ngày đã thaỉi ra môi trường 2,5 – 3,5 tấn gỉ sắt cùng với 3500 – 4000 m3 nước thải…; vấn đề về ô nhiễm không khí phải kể đến làng nghề đúc nhôm ở Văn Môn ( Yên Phong), ở đâycó 80 hộ đúc thường xuyên, thời gian cao điểm lên tới 120 hộ với sản lượng 10 – 12 tấn một ngày, tuy không lớn nhưng khí thải và bụi lơ lửng đã phát tán khắp nơi làm cho bầu không khí ở khu vực này và các khu vực xung quanh bị ô nhiễm nặng…
Việc ô nhiễm môi trường làng nghề đã gây ra không Ýt bệnh tật cho những người sống trong các làng nghề đó. Tại các làng nghề ở Bắc Ninh, Nam Định, Hưng Yên trong 6 tháng đầu năm 2002 có gần 70 ca tai nạn lao động trong đó chủ yếu là bỏng và chấn thương chân tay, tại làng nghề Phong Khê (Bắc Ninh) hiện nay có khoảng 57% người dân bị các bệnh về đường hô hấp, khoảng 16% người dân mắc các bệnh ngoài da, 15,6% mắc bệnh đau đầu mất ngủ…, tại làng nghề Bát Tràng hiện nay có khoảng 65% người dân mắc các bệnh về hô hấp như xoang, viêm họng, viêm mũi…
Làng nghề ô nhiễm không còn là vấn đề của riêng khu vực nào mà đã trở thành tình trạng chung của cả nước vì trên thực tế do hạn chế về vốn và kỹ thuật nên ở đây chưa đặt vấn đễ xây dựng các dự án xử lý chất thải, khói bụi…vì thế tình trạng ô nhiễm là phổ biến.
Vậy chóng ta phải có hướng phát triển mới nh thế nào để có thể phát triển mà hạn chế những thiệt hại về môi trường, đây đang là vấn đề cấp bách cần giải quyết. Hiện nay, vấn đề phát triển bền vững ngày càng được quan tâm đúng mức?
1.5.Phát triển bền vững là nỗ lực của toàn nhân loại trước nguy cơ diệt vong
Đây không còn là khái niệm hoàn toàn mới mẻ, nó phản ánh xu thế của thời đại và định hướng tương lai của loài người. Phát triển bền vững được định nghĩa là sự phát triển lành mạnh, trong đó sự phát triển của cá nhân hay cộng đồng này không làm thiệt hại đến lợi Ých của cá nhân hay cộng đồng khác, sự phát triển của thế hệ hôm nay không làm thiệt hại đến lợi Ých của thế hệ sau, sự phát triển của loài người không đe dọa hay làm giảm nơi sinh sống của các loài khác trên hành tinh (các loài cộng sinh). Bởi vì sự sống còn của con người là dựa trên cơ sở khai thác tiềm năng của các loài khác, dựa trên cơ sở duy trì dược sản lượng, năng suất tự nh