1 Án lệ có từ bao giờ: Có thể nói một án lệ ra đời từ bao giờ là một câu hỏi mà câu trả lời không có một đoạn kết chính xác và làm hài lòng cho tất cả.
Với người Anh, họ sẽ cho rằng nước Anh là “quê hương”, là nơi ra đời của án lệ. Điều này cò thể được các luật gia, các nhà nghiên cứu, các chuyên gia trong lĩnh vực pháp luật ở Anh, và các nứơc theo truyền thống Thông luật (Common law) giải thích với lý do:
Thứ nhất, truyền thống pháp luật Anh là truyền thống của Thông luật – pháp luật đựơc hình thành chủ yếu bằng con đường xét xử;
Thứ hai, Thông luật ở Anh đựơc hình thành từ rất sớm, từ năm 1066;
Thứ ba, pháp luật Anh đã đựơc lan truyền khắp thế giới chủ yếu bằng con đưòng mở rộng thuộc địa của Đế quốc Anh, và bằng con đường tự tiếp nhận, từ đó đã hình thành trên thế giới hệ thống pháp luật Common Law ( Thông luật);
Và lý do quan trọng nữa là, nước Anh là nước sử dụng án lệ điển hình nhất.
Đó chỉ là lập luận của những “ngưòi Anh”, hay một số học giả khác. Nếu chúng ta nghiên cưú chính trong pháp luật Anh, và xem đến tận cùng của vấn đề, chúng ta sẽ thấy có một điều mà ngưòi Anh đã tự công nhận nguồn gốc của án lệ. Ta có thể thấy rằng, án lệ đã ra đời trước đó (trứơc năm 1066), án lệ có nguồn gốc từ trong pháp luật La mã_tức nó đã có từ thời kỳ La MÃ cổ đại. Điều này đựoc minh chứng rõ và không thể phủ nhận đựơc trong việc áp dụng học thuyết án lệ ở Anh, với quy tắc bất thành văn Stare Decisis-tức là quy tắc tôn trọng tiền lệ. Nếu không có án lệ thì làm sao có sự tôn trọng tiền lệ, để rồi ra đời học thuyến về quy tắc án lệ trong pháp luật La Mã cổ đại. Và có thể thấy một ví dụ cho việc ra đời một nguyện tắc, trở thành một khuôn mẫu trong xét xử đối với các vụ án tử hình đã có từ thời kỳ La Mã cổ đại. Đó là nguyện tắc:” trong khi xét xử vụ án tử hình, nếu tất cả các thành viên phán xét ( ngày nay, có thể là hội đồng xét xử, hay là Hội đồng thẩm phán) ngay lập tức bỏ phiếu đồng ý với bản cáo trạng thì bị cáo sẽ đựoc tuyên vô tội (trắng án). Chỉ khi có ngưòi đau ra một lập luận ủng hộ ngưòi bị xét xử đó (bị cáo) và lập luận đó bị tất cả các thành viên còn lại đồng ý với bảo cáo trạng xử tử hình, thì bị cáo mới bị xử tử hình”- nguyên tắc không nhất trí trong páhp luật La Mã xưa.
9 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1542 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề án Nguồn gốc án lệ và thực chất vấn lệ ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGUỒN GỐC ÁN LỆ VÀ THỰC CHẤT VẤN ĐỀ ÁN LỆ Ở VIỆT NAM
NGUYỄN TẤN DŨNG – Lớp HC29A – Đại học Luật TPHCM
1 Án lệ có từ bao giờ: Có thể nói một án lệ ra đời từ bao giờ là một câu hỏi mà câu trả lời không có một đoạn kết chính xác và làm hài lòng cho tất cả.
Với người Anh, họ sẽ cho rằng nước Anh là “quê hương”, là nơi ra đời của án lệ. Điều này cò thể được các luật gia, các nhà nghiên cứu, các chuyên gia trong lĩnh vực pháp luật ở Anh, và các nứơc theo truyền thống Thông luật (Common law) giải thích với lý do:
Thứ nhất, truyền thống pháp luật Anh là truyền thống của Thông luật – pháp luật đựơc hình thành chủ yếu bằng con đường xét xử;
Thứ hai, Thông luật ở Anh đựơc hình thành từ rất sớm, từ năm 1066;
Thứ ba, pháp luật Anh đã đựơc lan truyền khắp thế giới chủ yếu bằng con đưòng mở rộng thuộc địa của Đế quốc Anh, và bằng con đường tự tiếp nhận, từ đó đã hình thành trên thế giới hệ thống pháp luật Common Law ( Thông luật);
Và lý do quan trọng nữa là, nước Anh là nước sử dụng án lệ điển hình nhất.
Đó chỉ là lập luận của những “ngưòi Anh”, hay một số học giả khác. Nếu chúng ta nghiên cưú chính trong pháp luật Anh, và xem đến tận cùng của vấn đề, chúng ta sẽ thấy có một điều mà ngưòi Anh đã tự công nhận nguồn gốc của án lệ. Ta có thể thấy rằng, án lệ đã ra đời trước đó (trứơc năm 1066), án lệ có nguồn gốc từ trong pháp luật La mã_tức nó đã có từ thời kỳ La MÃ cổ đại. Điều này đựoc minh chứng rõ và không thể phủ nhận đựơc trong việc áp dụng học thuyết án lệ ở Anh, với quy tắc bất thành văn Stare Decisis-tức là quy tắc tôn trọng tiền lệ. Nếu không có án lệ thì làm sao có sự tôn trọng tiền lệ, để rồi ra đời học thuyến về quy tắc án lệ trong pháp luật La Mã cổ đại. Và có thể thấy một ví dụ cho việc ra đời một nguyện tắc, trở thành một khuôn mẫu trong xét xử đối với các vụ án tử hình đã có từ thời kỳ La Mã cổ đại. Đó là nguyện tắc:” trong khi xét xử vụ án tử hình, nếu tất cả các thành viên phán xét ( ngày nay, có thể là hội đồng xét xử, hay là Hội đồng thẩm phán) ngay lập tức bỏ phiếu đồng ý với bản cáo trạng thì bị cáo sẽ đựoc tuyên vô tội (trắng án). Chỉ khi có ngưòi đau ra một lập luận ủng hộ ngưòi bị xét xử đó (bị cáo) và lập luận đó bị tất cả các thành viên còn lại đồng ý với bảo cáo trạng xử tử hình, thì bị cáo mới bị xử tử hình”- nguyên tắc không nhất trí trong páhp luật La Mã xưa.
Vấn đề này được tuyên và hình thành một nguyên tắc xét xử ở thời kỳ cổ đại là do:
Nguyên tắc trên đã đựoc đảm bảo rằng, các bị cáo khi bị xét xử sẽ đựoc thực hiện theo một quy trình nhất định, tức là, sau khi các thành viên xét xử tranh tụng và trứoc khi đưa ra phán quyết nào, các thành viên sẽ pahỉ dành một đêm tiếp tục tranh luận theo từng cặp để tìm ra lí lẻ bào chữa cho ngưòi bị xem là có tôi. Điuề này có nghĩa, là páhp luật đã coi trong việc một bị cáo có cơ hội được tha tội;
Nguyên tắc này là một cách để các thành viên xét xử phỉa đưa ra ít nhất một lập luận để bảo vệ ngưòi bị xét xử. Nếu tất cả đều vội vàng kết tôi thì sẽ nảy sinh vấn đề không biết liệu cả hai mặt lập luận có được xem xét nghiêm túc hay không, điều này sẽ dảm bảo cho một thủ tục được tiến hành để đảm bảo rằng sẽ có tranh cõi – tức là hai mặt lập luận đã được pâhn tích và tất cả mọi dữ kiện điều đã được trình bày.
Vấn đề còn lại của việc tuyên tử hình để đảm bảo chính xác và công lý là cần có một ngưòi-thành viên xét xử phải pảhn đối kịch liệt lại những lập lập chống án tử hình đối với ngưòi bị xét xử. Do đo, mà trong khi xét xử ở La Ma thời kỷ cổ đại đã hình thành nên một ngưòi pảhn biện, gọi là ngưòi chống đối trung thành.
2. Lịch sử án lệ ở Việt Nam:
Câu hỏi ở Việt Nam đã có án lệ chưa? Và rất nhiều câu trả lời là chưa? Và tắc giả viết bài này xin nói rằng, Việt Nam đã từng có Án lệ, nhưng hiện hại trong hệ thống pháp luật, thì án lệ không được công nhận trên lý luận, cũng như trong thực tiễn áp dụng pháp luật ở Việt Nam.
Xin khẳng định rẳng, trên đất nước Việt Nam, trong lịch sử, từ thời kỳ sau năm 1858- năm thực dân Pháp xâm lược Việt Nam và bắt đầu chiếm đống đô hộ, đến trước năm 1975 – năm Việt Nam hoàn toản giải phóng khỏi ách thống trị của những nước xâm lược, thì đã từng có án lệ. Điều này được viết với sự khách quan, và tìm hiểu vấn đề không dựa trên một ý muốn gì, mà chỉ dựa trên quan điểm khoa học,và những gì đã có trong lịch sự cảu nước Việt Nam . Điều này sẽ được minh chứng, đó là với những lý do:
Thứ nhất, Việt Nam đã là thuộc địa cụa Pháp trong hơn 80 năm, và ở minề Nam Việt Nam đã từng có một “ nhà nước thân Mỹ” trong một thời gian dài. Mà những điều này đả ảnh hưởng rất lớn đến xã hội, chính trị, và cả nên pháp luật của Việt Nam;
Thứ hai, Pháp và đặc biệt là Mỹ, đã là những quốc gia mà án lệ dù thế nào cũng đã có, được thừa nhận với những giá trị bắt buộc riêng. Vậy trong thời gian dô hộ đó, thử hỏi, Việt Nam có thể không chịu ảnh hưởng của ít nhất là về mặt tư tưởng về vấn đề án lệ trong pháp luật không?
Thứ ba, xin đưa ra hai ví dụ về án lệ ở Việt Nam thời kỳ đó, để chứng tỏ là Việt Nam đã từng có án lệ: Ví dụ thứ nhất, được minh chứng trong một án lệ hành chính: đây có thể nói là một án lệ thể hiện cho sự tiếp thu và quá trình “phap luật hoá” của thực dân Pháp sau khi đô hộ Viêt Nam, việc này vừa để thống trị, vừa để cho thấy tính thích nghi của mộ hình án lệ hành chính của Pháp.
Án lệ của Tham Chính viện , phiên toà ngày 11 tháng 6 năm 1956 về vụ Công ty xe điện Autobus ( CFTI ) k/ Toà đại biểu Chính phủ tại Việt Nam.
Trong án văn hành chính này, Tham chính viện đã căn cứ vào:
- Chiếu dụ sô 5 ngày 18/10/1949 tổ chức tối cao pháp viện;
- Chiếu dụ số 38 ngày 9/11/1954 tổ chức tham chính viện thay thế ban hành chi\ánh tối cao páhp viện;
- Chiếu dụ sô 2 ngày 3/1/1960 tổ chức toà hành chình;
- Chiếu dụ số 26 ngày 8/11/1954 sửa đổi dụ số 2 ngày 5/11/1950 nói thêm;
- Chiêu dụ hợp đồng lý kết ngày 18/10/1935 giữa thủ hiến Nam Viết và công ty xe điện và Ô tô buyt ở Sài Gòn, Chợ lớn;
- Chiếu bản phán quyết của uỷ ban trọng tài ngày 9/7/1954;
- Chiếu án lệnh ngày 21/8/1954 của ông Chánh án dự khuyết toà án hành chính hỗn hợp Đà Lạt. Cho thi hành bản phán quyết cùa Uỷ ban trọng tài ngày 9/7/1954 vô giá trị và phải huỷ bỏ;
- Chiếu chi công ty xe điện và ô tô buyt thỉnh cầu trong đơn khuyến cáo xin tạm hoãn thi hành bản án ngày 20/1/1956 của toà án Hành chính đã tuyên xử huỷ bỏ phán quyết cvủa uỷ ban trọng tài ngày 9/7/1954;
- Chiếu chi theo nguyên tắc, sự kháng cáo không đình chỉ hiệu lực của bản án hành chính;
- Chiếu chi theo cuộc thẩm cứu và các tài liệu dệ nạp trong hồ sơ thì dầu có cjho rằng sự thi hành ngay bản án sơ thẩm có thể gây cho công ty nguyên kháng sự thiệt hại đi chăng nữa , sự thiệt hại này , xét ra không phải là không đền bù được.
Từ những căn cứ trên, Tham chính viện đã ra quyết định:” Bác lời thỉnh cầu của công ty nguyên kháng xin tạm hoãn thi hành bản án lọnh kháng cáo”.
Sau khi phán quyết này ra đời, đã khẳng định lại nguyên tắc cơ bản của Luật hành chính thời đó là:” những bản án của toà hành chính có hiệu lực chấp hành đương nhiên, trừ trường hợp ngoại lệ là bản án của Toà hành chính bị tuyên hoãn thi hành khi buộc có 2 điều kiện:
Thứ nhất, đơn khiếu nại (kháng cáo) phải căn cứ vào các lý do đúng đắn; và
Thứ hai, sự thi hành bản án bị chỉ trích có thể gây ra một sự thiệt hại không thể đền bù được.
Trong vụ án do Tham Chính viện giải quyết trên, bên nguyên đơn đã có đủ điều kiện thứ nhất, nhưng về điều kiện thứ hai, tham chính viện đã cho rằng mặc dầu bản án của Toà đại biểu chính phủ tai Viet Nam có thể gây ra cho công ty Autobus(CFTI) một sự thiệt hại chăng nữa, thì sự thiệt hại ấy có thể đền bù bằng một số tiền bồi thường, nên đã bác đơn thỉnh cầu xin tạm hoãn thi hành bản án của toà hành chính trên.
Chính quyết định này của Tham chính viện đã tạo thành một tiền lệ cho các vụ án tương tự về sau.
Trên đây là vì dụ về một vụ án hành chính, đã hình thành nên một án lệ hành chính trong thực tiễn pháp luật ở Việt Nam thời kỳ đó. Dưới đây là một vì dụ điển hình cho một án lệ trong lĩnh vực hôn nhận gia đình thời xưa ớ Việt Nam .
Trong những tranh chấp về lĩnh vực hôn nhân gia đình, do đây là một quan hệ dân sự, có sự đa dạng , diến đổi, và rất phong phú, nên để co một án lệ chính thức, đã pahỉ trải qua một thời gian dài xét xử nhiều vụ án khác nhau, với nhiều án văn khác nhau. Trong phần vì dụ này, người viết đề cập đến án lệ của Toà thượng thẩm Sài Gòn về vấn đề tài sản riêng cùa người vợ, trong vụ Diệp Thuận PHong k/ Thái Thị Liên, trong án văn cuối cùng ra ngày 30 tháng 11 năm 1961 đã ra quyết định dứt khoát một án lệ cộng nhận rằng “người đàn bà có chồng được quyền có sản nghiệp riêng”.
Để có được án lệ trên, từ trước đã có các bản án hay án lệ đối nghịch nhau về quyền tài sản riêng của người vợ trong thời kỳ hôn nhận. Việc có các án văn đối nghịch nhau về cùng một vấn đề tương tự này là do xuất phát từ hai học thuyết và vào một thời kỳ khác nhau, mà mỗi học thuyết lại tác động tạo ra các bản án khác nhau. cụ thể là:
Học thuyết thứ nhất, theo nguyên tắc người chồng là chúa tể tuyệt đối của tất cả tài sản vọ chồng , bất kể là của ai, hay ở đâu, hay được có như thế nào. Đó là hậu quả của tổ chức gia đình Việt Nam chịu ành hưởng của tư tưởng páhp lậut và “văn hoá” phong kinế, trong đo người phụ nữ nói chúng, và người vợ nói riêng có địe vị thấp kém hơn người dàn ông, hay người chồng. Điều này đã được khẳng định trong Bộ luật Gia Long:” người chồng có quyền tự ý sử dụng của cải của người vợ, dù người vợ không đồng ý “ vì luật pháp cấm không cho người vợ đi kinệ người chồng.
Học thuyết này được thể hiện trong cac án văn, án văn của Toà thượng thẩm Sài Gòn ngay 8/9/1891, đặc biết là một bản án đáng chú ý là án văn nggày 17/7/1938 trong vụ thạch Long k/ Thị Lý của Toà Thượng thẩm Sài Gòn, đã khẳng định vững chắc là người vợ không có quyền có tài sản riêng.
Học thuyết thứ hai, cũng đã song song tồn tại với học thuyết thứ nhất, có quan niệm rằng, người vợ trong gia đình Việt Nam có của cải riêng. Lập luận này được đưa ra là do, không một ai dám mua tài sản riêng của vợ nếu người vợ không đồng ý, dù người vợ không có quyền đi khởi tố người chồng, thì có thể họ hang của người vợ sẽ khởi tố thay. Và tòa an theo tục lệ sẽ huỷ bỏ hợp đồng trên nếu không có lý do chính đáng từ phía người chồng; ngoài ra, theo luật tuc thì người vợ được ghi tên vào sổ thuế đối với những của cải riêng của mình, đó là một cách khẳng định quyền sỡ hữu của người vợ, và ý nghĩa đảm bảo của páhp luật đối với quyền đó.
Học thuyềt này được thể hiện trong các bản án: án văn CS ngày 24/3/1921 ( J.J 1921 trang 388, vụ Nguyễn Văn Lung k/ Đinh Thị Lợi)- đây là án văn đánh đâu sự chuyện hướng về thuyết người vợ có tài sản riêng; Án văn Cs ngày 6/6/1939 – J.J 1929- 3/78 Trần Thị Vi, Nguyễn Văn Huê k/ Maya pachatty, nói tài sản mà vợ thừa hưởng từ thừa kế riêng không thể là tài sản chung của vợ chồng, vì thế không thể dung để trả nợ thay cho chồng.
Đó là hai học thuyết đã cũng tồn tại trong một thời gian dài, nhưng từ sau bản án được tuyên ngày 30/11/1961 về vũ Diệp thuận Phong k/ Thái Thị Liên của Toà Thượng thẩm Sài Gòn đã khẳng định quyền có tài sản riêng của người vợ trong thời kỳ hôn nhận. Điều này đã tạo ra một án lệ, mà về sau các vụ án tương tự tranh chap về tài sản vợ chồng, và quyền có tài sản của người vợ. Nhưng, để ra một án lệ như trên, toà Thượng Thẩm Sài Gòn đã pahỉ tuyên, dự trên một loạt các lý do:
- Thứ nhất, chiếư chi Luật Gia Long theo sự khảo cứu của nhiều luật gia đã ghi chép lại gần như nguyên văn Bộ luật Mãn Thanh của Trung Quốc, như vậy chưa cắc đã là phản ảnh thực sự phong tực Việt Nam;
- Tiếp theo là lý do, dù sao phong tục xã hội đã thay đổi và quan niệm do đó người đàn bà chỉ được hưởng một tình trạng pháp lý thua kếm người đàn ông là một thành kinế lỗi thời, không còn thích hợp với sự tiến hoá đã thực hiện;
- Chiếu chi vào hai bộ Dan luật Bắc Va Dan luật trung- là hai bộ luật giải quyết những vần đề về hôn nhân gai đình đã căn cứ vào phong tục chắc chắn của Việt Nam, và nay hai bộ luật ấy không còn ý do gì mà không thể áp dụng cho việc giaỉa quyết các vụ việc ở Nam phàn khi mà vấn đề chính trị , Nam phần không còn là thuộc địa của Pháp nữa;
- Lý do khác, trào lưu tiến hoá trong xã hội Việt Nam đã đẵt người dàn bà vào địa vị ngang hàng với người dàn ông, luật ngày 2/1/1959, điều 43 công nhận cho người đàn bà có chồng cũng có năng lcự pháp lý đầy đủ; điều 5 Hiến páhp công nhận sự bình đẳng giữa các công dân không phân biệt Nam Nữ theo như đúng tinh thần Hiến chương Liên Hợp Quốc;
Với những lý do chính đáng trên , mà không thể áp dụng luật Gia Long cho thân thế người vợ, và phaỉ công nhận rằng người đàn bà có chồng cũng có quyền có tài sản riêng. Tài sản này chỉ tạm thời hợp nhập vào khối tài sản công cộng, nhưng không thể biến thể để hợp nhất với tài sản của người chồng thuộc quyền sỡ hữu duy nhất của người này.
Từ đây một án lệ đã được hình thnàh trong lĩnh vực hôn nhân gia đình ở Việt Nam .. Như vậy, với các minh chứng trên, có thể khẳng định rằng, trong suốt một thời kỳ dài, Việt Nam đã từng có án lệ và công nhận án lệ là một nguồn của páhp luật. Nhưng từ sau năm 1975, đất nước thống nhất, nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra đời, thì án lệ không được xem là một nguồn trong hệ thống pháp luật của Việt Nam, vì lúc này khẳng định, chỉ có lập páhp mới làm luật, và văn bản quy phạm páhp luật được thừa nhận là nguồn duy nhất của páhp luật Việt Nam.
3. Những vấn đề thực tiễn trong việc giải thích pháp luật và công khai các bản án ở Việt Nam hiện nay:
3.1.Giải thích pháp luật và thực trạng giải thích pháp luật ở Việt Nam hiện nay:
Nước ta có một hệ thồng pháp luật mà trong đó, chỉ công nhận văn bản quy phạm páhp luật là hình thức duy nhất của pháp luật, do đó, để đảm bảo đưa các quy phạm mang tính khái qúat cao vào cuộc sống, đồng thời các quy phạm này không pahỉ lúc nào cũng rõ rang, dễ hiểu và hoàn toàn phù hợp với thực tiễn, do đó mà cần đến quá trình làm rõ, hướng dẫn, hay đúng hơn là quá trình giải thích pháp luật. Hoạt động giaỉ thích pháp luật được hiểu là,” nhằm làm sang tỏ về mặt tư tưởng, nội dung và ý nghĩa của các quy phạm pháp luật , đảm bảo cho sự nhận thức và thực hiện nghiệm chỉnh, thống nhất pháp luật”.
Họat động giải thích pháp luật, là hướng đến chủ thể thứ hai, để họ nhận thức và thực hiện chúng một cách đúng đắn. Ở Việt Nam, cũng như nhiuề nước khác trên thế giới, hoạt động này, nếu do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì nó sẽ có giá trị bắt buộc, còn nếu, hoạt động giải thích pháp luật do các nhà nghiên cứu, bình luận thì chỉ mang tính khoa học mà không có giá trị mang tính bắt buộc thực hiện đối với các hành vi của chủ thể.
Tuy nhiên, hiện nay ở nước ta việc hoạt động giải thíhc pháp luật không đáp ứng đựơc các yêu cầu của lý luận cũng như thực tiễn.
Về thực tiễn, ở Việt Nam, khi một đạo luật có hiệu lực thì cơ quan cấp xã , huyện phải chờ văn bản hướng dẫn của cơ quan cấp tỉnh; cơ quan cấp tỉnh lại phải chờ văn bản hướng dẫn của cơ quant rung ương thì mới được thi hành. Điều này bị dẫn đến các đạo luật bị mất hiệu lực trực tiếp, đạo lậut phải chờ Nghị định , thong tư, công văn trong một thời gian rất dài thì mới được thi hành trên thực tế sau khi có hiệu lực, nhất là Hiến pháp- thường trong cuộc cống páhp lậut Việt Nam, các cơ quan nà nước ít viện dẫn, ít đưa Hiến pháp vào quá trình áp dụng páhp lậut, cũng như các toà án khi tuyên án thường không có một căn cứ nào về hiến pháp trong bản án. Ngoài ra, thực tiễn cho thấy, giá trị thực tế của Nghị định và thong tư còn cao hơn cả luật, nếu có mâu thuẫn giữa luật và văn bản hướng dẫn thì thường, các cơ quan nhà nước lại theo các văn bản hướng dẫn đó. Những việc này xảy ra, phần lớn là do hoạt động giải thích páhp luật chưa có những nguyên tắc rõ ràng, và không hợp lý khi giao cho các cơ quan.
Trong quy định của Hiến pháp, khoản 3 điều 91 của Hiến pháp năm 1992 quy định: “Ủy ban Thường vụ quốc hội có quyền giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh”. Một quy định trên văn bản cao nhất của một quốc gia, nhưng tfrên thực tế, Uỷ ban thường vụ quốc hội lại không sử dụng hay thực hiện quyền này nhiuề, mà nhu cầu giải thích thì rất lớn, vì các các văn bản lập páhp do Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội nước ta ban hành thường mang tính chung chung, hiến chương,”biểu ngữ”, mà tính quy phạm, thực tế thì lại không cao.
Việc Uỷ ban thường vụ quốc hội không thực hiện nhiuề quyền này vì với tư cách là một cơ quan thường trực của Quốc Hội không chuyên trách , nên phảo thực hiện nhiều việc quan trong hơn. Hơn thế nữa, chính uỷ ban thường vụ quốc hội là một bộ pậhn giữ vai trò rất lớn trong việc thong qua luật, dặc biệt là có quyền ban hành các phá lệnh, vì vậy, hoạt động giải thích pháp luật của quốc hội sẽ có khi lại là” do mình làm, thì đã rồi, còn giải thích chi nữa”.
Nếu Uỷ ban thường vụ quốc hội không đảm bảo việc giải thích pháp luật của mình theo quy định, thì một điều ngược lại đã xảy ra đối với hoạt động giải thíhc páhp luật của các cơ quan hành chính. Ở nước ta, các cơ quan hành chính thực hiện hoạt động giaỉ thích pháp luật là nhiuề nhất hơn cả cơ quan tư pháp là toà án. Các cơ quan hành chính ở Việt Nam, bên cạnh việc thực hiện chức năng do cơ quan lập páhp giao, đặc biết là tront vấn đề mà các luật mang tình khát quát, chung chung, trừu tượng không đáp ứng kịp thời các quan hệ xã hội, và thực tiễn, bên cạnh việc thực hiện ra các quy định chi tiết hóa các quy định đó theo uỷ quyền, thì các cơ quan hành chính này lại lấn sang cả vấn đề “làm luật”, hay giải thích luật vựot quá uỷ quyền, đó là việc ban hành các quy định để định nghĩa các khái niệm.
Điều này còn dẫn tới một tình trạng không mong muốn đã xảy ra là, luật, pháp lệnh được ban hành nhưng không có hiệu lực trực tiếp, mà phải chờ và thực hiện theo những khía niệm, định nghĩa, và hướng dẫn do các cơ quan hánh chính ban hành hướng dẫn. Các đạo luậtt đã không còn đóng vai trò chủ đạo trong hệ thống pháp luật, mà thay vào đó là một đời sống pháp luật nghị định và thông tư.
Có thể nói rằng, hoật động giải thích pháp luật bất cập nhất ở Việt Nam hiện nay, là không có một quy định cụ thể, rõ rang, trong việc trao thẩm quyền giải thích páhp lậut cho Toà àn trong Hiến pháp cũng như các đạo luật. Ở hầu hết các nước trên thế giới, cũng như trong tư tưởng lập pháp ở Việt Nam điều luôn công nhận và xem hoạt động giaỉ thích páhp luậtt do toà án thực hiện là chính và chủ đạo, tuy nhiên đĩều đó cũng không có nghĩa là không cò một quy định cho thẩm quyền này của toà án.
Toà án bất cứ nơi đâu và khi nào, từ khi ra đời đã là một thiết chế giữ vai trò bảo vệ pháp lậut , và vì công lý, vì vậy, trao thẩm quyền giải thích pháp luật cho Toà án là một hiển nhiên, và còn cũng cố hôn cho điều này trên các lý do:
Thứ nhất, so với lập pháp và hành pháp thì tư páhp được thành lập và hoạt động độc lập với đời sống chính trị cao hơn. Sự độc lập này là dặc trưng của toà án để bảo vệ công lý . Toà án với tư cách là trọng tài, sẽ thực hiện việc giải thích pháp luật, phán xét theo pháp luật cộng bằng và hợp lý hơn;
Thứ hai, các quy phạm pháp luật thường khó hiểu đối với những người dân bình thường, và có khi là ngay cả những ngưòi nghiên cứu pháp luật, nên muốn làm rõ nội dung, tư tưởng của các quy phạm đó phaỉ có chuyện môn, về lý luận, cũng như về thực tiễn. Điều này sẽ được đảm bảo, vì các Thẩm phán là những người được đào tạo chuyên môn, và là những người hoật động lâu năm trong công tác pháp luật và công tác xét xử, do đó sẽ giải thích pháp luật đúng và phù hợp nhất với yêu cầu;
Thứ ba, chân lý là cái gì đó cụ thể vào thực tiễn, chứ không phaỉ là cái mơ hồ, xa vời. Toà án với việc giaỉ quyết mỗi vụ án hằng ngày trong thực tiễn , nên dễ đáp ứng yêu cầu này thì toà án là cơ quan tốt nhất phải được trao quyền giải thích pháp luật;
Thứ tư, Toà án so với cơ quan lập pháp (Quốc hội, và Uỷ ban thường vụ quốc hội) và cơ quan hành pháp ít có nguy cơ lạm dụng quyền hơn. Mà giải thích pháp luật thường sinh ra lạm quyền, cắt xắn, hạn chế quyền tự do của con người, và công dân. Do đó, trao giải thích pháp luật cho Toà án là cách để giữ gìn cán câ