Đầu tư phát triển có thể được xem là hoạt động quan trọng nhất đốI vớI mỗI doanh nghiệp và thậm chí đốI vớI mỗI quốc gia, bởI chỉ có đầu tư phát triển mớI duy trì và hơn nữa là mở rộng tiềm lực sản xuất của doanh nghiệp hay quốc gia đó. Vậy thì doanh nghiệp, đơn vị cấu thành nền kinh tế, đã thực hiện hoạt động này như thế nào? Chúng ta sẽ tìm hiểu xem các doanh nghiệp nhà nước đã thực hiện ra sao? Kết quả như thế nào? Còn những hạn chế gì và nguyên nhân do đâu? Và một số giảI pháp sẽ được đưa ra trong phần cuối
25 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1251 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Nội dung đầu tư phát triển trong doanh nghiệp. Phân tích tình hình đầu tư trong doanh nghiệp nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề án môn học
“Nội dung đầu tư phát triển trong doanh nghiệp. Phân tích tình hình đầu tư trong doanh nghiệp nhà nước.”
A.Lời mở đầu:
Đầu tư phát triển có thể được xem là hoạt động quan trọng nhất đốI vớI mỗI doanh nghiệp và thậm chí đốI vớI mỗI quốc gia, bởI chỉ có đầu tư phát triển mớI duy trì và hơn nữa là mở rộng tiềm lực sản xuất của doanh nghiệp hay quốc gia đó. Vậy thì doanh nghiệp, đơn vị cấu thành nền kinh tế, đã thực hiện hoạt động này như thế nào? Chúng ta sẽ tìm hiểu xem các doanh nghiệp nhà nước đã thực hiện ra sao? Kết quả như thế nào? Còn những hạn chế gì và nguyên nhân do đâu? Và một số giảI pháp sẽ được đưa ra trong phần cuối.
B.Nội dung:
Chương 1 : Những vấn đề lý luận về đầu tư phát triển trong doanh nghiệp.
I.Một số vấn đề về đầu tư phát triển:
1.Khái niệm về đầu tư và đầu tư phát triển
Khái niệm đầu tư và đầu tư phát triển được nhắc nhiều trong các vấn đề kinh tế xã hội. Đặc biệt với vấn đề nóng nhất hiện nay, đầu tư chứng khoán đang là vấn đề thường trực của đa số người dân nhưng ít ai hiểu được rõ về đầu tư. Và hiện nay trên thế giới cũng chưa có một quan điểm nào thống nhất về đầu tư và bản chất của đầu tư.
Quan điểm về đầu tư trên các giác độ : Kinh tế, tài chính, kế toán.
- Trên quan điểm về tài chính, đầu tư là quá trình làm bất động một số vốn nhằm thu lợi nhuận trong các kỳ kinh doanh tiếp theo. Quan điểm này xem xét đầu tư dưới góc độ vốn và cho rằng: ngoài việc tạo ra các tài sản vật chất tham gia trực tiếp vào hoạt động của doanh nghiệp, còn bao gồm các khoản chi tiêu gián tiếp cho sản xuất-kinh doanh, như: các chi phí nghiên cứu, đào tạo nhân viên, chi phí quản lý…
- Trên quan điểm về kinh tế, đầu tư là làm tăng vốn cố định tham gia vào hoạt động của các doanh nghiệp trong các chu kỳ kinh doanh nối tiếp.Đó là quá trình làm tăng tài sản cho sản xuất và kinh doanh, bao gồm cả tài sản cố định và tài sản lưu động. Quan điểm này xem xét đầu tư dưới dạng kết quả của hoạt động sử dụng nguồn vốn.
- Theo quan điểm kế toán, khái niệm đầu tư gắn liền với việc phân bổ các khoản vốn đã bỏ ra vào các mục, các tài khoản cố định, trong một khoảng gian nhất định, phục vụ cho việc quản lý các kết quả đầu tư.
Ngày nay, đa số các nhà kinh tế cho rằng: “Đầu tư là phương thức tạo giá trị mới, để cho vốn thực hiện được chức năng cung cấp giá trị thặng dư cho người sở hữu nó”.
Đầu tư phát triển ( gọi tắt là quá đầu tư) là quá trình sử dụng vốn đầu tư để tái sản xuất giản đơn hoặc tái sản xuất mở rộng thông qua các hoạt động xây dựng nhà cửa, cấu trúc hạ tầng, mua sắm và lắp đặt máy móc thiềt bị, tiến hành các công tác xây dựng cơ bản khác và thực hiện các chi phí phục vụ cho phát huy tác dụng trong một chu kỳ hoạt động của các cơ sở vật chất - kỹ thuật này.
Theo định nghĩa trên thì các hình thức mua cổ phần, gửi tiền tiết kiệm, mua hàng tích trữ không được xem là những hoạt động tạo vốn tư bản thật sự, vì vậy không phải là đầu tư phát triển. Trên giác độ toàn xã hội, đầu tư phát triển là sự hy sinh giá trị hiện tại gắn với việc tạo ra các tài sản ( tài chính, vật chất, trí tuệ…) mới cho nền kinh tế trong tương lai. Các hoạt động mua bán, phân phối lại, chuyển giao tài sản hiện có giữa các cá nhân tổ chức không phải là đầu tư đối với nền kinh tế.
Từ các quan điểm về đầu tư và đầu tư phát triển, các nội dung của đầu tư là : đầu tư tài chính, đầu tư thương mại, đầu tư tài sản vật chất và sức lao động.
- Đầu tư tài chính là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ ra cho vay hoặc mua các chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất định trước ( gửi tiền tiết kiệm , mua trái phiếu chính phủ). Hoặc lãi suất tuỳ thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty phát hành
- Đầu tư thương mại là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để mua hàng hoá và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuộn do chênh lệch giá khi mua và gía khi bán. Cũng giống như đầu tư tàI chính, đầu tư thương mại cũng không tạo ra tàI sản mới cho nền kinh tế (nếu không xét đến ngoại thương ), mà chỉ làm tăng tàI sản tài chính của người đầu tư trong quá trình mua đi bán lại, chuyển giao quyền sở hữu hàng hoá giữa người bán với người đầu tư và người đầu tư với khách hàng của họ.
- Đầu tư phát triển là hình thức đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để tiến hành các hoạt động nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động xà hội khác, là điều kiện chủ yếu để tạo việc làm, nâng cao đời sống cuả mọi người dân trong xã hội. Đó chính là việc bỏ tiền ra để xây dựng , sửa chữa nhà cửa và các kết cấu hạ tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ và bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện các chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế xã hội. Loại đầu tư này gọi chung là đầu tư phát triển.
2.Đặc điểm của đầu tư phát triển.
- Cần một số lượng vốn rất lớn và số vốn này sẽ nằm đọng lại trong suốt quá trình đầu tư. Tiền vật tư, lao động huy động là rất lớn và phải sau một thời gian dài sau mới phát huy tác dụng.
- Thời gian từ lúc đầu tư cho đến khi phát huy hiệu quả là lâu dài, thời gian thu hồi vốn lâu nên không tránh khổi nhữngyếu tố tiêu cực, không ổn định của chính trị, kinh tế xã hội.
- Các thành quả của đầu tư phát triển là công trình có tính bền vững lâu dài, đa số là các công trình xây dựng.
- Đầu tư là loại hình hoạt động kinh tế gắn liền với rủi ro và những bất trắc. Thờ gian đầu tư càng dài thì rủi ro càng cao, ngoài những rủi ro thường gặp về tài chính, thành toán hay thu nhập thì còn có những rủi ro khác về chính trị, kinh tế, xã hội.
3.Vai trò của đầu tư phát triển
a.Các lý thuyết về đầu tư phát triển sản xuất
- Khái niệm về sản xuất : Sản xuất là quá trình chuyển hoá các yếu tố đầu vào thành nhữg sản phẩm đầu ra.
- Lý thuyết về hàm sản xuất Cob Douglas : Các nhà kinh tế phân chia các yếu tố sản xuất ( các đầu vào ) thành: lao động và thường được ký hiệu bằng chữ L (Labour); tư liệu sản xuất gồm có tư liệu lao động và đối tượng lao động ( nguyên liệu , vật liệu, máy móc thiết bị, nhà xưởng, kho tàng…) và thường được ký hiệu bằng chữ K (Capital).
Để phản ánh mối quan hệ giữa đầu vào, đầu ra của doanh nghiệp ta dùng hàm sản xuất.Hàm sản xuất chỉ rõ mối quan hệ giữa sản lượng tối đa Q có thể thu được từ các tập hợp khác nhau của các yếu tố đầu vào tương ứng với một trình độ công nghệ nhất định.
Để có thể tiến hành và phát triển sản xuất cần phải có vốn, lao động, trong đó yếu tố vốn ở đây bao gồm tất cả các chi phí để mua tư liệu lao động và đối tượng lao động với một trình độ công nghệ nhất định, chi phí để bồi dưỡng lao động đủ trình độ quản lý sử dụng các tư liệu lao động và đối tượng lao động sản xuất ra sản phẩm với năng suất và chất lượng ngày càng cao.
Để có được số lao động cần thiết sử dụng các tư liệu lao động tác động vào đối tượng lao động tạo ra sản phẩm cho doanh nghiệp trong điều kiện nền kinh tế thị trường cũng cần phải chi phí.Như vậy suy cho cùng để tiến hành sản xuất với quy mô ngày càng lớn cần phải tăng các yếu tố đầu vào, tức là tăng chi phí cho các yếu tố đầu vào hay nói cách khác là tăng đầu tư cho các yếu tố này.
Tăng đầu tư vốn cho phép tăng các đầu vào không chỉ về số lượng mà cả về chất lượng và do đó tất yếu đầu ra sẽ không chỉ lớn hơn về số lượng mà còn cao hơn cả về chất lượng.
Theo Keynes, mỗi sự gia tăng về vốn đầu tư đều kéo theo sự gia tăng nhu cầu về nhân công và nhu cầu về tư liệu sản xuất. Do đó làm tăng việc làm và tăng nhu cầu tiêu dùng của nền kinh tế. Tất cả các điều đó làm tăng thu nhập của nền kinh tế và đến lượt mình tăng thu nhập lại làm gia tăng đầu tư mới.Qúa trình này thể hiện thông qua một đại lượng gọi là số nhân đầu tư. Số nhân đầu tư thể hiện mối quan hệ giữa mức gia tăng thu nhập và mức gia tăng đầu tư. Số nhân này xác định sự gia tăng đầu tư sẽ làm cho thu nhập gia tăng như thế nào.
Có hai phương thức để phát triển sản xuất, đó là:
Thứ nhất, mở rộng quy mô sản xuất theo chiều rộng: nhằm gia tăng năng lực sản xuất của doanh nghiệp, từ đó tăng sản lượng đầu ra nhờ sử dụng nhiều hơn các yếu tố đầu vào, các nguồn lực của sản xuất, trong khi đó năng suất và hiệu quả của các yếu tố sản xuất đó không đổi.
Thứ hai, phát triển sản xuất theo chiều sâu: là sự tăng lên của sản phẩm chủ yếu do tăng năng suất lao động nhờ đầu tư bổ sung và hiệu quả sử dụng các nguồn lực đầu vào của sản xuất.
b.Đầu tư tác động đến nền kinh tế xã hội.
- Tác động hai mặt đến sự ổn định của nền kinh tế
Đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế, thường vào khoảng 24 - 28%.Đối với tổng cầu tác động của đầu tư là ngắn hạn. Với tổng cung chưa kịp thay đổi, sự tăng lên của đầu tư làm cho tổng cầu tăng. Khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực mới đi vào hoàt động thì tổng cung , đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng ln.
Sản lượng tăng, giá cả giảm cho phép tăng tiêu dùng. Tiêu dùng tăng lại tiếp tục kích thích sản xuất hơn nữa. Sản xuất phát triển là nguồn gốc để tăng tích luỹ, phát triển xã hội…
Sự tác động không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư đối với tổng cầu và tổng cung của nền kinh tế làm cho mỗi sự thay đổi của đầu tư,dù là tăng hay giảm đều cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì sự ổn định vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định cuả nền kinh tế của mọi quốc gia.
- Tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Trong quá trình phát triể kinh tế của mỗi quốc gia, vốn đầu tư là một trong những yếu tố có ý nghĩa quyết định đến tốc độ tăng trưởng kinh tế. Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thường được coi là đầu vào, là một trong những yếu tố cùng với lao động- kỹ thuật- công nghệ tạo nên sự tăng trưởng. Đầu tư đồng nghĩa với việc cung cấp nhiên liệu, động lực và các yếu tố cần thiết khác cho nền kinh tế vận hành.
- Tác động đến khả năng công nghệ và khoa học của đất nước.
Trung tâm của công nghiệp hoá , hiện đại hoá là phát triển công nghệ. Đặc điểm quan trọng, cơ bản mang tính quýêt định nhất của công nghiệp là sự thay thế lao động thủ công sang lao động mang tính kỹ thuật, máy móc đẩy mạnh sự phân công lao động xã hội. Đầu tư là điều kiện tiên quyết cuả sự phát triểnvà tăng cường khả năng công nghệ của nứơc ta hiện nay.
- Tác động chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy con đường tất yếu có thể tăng trưởng nhanh tốc độ mong muốn là tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển ở công nghiệp và dịch vụ. Như vậy, chính đầu tư quyết định quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế các quốc gia nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh của toàn bộ nền kinh tế.
c.Đầu tư tác động vào các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh.
Chính đầu tư đã quyết định sự ra đời, tồn tại và phảt triển của mỗi doanh nghiệp.Thật vậy, để tạo dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật cho sự ra đời của bất kỳ doanh nghiệp nào đều cần phải xây dựng nhà xưởng, cấu trúc hạ tầng, mua sắm. Lắp đặt máy móc thiết bị và thực hiện các chi phí khác gắn liền với sự hoạt động trong một chu kỳ của các cơ sở vật chất- kỹ thuật đã được tạo ra. Do đó vốn đầu tư là yếu tố đầu tiên cần phải có để hình thành nên các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ, tạo điều kiện cho các cơ sở này tiến hành hoạt động cuả mình.
II.Nội dung cơ bản của đầu tư phát triển trong doanh nghiệp
Đầu tư cho xây dựng cơ bản:
Đặc trưng:
Xây dựng cơ bản là ngành sản xuất vất chất có đặc điểm riêng khác vớI các ngành sản xuất vật chất khácbởI có tính cố định tạI một vị trí nhất định, nên nơi sản xuất cũng là nơi tiêu thụ sản phẩm. Có tính đơn chiếc, quy mô lớn, kết cấu phức tap, thờI gian thực hiện và sử dụng lâu dài…
Vai trò:
đầu tư xây dựng cơ bản có ý nghĩa quyết dịnh trong việc tạp ra cơ sở vật chất kĩ thuật cho doanh nghiệp, là nhân tố quan trọng nâng cao năng lực sản xuất cho doanh nghiệp.
Hình thức đầu tư:
- Đầu tư cho hoạt động xây dựng: đây là quá trình lao động để tạo ra những sản phẩm xây dựng bap gồm các công việc:
+ Thăm dò, khảo sát, thiết kế.
+ Xây dựng mớI, xây dựng lạI công trình.
+ CảI tạo mở rộng nâng cấp, hiện đạI hóa công trình.
+ Sửa chữa lớn nhà cửa, vật kiến trúc.
+ Lắp đặt thiết bị máy móc vào công trình.
+ Thuê phương tiện máy móc thi công có ngườI điều khiển di kèm.
- Hoạt động lắp đặt máy móc thiết bị: Công tác lắp đắt máy móc thiết bị là quá trình lắp đặt thiết bị máy móc trên nền bệ hoặcbệ máy cố định để máy móc và thiết bọ có thể hoạt động được, như: lắp các thiết bị máy sản xuất, thiết bị vận chuyển, thiết bị thí nghiệm, thiết bị khám chữa bệnh… nhưng không bao gồm công tác lắp đặt các thiết bị là một bộ phận kết cấu của nhà cửa, vật kiến trúc như hệ thống thông gió, hệ thống lò sưởI, hệ thống thắp sáng linh hoạt…
- Đầu tư xây dựng cơ bản khác, như: đầu tư xây dựng các công trình tạm, các công trình sản xuất phụ để tạo nguồn vật liệu và kết cấu phụ kiện phục vụ ngay cho sản xuất xây dựng…
2. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực:
Đặc trưng:
Các đầu vào của một quá trình sản xuất, như: nguyên vật liệu, máy móc thiết bị, công nghệ, tài sản cố định ( hữu hình như: đất đai, nhầ xưởng; vô hình như: thương hiệu, chất lượng, nhãn mác sản phẩm…), vốn đầu tư đều là những sản phẩm của trí tuệ và lao động của con người. Còn một yếu tố đầu vào quan trọng để có thể tiến hành sản xuất kinh doanh, đó là yếu tố lao động (hay nguồn nhân lực). Lao động là yếu tố đầu vào duy nhất vừa là chủ thể đầu tư vừa là đốI tượng được đầu tư. Số lượng lao động phán ánh sự đóng góp về lượng, chất lượng lao động (thể hiện ở thể lực, trí lực, ở tinh thần và ý thức lao động) phản ánh bởI sự đóng góp về chất của lao động vào quá trình sản xuất.
Vai trò:
Nguồn nhân lực – tài sản của doanh nghiệp.
Nhiều doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn có quan niệm con ngườI chỉ là một yếu tố tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh. Việc quản trị nguồn nhân lực đơn thuần là thuê mướn và sau đó là “cai quản”. Quan niệm đó dẫn đến doanh nghiệp không có nhu cầu đào tạo để phát triển nguồn lực của mình, xem đào tạo là gánh nặng chi phí cho doanh nghiệp, thay vào đó chỉ cần sa thảI nhân viên không đáp ứng yêu cầu và tuyển ngườI mới.
Trái lạI, theo xu hướng phát triển nguồn nhân lực hiện nay ởnhiều nước, NgườI lao động được xem là tài sản của doanh nghiệp. Thêm vào đó là có rất nhiều khó khăn trong việc thu hút lao động có chất lượng tốt, vì thế đào tạo và tái đào tạo được các doanh nghiệp coi là hoạt động đầu tư chứ không phảI là gánh nặng chi phí. Xác định được như vậy, mỗI doanh nghiệp cần vạch ra chiến lược phát triển nguồn nhân lực cũng như chiến lược quản lí nhân sự phù hợp vớI kế hoạch kinh doanh của mình.
Thay đổI vai trò và xu hướng trong quản trị nhân sự chiến lược
Hoạt động hàng ngày
Chiến lược
Đánh giá, nhận xét định tính
Đánh giá định lượng
Chính sách
Hợp tác
Ngắn hạn
Dài hạn
Hoạt động mang tính hành chính
Hoạt động mang tính tư vấn
Chú trọng vào chức năng
Chú trọng vào khách hàng
Chú trọng vào hoạt động
Chú trọng vào giảI pháp
Phản ứng vớI những thay đổI
Chủ động thực hiện
Các hình thức đầu tư nguồn nhân lực:
- Đào tạo trực tiếp: trang bị kiến thức phổ thông, chuyên nghiệp và kiến thức quản lý cho ngườI lao động. Việc đào tạo thể hiện ở hai cấp độ:
+ Đào tạo phổ cập: mục đích là cung cấp cho ngườI lao động kiến thức cơ bản để có thể hiểu và nắm được các thao tác cơ bản trong quá trình sản xuất. Hình thức đào tạo này đơn giản và dễ tiếp thu phù hợp vớI nhu cầu phát triển theo chiều rộng. Đào tạo phổ cập có thể thông qua hai hình thức:
Đào tạo mớI: áp dụng vớI ngườI lao độngchwa có nghề hoặc chưa có kỹ năng lao động đốI vớI nghề đó.
+ Đào tạo lạI: áp dụng vớI ngườI lao động đã có nghề nhưng nghề đó không còn phù hợp vớI sự phát triển của doanh nghiệp, hoặc áp dụng khi doanh nghiệp thay đổI công nghệ mớI đòi hỏI kiến thức và kĩ năng mới.
Đào tạo chuyên sâu: mục đích là nhằm hình thành nên một độI ngũ cán bộ và công nhân giỏI, chất lượng cao, làm việc trong những diều kiện phức tạp hơn. Đây là lực lượng lao động nồng cốt của doanh nghiệp và tạo nên sức mạnh cạnh tranh của doanh nghiệp.
- Lập quỹ dự phòng mất việc làm dể đào tạo lao động trong trường hợp thay đổI cơ cấu hoặc công nghệ, bồI dưỡng nâng cao trình độ cho lao động trong doanh nghiệp. Trợ cấp cho lao động thường xuyên nay bị mất việc làm.
- Lập quỹ khen thưởng, quỹ bảo hiểm xã hộI để khuyến khích ngườI lao động nâng cao tay nghề, phát huy sáng kiến… từ đó nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Phương pháp này khuyến khích lao động làm việc hăng say, tự giác vớI chất lượng tốt nhất.
- Lập quỹ phúc lợI để hỗ trợ ngườI lao động khi gặp khó khăn giúp họ yên tâm sản xuất.
3. Đầu tư cho hoạt động nghiên cứu và phát triển:
Đặc trưng, vai trò:
Nghiên cứu và phát triển (R&D) là hoạt động động không thể thiếu mang tính tất yếu trong nền kinh tế thị trường. Doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh hay không, có thể tồn tạI và phát triển bền vững trên thị trường hay không là do một phần rất lớn từ kết quả của hoạt động (R&D) của doanh nghiệp đó. Có thể nói R&D là sự đảm bảo cho sự tồn tạI để không bị lạc hậu của tất cả các doanh nghiệp, của tất cả các nền kinh tế trên thế giới.
Một trong những xu hướng mới trong hoạt động R &D là đổi mới quản lý và các tổ chức khoa học và công nghệ. Đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức khoa học & công nghệ được đánh giá là tiền đề phát huy năng lực nội tại và nâng cao sức cạnh tranh. Điều đặc biệt là quá trình đổi mới này luôn đi kèm với tăng cường tiềm lực (chi phí, nhân lực) cho khoa học và công nghệ (KH&CN) và thay đổi cách cấp kinh phí nghiên cứu, cũng như đưa nghiên cứu và sản xuất gắn kết với nhau hơn.
Các hình thức đầu tư R&D:
- Nghiên cứu thuần tuý: là việc khảo sát ban đầu nhằm phát minh công nghệ mớI, hoặc sử dụng những nguyên liệu mới. Hình thức đầu tư này đòi hỏI chi phí rất cao và khả năng rủI ri lớn, vì vậy thường chỉ các doanh nghiệp có tiềm lực tài chính và có tham vọng trở thành ngườI tiên phaong trong lĩnh vực trong việc tìm ra công nghệ mớI thì mớI có thể theo đuổI hình thức này.
- Nghiên cứu ứng dụng: thường hướng vào giảI quyết một số vấn đề đặc biệt hay có mục đặc biệt. nghiên cứu ứng dụng hấp dẫn hơn đốI vớI doanh nghiệp vì có thể nhìn thấy triển vọng và thực tế cho phép thu hồI vốn đầu tư nhanh hơn. Trong hình thức này, khoa học cơ bản được vận dụng vào các quá trình công nghệ, vật liệu hay sản phẩm mới. Thông qua nghiên cứu các doanh nghiệp có thể giảm giá thành sản phẩm nhờ sử dụng nguyên liệu mớI tốt hơn, đảm bảo chất lượng sản phẩm tốt hơn, hoặc tạo ra được sản phẩm mớI có tính cạnh tranh cao thạm chí là tuyết đốI (đốI vớI sản phẩm khó sản xuất, sản phẩm hoàn toàn mớI); tăng thêm sức hấp dẫn đốI vớI khách hàng nhờ cảI tiến mẫu mã sản phẩm.
Hiện nay chuyển giao công nghệ là hoạt động thường xuyên gắn liền vớI quá trình R&D, đổi mớI công nghệ đặc biệt vớI doanh nghiệp ở các quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Hình thức này thường được thực hiện thông qua quan hệ kinh tế đốI ngoạI, có thể là trực tiếp (mua công nghệ) hoặc gián tiếp (qua liên doanh vớI nước ngoài).
- Một số nộI dung trong đầu tư cho KH&CN:
+ Đầu tư vào dệ thống máy móc thiết bị, nhà xưởng, cơ sở hạ tầng cho việc nghiên cứu ứng dụng và triển khai KH&CN.
+ Đầu tư cho công tác phát triển nguồn nhân lực phạuc vụ phát triển công nghệ.
+ Đầu tư xây dựng tổ chức hệ thống thông tin quản lý phục vụ hoạt động KH&CN.
+ Đầu tư thuê mua bản quyền phát minh, bằng sáng chế.
Trong điều kiện cạnh tranh khốc liệt với mọi thứ luôn biến đổi, cần phải đặt vấn đề R&D vào trong chiến lược phát triển tổng thể của doanh nghiệp, trong suy nghĩ của những người lãnh đạo doanh nghiệp, tạo cho họ thói quen xem xét hiệu quả và năng suất của các hoạt động R&D như là những yếu tố quan trọng hàng đầu trong hoạt động của công ty.
Đầu tư mua sắm hàng tồn trữ:
Đặc trưng:
Hàng tồn trữ trong doanh nghiệp là toàn bộ nguyên vật liệu, bán thành phẩm, các chi tiết phụtùng và sản phẩm dự trữ. Hàng tồn trữ chiếm tỉ trọng lớn trong tài sản của doanh nghiệp, thông thường chiếm khoảng 40-50%. Các loạI hình doanh nghiệp khác nhau có các dạng dự trữ khác nhau.
Doanh nghiệp dịch vụ: sản