Ngân hàng thương mại (NHTM) là doanh nghiệp đặc biệt, kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng - Một tổ chức cung ứng vốn chủ yếu và hữu hiệu của nền kinh tế. Việc tạo lập, tổ chức và quản lý vốn của NHTM là một trong những vấn đề được quan tâm hàng đầu không chỉ vì lợi ích riêng của bản thân các NHTM mà còn vì sự phát triển chung của nền kinh tế.
Thực tiễn thị trường tài chính Việt Nam trong những năm gần đây đang chứng kiến bước phát triển vượt bậc của các NHTM. Các NHTM không ngừng tăng vốn, tăng dư nợ tín dụng, mở rộng mạng lưới chi nhánh hoạt động.nỗ lực cải thiện tình hình hoạt động của bản thân để có thể đứng vững trước yêu cầu cấp bách của đời sống kinh tế xã hội đất nước, trước sự cạnh tranh gay gắt của thị trường trong nước và quốc tế. Xuất phát từ những yêu cầu cấp thiết đó, đặt ra cho các NHTM là phải xây dựng các chiến lược tìm kiếm , huy động vốn đồng thời phải quản lý chặt chẽ tình hình nguồn vốn nhằm tiếp tục duy trì củng cố và mở rộng thị phần, nâng cao năng lực cạnh tranh và tiềm năng của ngân hàng.
Trong khuôn khổ đề tài “Nguồn vốn và quản lý nguồn vốn của Ngân hàng thương mại ” xin giải quyết 3 vấn đề cơ bản. Chương thứ nhất trình bày lý luận về Nguồn vốn và quản lý nguồn vốn trong hệ thống NHTM trên phương diện chung. Chương thứ hai xem xét tình hình nguồn vốn của NHTM Việt Nam trong những năm gần đây và chương thứ ba dựa trên cơ sở thực trạng đã phân tích, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm tạo lập vốn và quản lý vốn cho NHTM một cách hiệu quả.
Trong quá trình viết, chắc chắn em sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của thầy cô và các bạn nhằm giúp cho đề án của em được hoàn thiện hơn.
53 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1401 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Nguồn vốn và quản lý nguồn vốn của ngân hàng thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỀ TÀI: NGUỒN VỐN VÀ QUẢN LÝ NGUỒN VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
LỜI MỞ ĐẦU
Ngân hàng thương mại (NHTM) là doanh nghiệp đặc biệt, kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng - Một tổ chức cung ứng vốn chủ yếu và hữu hiệu của nền kinh tế. Việc tạo lập, tổ chức và quản lý vốn của NHTM là một trong những vấn đề được quan tâm hàng đầu không chỉ vì lợi ích riêng của bản thân các NHTM mà còn vì sự phát triển chung của nền kinh tế.
Thực tiễn thị trường tài chính Việt Nam trong những năm gần đây đang chứng kiến bước phát triển vượt bậc của các NHTM. Các NHTM không ngừng tăng vốn, tăng dư nợ tín dụng, mở rộng mạng lưới chi nhánh hoạt động....nỗ lực cải thiện tình hình hoạt động của bản thân để có thể đứng vững trước yêu cầu cấp bách của đời sống kinh tế xã hội đất nước, trước sự cạnh tranh gay gắt của thị trường trong nước và quốc tế. Xuất phát từ những yêu cầu cấp thiết đó, đặt ra cho các NHTM là phải xây dựng các chiến lược tìm kiếm , huy động vốn đồng thời phải quản lý chặt chẽ tình hình nguồn vốn nhằm tiếp tục duy trì củng cố và mở rộng thị phần, nâng cao năng lực cạnh tranh và tiềm năng của ngân hàng.
Trong khuôn khổ đề tài “Nguồn vốn và quản lý nguồn vốn của Ngân hàng thương mại ” xin giải quyết 3 vấn đề cơ bản. Chương thứ nhất trình bày lý luận về Nguồn vốn và quản lý nguồn vốn trong hệ thống NHTM trên phương diện chung. Chương thứ hai xem xét tình hình nguồn vốn của NHTM Việt Nam trong những năm gần đây và chương thứ ba dựa trên cơ sở thực trạng đã phân tích, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm tạo lập vốn và quản lý vốn cho NHTM một cách hiệu quả.
Trong quá trình viết, chắc chắn em sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của thầy cô và các bạn nhằm giúp cho đề án của em được hoàn thiện hơn.
CHƯƠNG 1
NGUỒN VỐN VÀ QUẢN LÝ VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Nguồn vốn của Ngân hàng thương mại
Nguồn vốn của ngân hàng thương mại là toàn bộ các nguồn tiền tệ mà ngân hàng tạo lập, huy động được để cho vay, đầu tư và thực thi các dịch vụ ngân hàng. Nguồn vốn của NHTM bao gồm: Vốn chủ sở hữu , Vốn huy động, Vốn đi vay và một số vốn khác.
1.1.1. Vốn chủ sở hữu
* Khái niệm: Vốn chủ sở hữu (VCSH) hay còn gọi là vốn tự có là số vốn thuộc quyền sở hữu của NHTM. Đó là nguồn tiền đóng góp chủ yếu bởi những người chủ ngân hàng và nó còn được tạo ra trong quá trình kinh doanh dưới dạng lợi nhuận giữ lại. Vốn chủ sở hữu của NH bao gồm nhiều loại khác nhau và được phân thành vốn cấp 1 (vốn cơ bản) được xem là sức mạnh và tiềm lực thực sự của ngân hàng ; Vốn cấp 2 (vốn bổ sung) được giới hạn tối đa bằng 100% vốn cấp 1.
1.1.1.1.Thành phần vốn chủ sở hữu
a) Vốn cấp 1
Vốn cấp 1 bao gồm:
Vốn điều lệ (Satutory Capital)
- Đây là số vốn được ghi trong điều lệ hoạt động của NHTM. Vốn điều lệ của mỗi ngân hàng được hình thành do tính chất sở hữu của ngân hàng quyết định, tức là nguồn vốn này có thể do Nhà nước cấp hoặc huy động từ các cá nhân trong xã hội.
+ Nếu là NHTM Nhà nước, vốn điều lệ do ngân sách nhà nước cấp khi thành lập.
+ Nếu là NHTM Cổ phần, vốn điều lệ do sự đóng góp của các cổ đông dưới hình thức phát hành cổ phiếu (Cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi vĩnh viễn)
+ Nếu là NH Liên doanh, vốn điều lệ là vốn đóng góp cổ phần của các ngân hàng tham gia liên doanh.
+ Nếu là Chi nhánh NH nước ngoài hoạt động ở Việt Nam, vốn điều lệ là do NH mẹ ở nước ngoài cấp.
- Không tính vào chỉ tiêu này số vốn đã được các chủ sở hữu cam kết nhưng chưa cấp đủ, góp đủ.
- Vốn điều lệ nhiều hay ít phụ thuộc vào khả năng tài chính của các chủ sở hữu và ý đồ thành lập NH với quy mô, phạm vi hoạt động khác nhau. Vốn điều lệ của mỗi NH ít nhất phải bằng mức vốn pháp định, là số vốn do Chính phủ quy định trong từng thời kỳ cho từng loại hình NH. Trong quá trình hoạt động, các ngân hàng có thể tăng thêm vốn điều lệ nhưng phải công bố công khai vốn điều lệ mới. Cụ thể NHTM Cổ phần có thể phát hành thêm cổ phần, NHTM Nhà nước có thể xin cấp thêm vốn Ngân sách để mở rộng quy mô hoạt động, chống đỡ rủi ro.
- Vốn điều lệ chủ yếu được dùng để mua sắm bất động sản, động sản, trang thiết bị...cho hoạt động ngân hàng, ngoài ra còn được dùng để góp vốn liên doanh, cho vay, mua cổ phần của công ty khác. Không được dùng vốn điều lệ đế chia lợi tức, lập quỹ phúc lợi khen thưởng. Như vậy, đến khi ngân hàng hoạt động, vốn điều lệ có thể đã nằm dưới dạng trụ sở, văn phòng, kho bãi, xe cộ, trang thiết bị, dự trữ hay kí quỹ tại NHTW hoặc đầu tư vào một thương vụ nào đó....
Các quỹ dự trữ (Reserve funds)
-Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ: được trích từ lợi nhuận ròng hàng năm của NHTM theo một tỷ lệ nhất định tùy theo luật lệ NH của mình nhằm mục đích tăng cường vốn chủ sở hữu ban đầu.
-Quỹ dự phòng tài chính: để dự phòng bù đắp rủi ro trong quá trình hoạt động kinh doanh của ngân hàng nhằm bảo toàn vốn điều lệ.
-Quỹ đầu tư phát triển nghiệp vụ: dùng để nghiên cứu , đào tạo và triển khai các dịch vụ mới.
Quỹ dự phòng tài chính và quỹ đầu tư phát triển nghiệp vụ được trích lập từ lợi nhuận sau thuế. Việc trích lập và sử dụng các quỹ này được thực hiện theo quy định của Pháp luật trong từng thời kỳ.
Lợi nhuận không chia
- Đối với các NHTM Cổ phần, lợi nhuận sau thuế sau khi bù đắp các khoản chi phí đặc biệt, thường được chia làm hai phần: một phần chia cho các cổ đông theo giá trị các cổ phần và một phần bổ sung vào vốn chủ sở hữu dưới tên gọi “Lợi nhuận tích lũy lại”- Lợi nhuận không chia. Phần này bản chất thuộc sở hữu của các cổ đông, song được vốn hóa nhằm mở rộng quy mô vốn chủ sở hữu. Lợi nhuận không chia của tổ chức tín dụng cổ phần phải được Đại hội cổ đông thông qua.
- Đối với các NHTM Nhà nước, lợi nhuận sau thuế sau khi trừ thua lỗ (năm trước) và các chi phí đặc biệt được trích bổ sung VCSH theo quy định của Nhà nước.
Thặng dư Vốn cổ phần (Đ/v các NHTM Cổ phần)
Trong quá trình hoạt động, có thể thị giá cổ phiếu của ngân hàng lớn hơn mệnh giá. Khi ngân hàng phát hành cổ phiếu mới, phần chênh lệch giữa thị giá và mệnh giá được ghi lại dưới tên gọi thăng dư của vốn.
*Giới hạn khi xác định vốn tự có cấp 1: Vốn tự có cấp 1 phải trừ đi giá trị lợi thế thương mại.
Lợi thế thương mại là phần chênh lệch lớn hơn giữa số tiền mua một tài sản tài chính và giá trị sổ sách kế toán của tài sản tài chính đó. Tài sản tài chính này được phản ánh đầy đủ trên bảng cân đối của tổ chức tín dụng.
Vốn cấp 1 được dùng làm căn cứ để xác định giới hạn mua cổ phiếu, đầu tư vào tài sản cố định của Tổ chức Tín dụng.
b) Vốn cấp 2
Vốn cấp 2 bao gồm:
Giá trị tăng thêm của tài sản cố định và giá trị tăng thêm của các loại chứng khoán đầu tư (kể cả cổ phiếu đầu tư, vốn góp) được định giá lại theo quy định của Pháp luật
- Được tập hợp vào quỹ đánh giá lại.
- Do giá trị thị trường của Tài sản có thể thay đổi theo thời gian nên vốn do đánh giá lại tài sản thường không ổn định, vì vậy các ngân hàng chỉ được tính vào vốn cấp 2 một phần giá trị tăng thêm của tài sản. Cụ thể là chỉ lấy 50% phần giá trị tăng thêm của TSCĐ và 40% phần giá trị tăng thêm của các loại chứng khoán đầu tư được định giá lại theo quy định của pháp luật.
Dự phòng chung
- Kinh doanh của NH luôn gắn liền với rủi ro. Do vậy, các ngân hàng đều trích lập các khoản dự trữ nhằm bù đắp tổn thất. Dự phòng chung là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất chưa xác định được trong quá trình phân loại nợ và trích lập dự phòng cụ thể và trong các trường hợp khó khăn về tài chính của NH khi chất lượng các khoản nợ suy giảm. Việc trích lập và sử dụng dự phòng chung được thực hiện theo quy định của pháp luật. Theo quy định hiện hành thì số tiền dự phòng chung được tính vào vốn cấp 2 tối đa bằng 1,25% tổng tài sản “Có” rủi ro.
- Nếu tổn thất thực của ngân hàng nhỏ hơn số trích lập thì vốn chủ sở hữu sẽ tăng và ngược lại. Một số ngân hàng không hạch toán quỹ này vào vốn chủ sở hữu mà vào các khoản nợ do nguồn gốc của quỹ là trích từ thu nhập trước thuế như một khoản chi phí và khi cần sẽ được chi ra để bù đắp tổn thất.
Cổ phiếu ưu đãi có thời hạn, các trái phiếu có khả năng chuyển đổi thành cổ phiếu và một số công cụ nợ khác thỏa mãn yêu cầu do NHNN quy định.
- Đây thực chất là khoản nợ vốn dài hạn do các nhà đầu tư bên ngoài đóng góp. Vì vậy các nhà quản lý ngân hàng chỉ được tính vào vốn cấp 2 khi các công cụ này thỏa mãn các điều kiện do NHNN quy định về thời hạn, về đảm bảo của ngân hàng phát hành, về điều chỉnh tăng lãi suất, về thanh toán nợ gốc và lãi.Cụ thể :
+ Trái phiếu chuyển đổi hoặc cổ phiếu ưu đãi do tổ chức tín dụng phát hành thỏa mãn những điều kiện sau:
Có kỳ hạn ban đầu, thời hạn còn lại trước khi chuyển đổi thành cổ phiếu phổ thông tối thiểu là 5 năm.
Không được đảm bảo bằng tài sản của chính tổ chức tín dụng.
Tổ chức tín dụng không được mua lại theo đề nghị của người sở hữu hoặc mua lại trên thị trường thứ cấp, hoặc tổ chức tín dụng chỉ được mua lại sau khi được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận bằng văn bản.
Tổ chức tín dụng được ngừng trả lãi và chuyển lãi lũy kế sang năm tiếp theo nếu việc trả lãi dẫn đến kết quả kinh doanh trong năm bị lỗ.
Trong trường hợp thanh lý tổ chức tín dụng, người sở hữu trái phiếu chuyển đổi chỉ được thanh toán sau khi tổ chức tín dụng đã thanh toán cho tất cả các chủ nợ có bảo đảm và không có bảo đảm khác.
Việc điều chỉnh tăng lãi suất chỉ được thực hiện sau 5 năm kể từ ngày phát hành và được điều chỉnh một lần trong suốt thời hạn trước khi chuyển đổi thành cổ phiếu phổ thông.
+ Các công cụ nợ khác thỏa mãn những điều kiện sau:
Là khoản nợ mà chủ nợ là thứ cấp so với các chủ nợ khác: trong mọi trường hợp, chủ nợ chỉ được thanh toán sau khi tổ chức tín dụng đã thanh toán cho tất cả các chủ nợ có bảo đảm và không bảo đảm khác.
Có kỳ hạn ban đầu tối thiểu trên 10 năm.
Không được đảm bảo bằng tài sản của chính tổ chức tín dụng.
Tổ chức tín dụng được ngừng trả lãi và chuyển lãi lũy kế sang năm tiếp theo nếu việc trả lãi dẫn đến kết quả kinh doanh trong năm bị lỗ.
Chủ nợ chỉ được tổ chức tín dụng trả nợ trước hạn sau khi được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận bằng văn bản.
Việc điều chỉnh tăng lãi suất chỉ được thực hiện sau 5 năm kể từ ngày ký kết hợp đồng và được điều chỉnh một lần trong suốt thời hạn của khoản vay.
- Việc gia tăng loại vốn này có nhiều ưu điểm đối với quản lý ngân hàng như không làm thay đổi quyền kiểm soát, hạn chế giảm cổ tức......
* Tuy nhiên khi xác định tổng vốn tự có để tính tỷ lệ an toàn tối thiểu, các NHTM phải khấu trừ khỏi vốn cấp 1 và vốn cấp 2 một số khoản mục như sau:
Toàn bộ phần giá trị giảm đi của tài sản cố định
Toàn bộ phần giá trị giảm đi của các loại chứng khoán đầu tư (kể cả cổ phiếu đầu tư, vốn góp)
Tổng số vốn của TCTD đầu tư vào TCTD khác dưới hình thức góp vốn, mua cổ phần và tổng các khoản đầu tư dưới hình thức góp vốn, mua cổ phần nhằm nắm quyền kiểm soát vào các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm, chứng khoán
Phần vượt mức vốn tự có của TCTD đối với khoản góp vốn, mua cổ phần (Phần vượt mức 15% vốn tự có của TCTD đối với khoản góp vốn, mua cổ phần của TCTD vào một doanh nghiệp, quỹ đầu tư, dự án đầu tư và phần vượt mức 40% vốn tự có của TCTD đối với tổng các khoản góp vốn, mua cổ phần của TCTD vào các doanh nghiệp, quỹ đầu tư, dự án đầu tư, ngoại trừ phần vượt mức 15% đã trừ khỏi vốn tự có nêu trên)
Khoản lỗ kinh doanh (bao gồm cả những khoản lỗ luỹ kế).
1.1.1.2. Vai trò của vốn chủ sở hữu và các nhân tố ảnh hưởng vốn chủ sở hữu
a) Vai trò
Do tính chất đặc thù trong kinh doanh nên vốn chủ sở hữu chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn hoạt động của NHTM (khoảng < 10%). Song vốn chủ sở hữu của ngân hàng lại đóng vai trò quan trọng trong hoạt động của ngân hàng.
- VCSH tạo lập tư cách pháp nhân và duy trì hoạt động của ngân hàng.
+ Nó cung cấp nguồn lực ban đầu giúp NH mới thành lập hoạt động. Số vốn này trước hết để mua sắm (thuê) trang thiết bị, văn phòng cần thiết cho quá trình kinh doanh, phần còn lại tham gia vào quá trình kinh doanh của ngân hàng như cho vay hoặc mua chứng khoán.
+ Nó cung cấp năng lực tài chính cho sự tăng trưởng và phát triển của các hình thức dịch vụ mới, cho những chương trình, công nghệ mới, trang thiết bị mới. Khi NH phát triển, nó cần vốn bổ sung để thúc đẩy tăng trưởng và cạnh tranh tốt với các ngân hàng khác thông qua dịch vụ mới và trang thiết bị mới.
- VCSH đóng vai trò là một tấm đệm giúp NHTM chống lại rủi ro trong quá trình hoạt động. Khi cơ quan bảo hiểm tiền gửi thành lập, VCSH góp phần giảm bớt rủi ro cho cơ quan bảo hiểm.
- VCSH tạo niềm tin cho công chúng và là sự đảm bảo đối với người gửi tiền, chủ nợ về sức mạnh tài chính của ngân hàng.
- VCSH là một trong những căn cứ góp phần điều chỉnh các hoạt động của NHTM
Rất nhiều quy định về hoạt động của NHTM của các nhà chức trách tiền tệ có liên quan chặt chẽ với VCSH. Ví dụ như để đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh, các NHTM phải duy trì tỷ lệ an toàn tối thiểu là 8% giữa VCSH với tổng tài sản có rủi ro ; những quy định khác như quy mô nguồn tiền gửi được tính theo tỷ lệ VCSH , mức dư nợ cho vay tối đa đối với một khách hàng (theo quy định hiện hành là 15 % VCSH của NH), nắm giữ cổ phiếu của công ty khác, mở chi nhánh, mua sắm TSCĐ, thành lập công ty con....đều tính theo tỷ lệ VCSH. Như vậy quy mô và cấu trúc hoạt động của NHTM được điều chỉnh theo VCSH .
b) Các nhân tố ảnh hưởng
- Chính sách của Chính phủ tác động trực tiếp đến quy mô và cấu trúc của nguồn VCSH
Các NHTM phải điều chỉnh VCSH trong từng thời kỳ theo các quy định của Chính phủ về vốn pháp định, các tỷ lệ trích quỹ dự trữ, lợi nhuận không chia.......
- Chính sách và kết quả kinh doanh của NHTM
Nếu ngân hàng làm ăn phát đạt và có chính sách gia tăng sức mạnh thì có thể sẽ tăng VCSH thông qua phát hành thêm cổ phiếu hoặc tự tích lũy. Những ngân hàng nhỏ, khả năng sinh lời thấp thì khả năng mở rộng VCSH cũng bị hạn chế.
1.1.2. Vốn huy động (Mobilized Capital)
1.1.2.1. Thành phần vốn huy động
Vốn huy động của NHTM dưới hình thức bằng tiền (nội tệ và ngoại tệ) và bằng vàng được hình thành từ hai bộ phận: Vốn huy động từ tiền gửi và vốn huy động thông qua phát hành chứng từ có giá.
a)Vốn huy động từ tiền gửi
Các khoản tiền gủi là những giá trị tiền tệ mà NH nhận được từ các tổ chức kinh tế-xã hội và các cá nhân trong nền kinh tế thông qua quá trình thực hiện các nghiệp vụ huy động, thanh toán và các nghiệp vụ khác và được dùng để kinh doanh. Bản chất của tiền gửi là tài sản thuộc các chủ sở hữu khác nhau mà ngân hàng chỉ có quyền sử dụng chứ không có quyền sở hữu.
Để huy động vốn, các NHTM đã cung cấp rất nhiều loại tiền gửi khác nhau cho khách hàng lựa chọn. Mỗi công cụ huy động tiền gửi mà NH đưa ra đều có những điểm riêng nhằm làm cho chúng phù hợp hơn với nhu cầu của khách hàng trong việc tiết kiệm và thực hiện thanh toán. Vốn tiền gửi của NHTM có thể huy động từ các tổ chức kinh tế-xã hội, dân cư, ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác...Trong đó, nguồn tiền gửi từ các doạn nghiệp và dân cư là nguồn quan trọng nhất vì nó là nguồn chủ yếu và mang tính chất lâu dài.
Thông thường tiền gửi NHTM được chia thành các loại sau:
Tiền gửi không kỳ hạn
Ở Việt Nam, tiền gửi không kỳ hạn được hiểu là loại tiền gửi mà khách hàng có thể rút ra bất cứ lúc nào và ngân hàng phải thực hiện theo yêu cầu này. Tiền gửi không kỳ hạn bao gồm tiền gửi thanh toán và tiền gửi không kỳ hạn thuần túy
Tiền gửi thanh toán
Là loại tiền gửi được ký thác vào NH để thực hiện các khoản chi trả trong hoạt động sản xuất kinh doanh và tiêu dùng. Đây là một bộ phận tiền đang chờ thanh toán mà không phải là tiền để dành, do vậy khách hàng gửi tiền không mất quyền sử dụng số tiền này. Họ có thể rút ra, chuyển nhượng hoặc chi trả trong thanh toán bất kỳ lúc nào. Trong việc sử dụng tiền gửi thanh toán, khách hàng thường dùng các công cụ thanh toán để chi trả như sec, lệnh chuyển tiền....
Tài khoản tiền gửi thanh toán (Tài khoản giao dịch hoặc tài khoản sec)
Tài khoản này dư có, khách hàng chỉ được sử dụng trong phạm vi tiền gửi của mình. Tài khoản sec hay tài khoản giao dịch hiện nay ở Việt Nam có hai loại:
+ Tài khoản thanh toán dùng cho các tổ chức kinh tế-xã hội
+ Tài khoản thanh toán dùng cho cá nhân
Tài khoản vãng lai
Tài khoản này có thể dư có hoặc dư nợ, nghĩa là khách hàng ngoài việc sử dụng số tiền gửi của mình còn được dùng khoản tiền do ngân hàng cho vay theo sự thỏa thuận trước giữa ngân hàng và khách hàng.
Nhìn chung, lãi suất của loại tiền gửi thanh toán rất thấp thậm chí có những tiền gửi ngân hàng không phải trả lãi. Do đó, nguồn vốn này giúp cho ngân hàng hạ thấp giá mua vốn, nâng cao khả năng cạnh tranh trong cho vay và đầu tư.
Tiền gửi không kỳ hạn thuần túy
Đây là loại tiền gửi thể hiện khoản tiền tạm thời nhàn rỗi của khách hàng, họ gửi tiền vào ngân hàng không mang tính chất để thanh toán mà nhằm mục đích an toàn tài sản, khi cần khách hàng đến ngân hàng rút tiền để chi tiêu.
Cũng giống như tiển gửi thanh toán, tiền gửi không kỳ hạn thuần túy có mức lãi suất rất thấp
* Đối với tiền gửi không kỳ hạn, mặc dù việc gửi và rút tiền có thể thực hiện bất kỳ lúc nào, ngân hàng khó xác định trước nhưng trên thực tế luôn có sự chênh lệch về thời gian và số lượng giữa việc gửi và rút tiền, cho nên tại mỗi ngân hàng luôn tồn tại một số dư tiền gửi không kỳ hạn và ngân hàng có thể sử dụng để cho vay (chủ yếu vay ngắn hạn).
Tiền gửi có kỳ hạn
Đây là những khoản tiền gửi của các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội có thỏa thuận về thời gian rút tiền. Về nguyên tắc, người gửi chỉ có thể rút tiền theo thời hạn đã thỏa thuận. Nhưng trên thực tế, để thu hút loại tiền gửi này với kỳ hạn dài, các NHTM thường cho phép rút tiền trước thời hạn nhưng khách hàng chỉ được hưởng lãi suất không kỳ hạn hoặc hưởng mức lãi suất tương ứng theo loại kỳ hạn nhất định do NHTM quy định. Tuy không thuận lợi cho người tiêu dùng bằng hình thức tiền gửi thanh toán, song lãi suất của nó cao hơn.
Nguồn vốn này có độ ổn định cao, chiếm khoảng 40% tiền gửi, ngân hàng chủ động trong quá trình sử dụng. Vì vậy, để có thể thu hút nhiều hơn loại tiền gửi này các NHTM thường đưa ra nhiều loại kỳ hạn khác nhau, mỗi kỳ hạn có một mức lãi suất tương ứng theo nguyên tắc kỳ hạn càng dài , lãi suất càng cao.
Tiền gửi tiết kiệm
Đây là hình thức huy động vốn truyền thống của NHTM . Tiền gửi tiết kiệm thường là khoản thu nhập của dân cư tạm thời chưa có nhu cầu sử dụng ngay gửi vào ngân hàng. NHTM thường trả lãi cho tiền gửi tiết kiệm cao hơn lãi suất của tiền gửi không kỳ hạn. Người gửi được giao cho một sổ tiết kiệm phục vụ cho việc ghi ghi chép gửi và rút tiền. Sổ tiết kiệm này không dùng để thanh toán tiền hàng và dịch vụ, song có thể dùng làm vật cầm cố hoặc được chiết khấu để vay vốn ngân hàng.
Tiền gửi tiết kiệm bao gồm: tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn với các kỳ hạn khác nhau.
Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn gồm hai loại:
Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn được hưởng lãi: Đối với loại này, NHTM có thể áp dụng hình thức trả lãi trước hoặc trả theo định kỳ hoặc lãi trả cùng nợ gốc
Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn có lãi và thưởng: Đối với loại này, ngoài lãi suất được hưởng người gửi còn được thưởng dưới hình thức bằng vàng, tiền hoặc hiện vật khác nếu trúng thưởng.
Trên thực tế, tiền gửi tiết kiệm chiếm một tỷ trọng khá lớn (khoảng 1/4) trong tổng vốn huy động của NHTM. Để khai thác nguồn vốn này, các ngân hàng luôn chú trọng đến việc đa dạng hoá các hình thức huy động như: huy động bằng vàng, huy động tiền gửi có đảm bảo vàng, tiết kiệm xây dựng nhà ở, tiết kiệm gửi một nơi nhưng lĩnh nhiều nơi.....với lãi suất cạnh tranh hấp dẫn.
Tiền gửi khác
Ngoài các loại tiền gửi trên, tại các NHTM còn có một số khoản tiền gửi khác như:
Tiền gửi của các tổ chức tín dụng khác
Tiền gửi của kho bạc Nhà nước
Tiền gửi của các tổ chức đoàn thể xã hội
b)Vốn huy động thông qua phát hành các giấy tờ có giá
Đây là phần vốn mà NHTM có được qua việc phát hành các giấy tờ có giá như kỳ phiếu ngân hàng, trái phiếu ngân hàng, chứng chỉ tiền gửi.
Đối tượng mua kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng, chứng chỉ tiền gửi là các tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế, ngoài việc dù