Để đắp ứng nhu cầu đổi mới cơ chế quản lý kinh tế tài chính nhằm nâng cao chất lượng quản lý kinh tế trong nền kinh tế quốc dân, vấn đề kiểm tra kiểm soát chất lượng làm lành mạnh hóa các thông tin tài chính trong nền kinh tế quốc dân là một nhu cầu cấp thiết. Giúp cho nền kinh tế thị trường có thể đứng vững và có thể phát triển toàn diện về mọi mặt. Nó điều tiết nền kinh tế đi đúng hướng và hạn chế được những khủng hoảng có thể xảy ra trong nền kinh tế đi đúng hướng và hạn chế được những khủng hoảng có thể xảy ra trong nền kinh tế thị trường, chính vì vậy mà kiểm toán ra đời như một sự tất yếu.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế đang phát triển, sự ra đời của các doanh nghiệp trẻ và đày triển vọng khiến cho sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ngày càng trở nên gay gắt. Các doanh nghiệp cần mở rộng sản xuất kinh doanh, đầu tư mới máy móc, trang thiết bị hiện đại cho sản xuất. do vậy doanh nghiệp cần phải huy động vốn từ các nhà đầu tư bên ngoài. Các nhà đầu tư cần có những tài liệu tin cậy để có sự đầu tư đúng đắn, ngoài ra; các cơ quan Nhà nước cần thông tin trung thực để điều tiết vĩ mô nền kinh tế; người lao động cần thông tin đáng tin cậy về kết quả kinh doanh, thực hiện chính sách tiền lương.; khách hàng, nhà cung cấp cần hiểu rõ thực chất kinh doanh và tình hình tài chính của doanh nghiệp để cung cấp hàng hóa, dịch vụ. Chính vì vậy, kiểm toán nói chung và kiểm toán tài chính ra đời với vai trò, chức năng xác minh và tư vấn không chỉ giúp cho sự quản lý vĩ mô của Nhà nước mà còn ý nghĩa chi bản thân doanh nghiệp và các đối tượng quan tâm. Nếu như Báo cáo tài chính chỉ cung cấp và trình bày cho người đọc thực trạng của doanh nghiệp tại một thời gian nhất định thì kiểm toán các Báo cáo tài chính sẽ gây dựng lòng tin cho người sử dụng đối với Báo cáo tài chính đó.
36 trang |
Chia sẻ: maiphuong | Lượt xem: 1381 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Quá trình hình thành và phát triển của kiểm toán nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Để đắp ứng nhu cầu đổi mới cơ chế quản lý kinh tế tài chính nhằm nâng cao chất lượng quản lý kinh tế trong nền kinh tế quốc dân, vấn đề kiểm tra kiểm soát chất lượng làm lành mạnh hóa các thông tin tài chính trong nền kinh tế quốc dân là một nhu cầu cấp thiết. Giúp cho nền kinh tế thị trường có thể đứng vững và có thể phát triển toàn diện về mọi mặt. Nó điều tiết nền kinh tế đi đúng hướng và hạn chế được những khủng hoảng có thể xảy ra trong nền kinh tế đi đúng hướng và hạn chế được những khủng hoảng có thể xảy ra trong nền kinh tế thị trường, chính vì vậy mà kiểm toán ra đời như một sự tất yếu.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế đang phát triển, sự ra đời của các doanh nghiệp trẻ và đày triển vọng khiến cho sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ngày càng trở nên gay gắt. Các doanh nghiệp cần mở rộng sản xuất kinh doanh, đầu tư mới máy móc, trang thiết bị hiện đại cho sản xuất.. do vậy doanh nghiệp cần phải huy động vốn từ các nhà đầu tư bên ngoài. Các nhà đầu tư cần có những tài liệu tin cậy để có sự đầu tư đúng đắn, ngoài ra; các cơ quan Nhà nước cần thông tin trung thực để điều tiết vĩ mô nền kinh tế; người lao động cần thông tin đáng tin cậy về kết quả kinh doanh, thực hiện chính sách tiền lương..; khách hàng, nhà cung cấp cần hiểu rõ thực chất kinh doanh và tình hình tài chính của doanh nghiệp để cung cấp hàng hóa, dịch vụ. Chính vì vậy, kiểm toán nói chung và kiểm toán tài chính ra đời với vai trò, chức năng xác minh và tư vấn không chỉ giúp cho sự quản lý vĩ mô của Nhà nước mà còn ý nghĩa chi bản thân doanh nghiệp và các đối tượng quan tâm. Nếu như Báo cáo tài chính chỉ cung cấp và trình bày cho người đọc thực trạng của doanh nghiệp tại một thời gian nhất định thì kiểm toán các Báo cáo tài chính sẽ gây dựng lòng tin cho người sử dụng đối với Báo cáo tài chính đó.
Được sự giúp đỡ và sự hướng dẫn tận tình của thầy Phan Trung Kiên, em đã tiến hành tìm hiểu và chọn đề tài: “Quá trình hình thành và phát triển của kiểm toán nhà nước”. Bài đề án của em được trình bày với kết cấu như sau:
Chương I: Kiểm toán nhà nước và mô hình tổ chức bộ máy
Chương II: Thực trạng và mô hình kiểm toán nhà nước tại Việt Nam
Chương III: Đánh giá và ý kiến nhằm hoàn thiện
Do trình độ và nhận thức còn hạn chế nên bài đề án của em còn nhiều thiếu sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp chỉ bảo của thầy Phan Trung Kiên để em hoàn thiện hơn nữa đề án này.
CHƯƠNG I: KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC VÀ MÔ HÌNH TỔ CHỨC BỘ MÁY
I. Lịch sử hình thành và phát triển của kiểm toán nhà nước
Kiểm toán có nguồn gốc từ tiếng Latinh, theo nghĩa của từ "Audit". Kiểm toán ra đời từ thời La Mã, thế kỷ thứ III trước Công nguyên. Tuy nhiên, hoạt động kiểm toán chỉ phát triển mạnh mẽ và mang tính phổ biến trong khoảng vài trăm năm trở lại đây. Ở Đức, từ năm 1714, Vua Phổ là Friedrich Wilhelm I đã ra Sắc lệnh thành lập Phòng Thẩm kế tối cao (hay Thẩm kế viện dưới thời Đế chế Đức). Ở Pháp, từ năm 1807, dưới thời Hoàng đế Napoleon I, Toà Thẩm kế (Cour des comptes) đã được thành lập.
Hoạt động kiểm toán xuất phát từ yêu cầu sử dụng hợp lệ và hợp lý các nguồn tài chính của Nhà nước. Bởi vậy, mục tiêu cụ thể của công tác này là sử dụng xác thực và có hiệu quả nguồn kinh phí công, phấn đấu đạt được sự quản lý kinh tế chặt chẽ, tính hợp lệ của công tác quản lý hành chính và việc thông tin cho các cơ quan nhà nước cũng như công luận thông qua việc công bố các báo cáo khách quan về sự ổn định và phát triển của nền tài chính quốc gia.
Kiểm toán hiện diện như một công cụ không thể thiếu được đối với bất kỳ một mô hình kinh tế nào, một hình thái xã hội nào và không hề bị chi phối bởi kiến trúc thượng tầng. Tuy nhiên, hoạt động kiểm toán chỉ thực sự có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình lành mạnh hoá nền tài chính quốc gia kể từ sau các cuộc cách mạng về kinh tế và hiện đại hoá vào những năm đầu của thế kỷ XX.
Cơ quan Kiểm toán nhà nước (KTNN) ở mỗi quốc gia có những tên gọi khác nhau. Ví dụ: Toà Thẩm kế Cộng hoà Pháp, Cơ quan Tổng Kế toán Hoa Kỳ, Cục Kiểm toán Liên bang Nga, Uỷ ban Kiểm toán và Thanh tra Hàn Quốc, Uỷ ban Kiểm toán và Kiểm soát Ấn Độ; Uỷ ban Kiểm toán Nhật Bản; v.v.. Phần lớn các khu vực trên thế giới đều thành lập Tổ chức các cơ quan kiểm toán tối cao của khu vực. Đồng thời các quốc gia cũng gia nhập Tổ chức Quốc tế các cơ quan kiểm toán tối cao (International Organization of Supreme Audit Institutions-INTOSAI). Cơ quan này gồm có 178 thành viên.
II. Nghiên cứu mô hình tổ chức và cơ chế hoạt động của một số nước trên thế giới – Bài học kinh nghiệm
1.Các mô hình
1.1. Mô hình trực thuộc Quốc hội (Liên bang Nga)
Vị trí: Kiểm toán nhà nước liên bang Nga (KTNNLB) là cơ quan cao nhất hoạt động thường xuyên của hệ thống kiểm tra tài chính Nhà nước, được lập ra bởi Hội nghị Liên bang và trực thuộc Hội nghị.
KTNNLB Nga trong hoạt động của mình tuân thủ theo Hiến pháp Liên bang, Đạo luật KTNN và các Đạo luật khác của Liên bang Nga. Trong khuôn khổ các nhiệm vụ do luật định, KTNNLB Nga độc lập về tổ chức và chức năng.
KTNNLB Nga là một pháp nhân, có con dấu khắc hình Quốc huy Liên bang.
Nhiệm vụ: Tổ chức và thực hiện kiểm tra việc hoàn thành đúng thời hạn các khoản thu, khoản chi của Ngân sách Liên bang và ngân sách các quỹ Liên bang nằm ngoài ngân sách Liên bang, cả về số lượng, cơ cấu và mục tiêu.
Đánh giá cơ sở lý giải của các khoản thu, khoản chi trong các dự toán ngân sách Liên bang và ngân sách các quỹ Liên bang nằm ngoài ngân sách Liên bang.
Thẩm định về mặt tài chính các dự thảo Luật Liên bang, các văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan quyền lực Nhà nước Liên bang khác có dự kiến các khoản chi lấy từ ngân sách Liên bang hoặc ảnh hưởng đến việc thành lập và sử dụng ngân sách Liên bang cũng như ngân sách của các quỹ Liên bang nằm ngoài ngân sách Liên bang.
Phân tích việc không thực hiện đúng các chỉ tiêu đã xác định của ngân sách Liên bang và của ngân sách các quỹ Liên bang nằm ngoài ngân sách Liên bang, cũng như chuẩn bị các kiến nghị nhằm khắc phục các sai sót đó và hoàn thiện ngân sách Liên bang.
Kiểm tra tính hợp pháp và tính kịp thời của việc chuyển ngân sách Liên bang và ngân sách các quỹ Liên bang nằm ngoài ngân sách Liên bang trong Ngân hàng Trung ương Nga, trong các Ngân hàng được uỷ nhiệm và các tổ chức tín dụng khác của Liên bang.
Đệ trình thường xuyên các thông tin về việc thực hiện ngân sách Liên bang cũng như kết quả các hoạt động kiểm toán lên Hội đồng Liên bang và Viện Duma quốc gia.
Tổ chức bộ máy: KTNNLB bao gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Kiểm toán trưởng và bộ máy giúp việc của KTNNLB.
Chủ tịch KTNNLB do Viện Duma quốc gia bổ nhiệm theo nhiệm kỳ 6 năm. Nghị quyết về việc bổ nhiệm Chủ tịch KTNNLB được Viện Duma quốc gia thông qua với đa số phiếu cuả tất cả đại biểu Viện Duma quốc gia. Mọi công dân Liên bang Nga đã tốt nghiệp Đại học tổng hợp, có kinh nghiệm trong lĩnh vực hành chính Nhà nước, kiểm tra Nhà nước, kinh tế và tài chính đều có thể được bổ nhiệm làm Chủ tịch KTNNLB.
Chủ tịch KTNNLB không được có quan hệ họ hàng với Tổng thống Liên bang Nga, Chủ tịch Hội đồng Liên bang, Chủ tịch Viện Duma quốc gia, Chủ tịch Chính phủ Liên bang, Thủ trưởng Phủ Tổng thống Liên bang, Chánh Toà án tối cao Liên bang và Chủ tịch Hội đồng trọng tài tối cao Liên bang.
Chủ tịch KTNNLB có quyền tham dự các phiên họp của Hội đồng Liên bang, Viện Duma quốc gia, các Uỷ ban và tiểu ban của Nghị viện, các phiên họp của Chính phủ Liên bang và của Đoàn Chủ tịch Chính phủ Liên bang.
Chủ tịch KTNNLB không được phép là Đại biểu của Viện Duma quốc gia, là thành viên của Chính phủ Liên bang, không được làm bất kỳ công việc nào có tính chất sinh lợi, trừ công tác giảng dạy khoa học nghệ thuật...
Phó Chủ tịch KTNNLB do Hội đồng Liên bang bổ nhiệm theo nhiệm kỳ 6 năm. Nghị quyết bổ nhiệm Phó Chủ tịch KTNNLB được thông qua bởi đa số tất cả các đại biểu Hội đồng Liên bang.
Đánh giá kết quả kiểm toán: KTNNLB đánh giá một cách có hệ thống các kết quả thu được từ các biện pháp kiểm tra, khái quát chúng và nghiên cứu các nguyên nhân và hậu quả của các việc sai trái và vi phạm trong khi tạo các nguồn thu và chi từ ngân sách Liên bang.
Trên cơ sở các dữ liệu có được, KTNNLB xây dựng các kiến nghị nhằm hoàn thiện Luật Ngân sách và tiếp tục phát triển hệ thống tài chính và ngân sách của Liên bang, trình lên Viện Duma quốc gia.
Các kiến nghị của KTNNLB: Dựa vào các kết quả do các biện pháp kiểm tra đưa lại, KTNNLB kiến nghị với các cơ quan Nhà nước Liên bang, Thủ trưởng các cơ quan, doanh nghiệp được kiểm toán về các biện pháp để khắc phục các thiếu sót, truy cứu trách nhiệm của các quan chức đã vi phạm các Đạo luật của Liên bang và gây ra bê bối.
Kiến nghị của KTNNLB phải được xem xét trong thời hạn được ấn định, nếu không có thời hạn thì là 20 ngày kể từ ngày nhận được chúng. Các biện pháp được đưa ra để thực hiện kiến nghị phải được thông báo ngay cho KTNNLB. Nếu trong khi tiến hành kiểm toán mà phát hiện việc biển thủ phương tiện tài chính hoặc tài sản Nhà nước cũng như các vụ việc lạm dụng chức vụ khác thì KTNNLB chuyển ngay lập tức các hồ sơ, tài liệu cho các cơ quan bảo vệ pháp luật.
1.2. Mô hình độc lập với Quốc hội và Chính phủ (Liên bang Đức)
Vị trí: KTNN Liên bang là cơ quan tối cao của Liên bang, với tư cách một cơ quan kiểm tra tài chính độc lập chỉ tuân thủ pháp luật. Trong khuôn khổ những nhiệm vụ theo luật định, KTNN Liên bang hỗ trợ Quốc hội Liên bang, Hội đồng Liên bang và Chính phủ Liên bang trong việc ra quyết định của các cơ quan này.
Địa vị pháp lý của KTNN Liên bang và các thành viên cũng như những nhiệm vụ cơ bản được đảm bảo bằng Hiến pháp. Những vấn đề cụ thể được quy định trong các đạo luật riêng (Luật KTNN Liên bang, Luật Ngân sách Liên bang).
Nhiệm vụ:
(1) Toàn bộ công tác quản lý ngân sách và kinh tế của Liên bang, kể cả các tài sản đặc biệt và xí nghiệp của Liên bang đều được KTNN Liên bang kiểm toán theo chuẩn mực.
(2) Trên cơ sở kinh nghiệm kiểm toán, KTNN Liên bang có thể tư vấn cho Quốc hội Liên bang, Hội đồng Liên bang, Chính phủ Liên bang và cho từng Bộ của Liên bang về những vấn đề có liên quan. Khi KTNN Liên bang tư vấn cho Quốc hội hoặc Hội đồng Liên bang thì đồng thời cũng thông báo cho Chính phủ Liên bang.
(3) KTNN Liên bang tổng hợp những kết luận kiểm toán của mình vào những Báo cáo kiểm toán gửi cho các đơn vị được kiểm toán, để đơn vị này trình bày quan điểm.
(4) Hàng năm, KTNN Liên bang báo cáo những kết quả kiểm toán quan trọng cho Quốc hội Liên bang, Hội đồng Liên bang và Chính phủ Liên bang dưới hình thức những "Báo cáo tổng hợp" (Báo cáo năm). Nó là cơ sở để Quốc hội Liên bang vãn hồi trách nhiệm cho Chính phủ Liên bang. Báo cáo này cũng được giới thiệu trước công luận trong một cuộc họp báo Liên bang.
(5) KTNN Liên bang có thể thông báo bất kể lúc nào về những vấn đề có ý nghĩa quan trọng cho Quốc hội Liên bang, Hội đồng Liên bang và Chính phủ Liên bang (Báo cáo đặc biệt).
(6) KTNN Liên bang chẳng những tư vấn cho các cơ quan hành pháp và lập pháp thông qua những kiến nghị trong Báo cáo kiểm toán và Báo cáo năm, mà trước hết thông qua các bài tham luận (bằng văn bản hoặc bằng miệng) về những chủ đề thời sự (như những dự án mua sắm với lượng tài chính lớn) hoặc trong khuôn khổ xây dựng dự toán ngân sách.
Phạm vi hoạt động: KTNN Liên bang kiểm tra:
- Các khoản thu, các khoản chi, các nghĩa vụ chi tài sản và các khoản nợ.
- Các chương trình có ảnh hưởng tới tài chính.
- Các khoản lưu giữ và tạm ứng.
- Việc sử dụng các kinh phí được bổ sung nhằm tự tạo vốn.
Theo Điều 88, Quy chế Ngân sách Liên bang ban hành ngày 19/8/1969, KTNN Liên bang có thể giới hạn phạm vi kiểm toán và cho phép miễn kiểm tra các hoạt động kế toán.
Tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động:
- 9 Vụ kiểm toán, mỗi Vụ có 6 Phòng kiểm toán, bao gồm khoảng 600 kiểm toán viên.
- 9 KTNN Khu vực gồm 500 Kiểm toán viên.
- Khoảng 1.500 kiểm toán viên trong các cơ quan của Liên bang.
- Kế hoạch ngân sách KTNN Liên bang được 78 triệu DM.
- Kế hoạch ngân sách KTNN Khu vực được 92 triệu DM.
Những quyết định của KTNN Liên bang được biểu quyết tập thể. Trong trường hợp bình thường thì 2 thành viên hữu trách ra quyết định (Vụ trưởng và Trưởng Phòng kiểm toán). Trong một số trường hợp nhất định thì Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch sẽ tham gia vào Hội đồng (Hội đồng 3 thành viên). Những quyết định trong Hội đồng 2 hoặc 3 thành viên chỉ có thể thông qua với sự nhất trí của tất cả các thành viên. Đại hội đồng của KTNN Liên bang chỉ quyết nghị về những vấn đề vợt ra ngoài khuôn khổ 1 Vụ hoặc đặc biệt quan trọng.
1.3. Mô hình trực thuộc Chính phủ (Trung Quốc)
Luật kiểm toán Cộng hoà nhân dân Trung Hoa ban hành ngày 31/8/1994 quy định cơ sở pháp lý của hoạt động kiểm toán nhà nước.
Mục đích của hoạt động kiểm toán: Nhằm tăng cường sự kiểm tra Nhà nước về tài chính, bảo đảm trật tự Nhà nước về kinh tế và tài chính, khuyến khích xây dựng chính sách cởi mở và bảo đảm sự phát triển kinh tế quốc dân lành mạnh.
Các lĩnh vực chịu kiểm toán:
- Việc thực hiện ngân sách thuộc các ngành của Quốc vụ viện và chính quyền nhân dân địa phương các cấp.
- Các khoản thu, khoản chi của các cơ quan tài chính Nhà nước, các doanh nghiệp và tổ chức.
Cơ quan kiểm toán hoạt động theo luật, nhằm kiểm tra tính đúng đắn, tính hợp pháp và tính kinh tế của việc thực hiện ngân sách và các khoản thu, khoản chi của các cơ quan nói trên.
Quốc vụ viện và chính quyền địa phương từ cấp huyện trở lên hàng năm phải trình lên Uỷ ban thường vụ Đại hội nhân dân cấp mình báo cáo hoạt động của Cơ quan Kiểm toán đối với việc thực hiện ngân sách và các khoản thu, khoản chi khác.
- Các cơ quan Kiểm toán thực hiện sự kiểm toán theo pháp luật một cách độc lập, không có sự can thiệp của cơ quan hành chính, tổ chức và cá nhân khác.
- Quốc vụ viện lập ra KTNN để lãnh đạo hoạt động kiểm toán trong toàn quốc dưới sự chỉ đạo của Thủ tướng Quốc vụ viện. Tổng Kiểm toán là người lãnh đạo KTNN.
- Các Cơ quan kiểm toán địa phương chịu trách nhiệm và báo cáo với chính quyền nhân dân cùng cấp và Cơ quan kiểm toán cấp trên. Về mặt chuyên môn thì trước hết Cơ quan Kiểm toán cấp trên chịu trách nhiệm.
- Các Cơ quan Kiểm toán kiểm tra việc thực hiện ngân sách và việc quyết toán ngân sách cũng như việc quản lý và sử dụng các phương tiện nằm ngoài ngân sách cùng cấp (kể cả các đơn vị cấp dưới trực thuộc trực tiếp) và của cả chính quyền nhân dân cấp dưới.
KTNN kiểm toán và kiểm tra:
+ Các khoản thu và các khoản chi của Ngân hàng TW. Các Cơ quan Kiểm toán kiểm toán và kiểm tra các tài sản, các khoản nợ, lợi nhuận và thua lỗ của các tổ chức tài chính Nhà nước.
+ Các khoản thu và các khoản chi của các cơ quan Nhà nước được lập ra theo Luật định.
+ Các tài sản, nợ, lợi nhuận và thua lỗ của các DNNN.
+ Việc thực hiện ngân sách và các khoản thu, khoản chi của các công trình xây dựng Nhà nước.
+ Các khoản thu, khoản chi của các quỹ bảo hiểm xã hội, các khoản tài chính được quyên góp trong xã hội và các quỹ có liên quan do các tổ chức được cơ quan Nhà nước hoặc Chính phủ giao cho quản lý.
+ Các khoản thu, khoản chi, các khoản trợ giúp tài chính và khoản vay của các tổ chức tài chính quốc tế và Chính phủ nước ngoài.
2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
2.1. Tính độc lập của cơ quan KTNN
Các quy định về một cơ quan KTNN tại cả ba nước đều được đề cập đến trong Hiến pháp và coi đó như là một cơ quan có thẩm quyền cao trong kiểm tra tài chính nhà nước, tuy nhiên chỉ có Hiến pháp của Liên bang Đức có những quy định đề cập rõ đến tính độc lập của cơ quan KTNN, trong Hiến pháp của Trung Quốc cũng có một điều nói đến tính độc lập này và tại cả ba nước tính độc lập của cơ quan này đều được nói rõ hơn trong các đạo luật về kiểm toán.
Sự độc lập về tài chính là tiền đề cơ bản cho những phương thức làm việc mang tính tự chủ, do vậy trong khuyến cáo của tuyên bố Lima nói rất rõ điều này. Trong ba nước được giới thiệu ở trên chỉ có Đức là sự độc lập về tài chính được nói rõ trong các luật về kiểm toán; tại Nga, trong luật về cơ bản kiểm toán chỉ dừng lại ở việc lưu ý rằng phải tôn trọng tối đa tính độc lập của KTNN trong việc lập dự toán ngân sách, qua đó hạn chế sự tác động của các cơ quan khác; tại Trung Quốc, trong luật về cơ quan KTNN chỉ quy định rằng kinh phí để trang trải cho hoạt động của cơ quan này được cấp từ ngân sách mà không quy định rõ là cơ quan nào phê duyệt kinh phí này và ai là người xác định mức kinh phí đó. Qua đó ta có thể thấy rõ các quy định về tính độc lập của cơ quan KTNN ở Đức rất chặt chẽ và rõ ràng hơn so với ở Nga và Trung Quốc.
2.2. Mối quan hệ với Chính phủ và Quốc hội
Tại Đức như đã phân tích ở trên cho thấy cơ quan KTNN thực sự được xây dựng như là những cơ quan nhà nước độc lập, bằng việc tách cơ quan kiểm tra tài chính khỏi các cơ quan hành pháp hay lập pháp về mặt tổ chức sẽ đảm bảo sự tách rời và không đồng nhất giữa ngừời kiểm tra với người bị kiểm tra và giữ được một khoảng cách tối thiểu cần thiết - điều này đảm bảo tính độc lập về mặt nghiệp vụ nhưng có sự phối hợp rất chặt chẽ với nhau, ngoài ra KTNN liên bang còn thành lập một số kiểm toán khu vực nhưng không trực thuộc về mặt hành chính với các bang, điều này cho thấy tính độc lập cao của KTNN khu vực. Điều này tương đối giống với tại Nga khi mà KTNN Trung ương chỉ thành lập các KTNN khu vực để không bị các địa phương chi phối.
Trái lại, ở Trung Quốc do việc thành lập các cơ quan kiểm toán cùng cấp với các chính quyền từ cấp huyện trở lên và chịu sự chỉ đạo song trùng từ 2 cơ quan là chính quyền cùng cấp và KTNN cấp trên do đó hạn chế nhiều đến tính độc lập của cơ quan này.
Đương nhiên ở đây không thể đi tới chỗ hoàn toàn tách rời cơ quan KTNN khỏi Quốc hội và Chính phủ được, bởi vì việc lập ra cơ quan này cũng nhằm để báo cáo cho Quốc hội và Chính phủ biết rõ việc quản lý công quỹ và tài sản quốc gia đã được thực hiện như thế nào; mặt khác có nhiều lĩnh vực khi thực hiện nhiệm vụ kiểm toán rất cần sự hợp tác chặt chẽ từ chính hai cơ quan này đặc biệt trong việc tư vấn các dự luật cho Quốc hội hay kiến nghị Chính phủ phải sửa chữa và khắc phục các yếu kém trong quản lý và điều hành ngân sách.
Một trong những quan hệ cần sự độc lập của cơ quan KTNN trước Quốc hội và Chính phủ là việc cơ quan KTNN được quyền tự lựa chọn chương trình và mục tiêu kiểm toán hàng năm, được độc lập thực hiện các chương trình xây dựng mà không phụ thuộc vào sự ngăn trở hay giao nhiệm vụ từ cơ quan lập pháp hay tư pháp. Điều này thực sự đã được các cơ quan KTNN tại Đức và Nga tiến hành kể từ khi thành lập tới nay. Trái lại ở Trung Quốc, Chính phủ (Quốc vụ viện) giao nhiệm vụ cho cơ quan KTNN thực hiện hàng năm, đặc biệt đối với các DNNN giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế, trên cơ sở đó KTNN mới tiến hành lập kế hoạch và chương trình kiểm toán, lựa chọn các đơn vị được kiểm toán phù hợp với nhiệm vụ được giao.
2.3. Hình thức Tổ chức
Hình thức tổ chức của các nước được nghiên cứu ở trên cho thấy sự khác nhau, mỗi nước một kiểu từ hình thức có nhiều cơ quan KTNN độc lập nhau như ở Đức, đến hình thức có một cơ quan KTNN nhưng lại được tổ chức theo mô hình tập trung thống nhất như kiểu Nga hay một cách thức là các cơ quan KTNN trực thuộc cả vào chính quyền địa phương như tại Trung Quốc. Tuy nhiên các mô hình này đều có sự thích ứng với hình thức tổ chức NSNN và các quy định trong Hiến pháp và Luật về tổ chức bộ máy nhà nước của từng nước. Việc bổ nhiệm và miễn nhiệm đối với người đứng đầu các cơ quan KTNN thường được sự phê chuẩn của Quốc hội và người đề cử thường dành quyền cho Chính phủ. Nhiệm kỳ công tác của người đứng đầu và các uỷ viên của nó thường kéo dài hơn nhiệm kỳ của Chính phủ và Quốc hội, họ chỉ bị miễn nhiệm khi không đủ sức khoẻ, về hưu hoặc vi phạm các quy định nghề nghiệp.
2.4. Cơ chế hoạt động
Như đã phân tích ở trên, đứng đầu các cơ quan này ở các ba nước đều có một chủ tịch Cơ quan KTNN, trong luật kiểm toán của Đức và Nga thể hiện rõ một cơ cấu tổ chức mang tính đồng sự, tức là các vấn đề, kết luận của cơ quan kiểm toán được quyết định bởi một hội đồng có nhiều thành viên (còn gọi là các uỷ viên) và thông qua quyết định theo nguyên tắc đa số. Các quyền quyết định được phân cấ