Thông tin là một vấn đề luôn được quan tâm đối với các chủ thể trong nền kinh tế đặc biệt là trong thời đại hiện nay- thời đại thông tin- thời đại của nền kinh tế tri thức. Đối với họ việc tìm kiếm thông tin và quản trị thông tin là vô cùng quan trọng nó quyết định tính hiệu quả trong các quyết định của mình.
Ngày 20/7/2007 với việc đưa vào vận hành trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh đã đánh dấu sự ra đời của thị trường chứng khoán Việt Nam. Qua hơn 7 năm phát triển Việt Nam đã căn bản xây dựng được cho mình một thị trường chứng khoán riêng. Tuy nhiên sự tăng giảm diễn ra liên tục với biên độ lớn trong thời gian qua đã nói lên cảnh báo cho các chủ thể của thị trường chứng khoán những rủi ro ngày càng dễ dàng xảy ra . Tình trạng trên diễn ra xuất phát từ nhiều nguyên nhân song nguyên nhân cơ bản là: tính minh bạch thông tin trên thị trường chứng khoán chưa được đảm bảo. Điều này đã làm ảnh hưởng rất nhiều đến các nhà đàu tư. Chúng ta đã biết thị trường chứng khoán là thị trường của thông tin, ai có thông tin chính xác, kịp thời và khả năng phân tích tốt thì sẽ đầu tư có hiệu quả và ngược lại ai không có thông tin chính xác sẽ bị tổn thất. Với việc ban hành nghị định 36/2007/NĐ-CP quy định mức xử phạt đối với đối tượng công bố thông không chính xác về chứng khoán đã phân nào giúp cho nhà đầu tư có được thông tin tốt hơn phụcvụ cho qua trình quản tri thông tin của mình.nhưng bên cạnh đó các nhà đầu tư cũng phải tìm cho mình phương pháp quản trị thông tin có hiệu quả hơn.
Thực tế hiện nay cho thấy các nhà đầu tư chứng khoán ở Việt Nam tiến hành đầu tư chủ yếu là theo phong trào, họ không có nhiều kiến thức cũng như kinh nghiệm cho việc quản tri thông tin để đưa ra những quyết định có cơ sở khoa học.chính xác. Ở Việt Nam hiện nay có rất nhiều trung tâm nhận truyền đạt các kiến thức, kinh nghiệm cho các nhà đầu tư song số lượng vẫn ít so với nhu cầu,chất lượng chưa được kiểm nghiệm và kiểm tra sát sao. Là một sinh viên em rất thích tìm hiều về lĩnh vực chứng khoán, cho nên em đã chọn đề tài: Quản trị thông tin về thị trường chứng khoán với tư cách là một nhà đầu tư cá nhân. Bài đề án của em nhằm giải quyết câu hỏi .
- Là một nhà đầu tư cá nhân thì sẽ quản trị thông tin vể thị trường chứng khoán như thế nào?
- Hiện nay các nhà đầu tư cá nhân quản trị thông tin về thị trường chứng khoán như thế nào?
-Các nhà quản lý cũng như các chủ thể trong thị trường chứng khoán nên làm gì để giúp cho các nhà đầu tư cá nhân thực hiện quá trình quản trị thông tin cho tốt hơn ?
Bài viết của của em gồm 3 phần chính:
PHẦN I: Cơ sở lý luận của quản trị thông tin về thị trường chứng khoán với tư cách là nhà đầu tư cá nhân.
PHẦN II: Thực trạng quản trị thông tin về thị trường chứng khoán của một số nhà đầu tư cá nhân
PHẦN III: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện thông tin về thị trường chứng khoán của nhà đầu tư cá nhân
Do là một sinh viên còn hạn chế nhiều về kiến thức lẫn kinh nghiệm nên bài viết của tôi không tránh khỏi có nhiều hạn chế .Tôi rất mong có được sự đóng góp ý kiến của các bạn cho bài viết của tôi được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Nguyễn Thị Ngọc Huyền đã tận tình hướng dẫn giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện đề tài này.
30 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1154 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Quản trị thông tin về thị trường chứng khoán với tư cách là một nhà đầu tư cá nhân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Thông tin là một vấn đề luôn được quan tâm đối với các chủ thể trong nền kinh tế đặc biệt là trong thời đại hiện nay- thời đại thông tin- thời đại của nền kinh tế tri thức. Đối với họ việc tìm kiếm thông tin và quản trị thông tin là vô cùng quan trọng nó quyết định tính hiệu quả trong các quyết định của mình.
Ngày 20/7/2007 với việc đưa vào vận hành trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh đã đánh dấu sự ra đời của thị trường chứng khoán Việt Nam. Qua hơn 7 năm phát triển Việt Nam đã căn bản xây dựng được cho mình một thị trường chứng khoán riêng. Tuy nhiên sự tăng giảm diễn ra liên tục với biên độ lớn trong thời gian qua đã nói lên cảnh báo cho các chủ thể của thị trường chứng khoán những rủi ro ngày càng dễ dàng xảy ra . Tình trạng trên diễn ra xuất phát từ nhiều nguyên nhân song nguyên nhân cơ bản là: tính minh bạch thông tin trên thị trường chứng khoán chưa được đảm bảo. Điều này đã làm ảnh hưởng rất nhiều đến các nhà đàu tư. Chúng ta đã biết thị trường chứng khoán là thị trường của thông tin, ai có thông tin chính xác, kịp thời và khả năng phân tích tốt thì sẽ đầu tư có hiệu quả và ngược lại ai không có thông tin chính xác sẽ bị tổn thất. Với việc ban hành nghị định 36/2007/NĐ-CP quy định mức xử phạt đối với đối tượng công bố thông không chính xác về chứng khoán đã phân nào giúp cho nhà đầu tư có được thông tin tốt hơn phụcvụ cho qua trình quản tri thông tin của mình.nhưng bên cạnh đó các nhà đầu tư cũng phải tìm cho mình phương pháp quản trị thông tin có hiệu quả hơn.
Thực tế hiện nay cho thấy các nhà đầu tư chứng khoán ở Việt Nam tiến hành đầu tư chủ yếu là theo phong trào, họ không có nhiều kiến thức cũng như kinh nghiệm cho việc quản tri thông tin để đưa ra những quyết định có cơ sở khoa học.chính xác. Ở Việt Nam hiện nay có rất nhiều trung tâm nhận truyền đạt các kiến thức, kinh nghiệm cho các nhà đầu tư song số lượng vẫn ít so với nhu cầu,chất lượng chưa được kiểm nghiệm và kiểm tra sát sao. Là một sinh viên em rất thích tìm hiều về lĩnh vực chứng khoán, cho nên em đã chọn đề tài: Quản trị thông tin về thị trường chứng khoán với tư cách là một nhà đầu tư cá nhân. Bài đề án của em nhằm giải quyết câu hỏi .
- Là một nhà đầu tư cá nhân thì sẽ quản trị thông tin vể thị trường chứng khoán như thế nào?
- Hiện nay các nhà đầu tư cá nhân quản trị thông tin về thị trường chứng khoán như thế nào?
-Các nhà quản lý cũng như các chủ thể trong thị trường chứng khoán nên làm gì để giúp cho các nhà đầu tư cá nhân thực hiện quá trình quản trị thông tin cho tốt hơn ?
Bài viết của của em gồm 3 phần chính:
PHẦN I: Cơ sở lý luận của quản trị thông tin về thị trường chứng khoán với tư cách là nhà đầu tư cá nhân.
PHẦN II: Thực trạng quản trị thông tin về thị trường chứng khoán của một số nhà đầu tư cá nhân
PHẦN III: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện thông tin về thị trường chứng khoán của nhà đầu tư cá nhân
Do là một sinh viên còn hạn chế nhiều về kiến thức lẫn kinh nghiệm nên bài viết của tôi không tránh khỏi có nhiều hạn chế .Tôi rất mong có được sự đóng góp ý kiến của các bạn cho bài viết của tôi được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Nguyễn Thị Ngọc Huyền đã tận tình hướng dẫn giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện đề tài này.
PHẦN I:Cơ sở lý luận của quản trị thông tin về thị trường chứng khoán với tư cách là một nhà đầu tư cá nhân
I. Thị trường chứng khoán và thông tin về thị trường chứng khoán mà nhà đầu tư cá nhân cần biết
1) Thị trường chứng khoán.
1.1 Khái niệm và bản chất Thị trường chứng khoán.
Thị trường chứng khoán.
Thị Trường Chứng khoán
Thị trường
(Chợ)
Chứng khoán
(Hàng hoá)
Theo mô hình trên, ta dễ dàng hiểu Thị trường chứng khoán về cơ bản cũng giống như các loại thị trường khác. Nghĩa là cũng là nơi diễn ra các giao dịch mua bán, trao đổi các loại hàng hoá là chứng khoán.
Trong thực tế, đã có nhiều quan điểm về Thị trường chứng khoán nhưng quan điểm chung nhất là:
Thị trường chứng khoán là một bộ phận của thị trường tài chính, là nơi diễn ra các giao dịch mua bán trao đổi các chứng khoán, các hàng hoá và dịch vụ tài chính giữa các chủ thể tham gia. Việc trao đổi mua bán này được thực hiện theo những quy tắc ấn định trước.
Chứng khoán:Chứng khoán được hiểu là các loại giấy tờ có giá hay bút toán ghi sổ, nó cho phép chủ sở hữu có quyền yêu cầu về thu nhập và tài sản của tổ chức phát hành hoặc quyền sở hữu. Các quyền yêu cầu này có sự khác nhau tuỳ theo tính chất sở hữu của chúng. Các tính chất cơ bản của chứng khoán bao gồm:
Tính thanh khoản (tính lỏng): Là khả năng chuyển đổi nhanh chứng khoán sang tiền mặt.
Tính sinh lợi: Là khả năng sinh lợi từ cổ tức và lãi vốn.
Tính rủi ro: Là sai biệt giữa lợi tức thực tế với sinh lợi kỳ vọng. Gồm có rủi ro hệ thống và rủi ro phi hệ thống.
Theo luật chứng khoán hiện hành (2006) thì “Chứng khoán là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với tài sản hoặc phần vốn của tổ chức phát hành. Chứng khoán được thể hiện dưới hình thức chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử, bao gồm các loại sau đây:
Cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ;
Quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán
Bản chất thị trường chứng khoán:-Thị trường chứng khoán là nơi gặp nhau giữa những chủ thể thừa vốn và những chủ thể có nhu cầu về vốn. Nơi thực hiện giao dịch trao đổi, mua bán các loại chứng khoán nhằm thực hiện mục tiêu của mình. Như vậy, có thể nói bản chất của thị trường chứng khoán là thị trường thể hiện mối quan hệ giữa cung và cầu của vốn đầu tư, mà ở đó giá cả của chứng khoán thể hiện thông tin về chi phí vốn hay giá cả của vốn đầu tư. Thị trường chứng khoán là hình thức phát triển bậc cao của nền sản xuất và lưu thông hàng hoá.
- Thị trường chứng khoán là nơi tập trung và phân phối các nguồn tiết kiệm. Nguồn tiết kiệm đó được phân phối cho người sử dụng theo giá mà người sử dụng sẵn sàng trả và theo những phán đoán của thị trường về khả năng sinh lợi từ các dự án mà người sử dụng thực hiện, qua đó chuyển tư bản sở hữu sang tư bản kinh doanh.
- Thị trường chứng khoán là định chế tài chính trực tiếp, cả người cung ứng và người có nhu cầu về vốn đều tham gia vào thị trường một cách trực tiếp khi có đủ điều kiện về tài chính và pháp lý. Điều này giúp nhà đầu tư chứng khoán gắn liền quyền sở hữu vốn với quyền sử dụng vốn, nâng cao khả năng quản lý vốn. Thị trường chứng khoán không phân biệt ranh giới giữa đầu tư ngắn hạn và đầu tư dài hạn, vì nhà đầu tư có thể mua bán chứng khoán ở bất kỳ thời điểm nào nên các chứng khoán trung và dài hạn cũng có thể trở thành đối tượng đầu tư ngắn hạn. Như vậy nhà đầu tư có thể động đầu tư ngắn hạn tránh các rủi ro do đầu tư dài hạn.
1.2. Phân loại thị trường chứng khoán.
Theo các mục đích nghiên cứu khác nhau, Thị trường chứng khoán có thể được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau. Tuy nhiên, xét một cách cơ bản và khá đầy đủ, ta có thể phân loại thị trường chứng khoán theo các tiêu thức sau:
Theo cơ chế luân chuyển vốn ta có:
- Thị trường sơ cấp (hay thị trường cấp 1): Là thị trường phát hành chứng khoán hay là nơi mua bán các chứng khoán lần đầu tiên. Tại thị trường này, giá của chứng khoán là giá phát hành. Việc mua bán chứng khoán trên thị trường sơ cấp làm tăng vốn cho chủ thể phát hành.
- Thị trường thứ cấp (hay thị trường cấp 2): Là thị trường giao dịch mua bán trao đổi, chuyển nhượng các chứng khoán sau phát hành, các giao dịch này không làm gia tăng vốn cho chủ thể phát hành mà chỉ chuyển đổi quyền sở hữu giữa các nhà đầu tư, nhằm mục đích kiếm lời, di chuyển vốn đầu tư hay di chuyển tài sản xã hội.
Hai thị trường này có mối quan hệ biện chứng, củng cố và thúc đẩy nhau phát triển. Điều đó được thể hiện ở chỗ:
- Nếu không có thị trường sơ cấp thì không có thị trường thứ cấp
-Thị trường thứ cấp làm tăng tính lỏng cho chứng khoán đã phát hành ở thị trường sơ cấp, làm tăng sự ưa chuộng của chứng khoán và làm giảm rủi ro cho các nhà đầu tư.
-Thị trường thứ cấp xác định giá của chứng khoán đã phát hành trên thị trường sơ cấp và được coi là thị trường định giá công ty.
-Thị trường thứ cấp cung cấp cơ sở tham chiếu cho các nhà phát hành cũng như các nhà đầu tư trên thị trường sơ cấp.
Hai thị trường tác động qua lại và hỗ trợ cho nhau. Nhưng mục đích cuối cùng của thị trường chứng khoán là tăng cường hoạt động trên thị trường sơ cấp. Vì chỉ tại thị trường này vốn mới thực sự vận động, còn hoạt động trên thị trường thứ cấp chỉ là tư bản giả, không tác động trực tiếp tới việc tích tụ và tập trung vốn.
Theo phương thức chức giao dịch ta có:
-Thị trường chứng khoán tập trung: được tổ chức theo hình thức Sở giao dịch hay Trung tâm giao dịch. Chỉ những công ty lớn, đủ điều kiện mới được hoạt động trên thị trường này. Thị trường này được quản lý một cách chặt chẽ bởi Uỷ ban chứng khoán quốc gia. Các hoạt động mua bán, trao đổi diễn ra tại một địa điểm cố định. Hoạt động duới sự điều tiết của Luật chứng khoán và thị trường chứng khoán. Ví dụ ở Mỹ là sở giao dịch chứng khoán NewYork (NYSE), Tại Nhật là sở giao dịch chứng khoán Tokyo (TSE)…
- Thị trường chứng khoán phi tập trung (OTC): Là thị trường do các nhà buôn và các nhà tạo lập thị trường xây dựng lên. Thị trương này không có địa điểm giao dịch chính thức mà diễn ra qua điện thoại hay mạng máy tính diện rộng. Thị trường này thường có quy mô lớn hơn rất nhiều so với thị trường chứng khoán tập trung. Ví dụ tại Mỹ là mô hình NASDAQ, tại Nhật là JASDAQ…Hiện nay giữa thị trường chứng khoán tập trung và phi tập trung không còn ranh giới rõ ràng. Khi mà các sở giao dịch, các thị trường phi tập trung ngày càng mở rộng quy mô và tăng cường liên kết.
- Ngoài ra, còn loại thị trường thứ ba dành cho các công ty không đủ điều kiện niêm yết trên cả hai thị trường trên. Chúng thường được gọi là thị trường chứng khoán tự do.
Theo bản chất công cụ tài chính ta có:
- Thị trường trái phiếu (thị trường công cụ nợ) là thị trường mà hàng hóa tại đó là các trái phiếu. Theo như luật chứng khoán hiện hành thì: “ Trái phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn nợ của tổ chức phát hành”. Việc phát hành trái phiếu thực chất là đứng ra đi vay theo phương thức hoàn trả cả gốc và lãi theo một tỷ lệ lợi tức nhất định. Người cho vay không chịu bất cứ trách nhiệm nào về hoạt động sử dụng vốn. Trái phiếu thường có thời hạn xác định, có thể là trung hay dài hạn.
- Thị trường cổ phiếu (thị trường vốn cổ phần) là thị trường cơ bản trong thị trường chứng khoán. Là nơi giao dịch mua bán, trao đổi các giấy tờ xác nhận cổ phần đóng góp của cổ đông. “Cổ phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn cổ phần của tổ chức phát hành” (Luật chứng khoán 2006). Theo đó, cổ đông là chủ sở hữu
của công ty và chịu trách nhiệm trên phần đóng góp của mình. Thu nhập từ cổ phiếu là cổ tức (phần lợi nhuận sau thuế đem chia) và lãi vốn (phần chênh lệch giá mua và giá bán cổ phiếu). Cổ phiếu có nhiều loại, nhưng đều là công cụ tài chính không thời hạn.
- Thi trường các công cụ dẫn suất, hay công cụ phái sinh là thị trường giao dịch trao đổi mua bán các công cụ phái sinh, tiêu biểu như quyền mua, quyền bán, hợp đồng tương lai.. Đây là các công cụ phòng ngừa rủi ro hữu hiệu và là công cụ đầu cơ lý tưởng cho nhà đầu tư.
1.3 Vai trò của thị trường chứng khoán.
Lịch sử phát triển hàng trăm năm đã khằng định được vai trò của thị trường chứng khoán trong việc phát triển nền kinh tế của mỗi quốc gia nói riêng và toàn thế giới nói chung. Hiện nay, một nền kinh tế vững mạnh không thể thiếu vắng sự tồn tại của thị trường chứng khoán. Vậy điều gì đã làm cho thị trường chứng khoán có một vị trí quan trọng đến vậy. Chúng ta có thể hiểu điều đó khi thấy được vai trò của thị trường chứng khoán, biểu hiện ở những điểm sau:
Thứ nhất, thị trường chứng khoán tạo ra các công cụ tài chính với tính thanh khoản cao có thể tích tụ , tập trung và phân phối vốn trên thị trường một cách có hiệu quả, phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế. Yếu tố thông tin và yếu tố cạnh tranh trên thị trường chứng khoán sẽ thúc đẩy sự phát triển của các công nghệ mới, nhạy cảm với sự thay đổi thường xuyên của thị trường.
Thị trường chứng khoán buộc các ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính vừa có cơ hội phát triển, vừa là thách thức tạo động lực cạnh tranh.
Việc phát hành chứng khoán ra thị trường chứng khoán là giải pháp hữu hiệu cho các công ty huy động vốn cho quá trình sản xuất kinh doanh, tránh được các khoản vay với chi phí cao và sự kiểm soát chặt chẽ của ngân hàng. Mặt khác tạo sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong việc huy động và sử dụng vốn.
Thứ hai, thị trường chứng khoán tạo điều kiện tái phân phối công bằng hơn thông qua việc san sẻ quyền sở hữu, định đoạt và hưởng lợi ích từ hoạt động của công ty. Nó cũng tránh hiện tượng tập trung tư bản vào tay một số ít người trong xã hội do đó phòng tránh được hiện tượng độc quyền. Tạo điều kiện cạnh tranh công bằng hơn, tạo hiệu quả và động lực cho nền kinh tế.
Thứ ba, thị trường chứng khoán giúp tách biệt giữa việc sở hữu với quản lý vốn cũng như doanh nghiệp. Khi quy mô Doanh nghiệp tăng, đòi hỏi việc chuyên nghiệp trong quản lý. Người có vốn không có kỹ năng quản lý cũng có thể tham gia thị trường một cách dễ dàng, tạo điều kiện tiết kiệm chất xám cho người quản lý, tạo cơ chế kiểm soát chặt chẽ hơn, minh bạch hơn tránh những tiêu cực trong quản lý.
Thứ tư, Thị trường chứng khoán tăng cường khả năng thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Ngoài đầu tư trực tiếp, nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài cũng dễ dàng thực hiện hơn, điều này cũng giúp tăng cường khả năng cạnh tranh quốc tế và mở rộng các cơ hội kinh doanh cho các doanh nghiệp.
Thứ năm, thị trường chứng khoán giúp Chính phủ trong việc huy động vốn, bù đắp cho thâm hụt ngân sách và thực hiện các chính sách tiền tệ một cách hiệu quả.
Thứ sáu, thị trường chứng khoán cung cấp sự dự báo cho hoạt động kinh doanh trong tương lai.
Và tất nhiên, thị trường chứng khoán cũng không thể tránh khỏi những hạn chế nhất định như đầu cơ, thâu tóm, xung đột. Nhưng những mặt trái đó chủ yếu do sự thiếu minh bạch trong kinh doanh tạo nên, vì vậy vai trò của Chính phủ, của các tổ chức và đặc biệt là dạo đức trong kinh doanh chứng khoán là hết sức quan trọng. Thị trường chứng khoán là tích cực hay tiêu cực đều dựa trên hoạt động của các chủ thể tham gia thị trường.
1.4. Các chủ thể trên thị trường chứng khoán.
Về cơ bản, một thị trường chứng khoán muốn hoạt động cần sự góp mặt của các chủ thể sau:
a. Chủ thể phát hành.
Là những người cung cấp chứng khoán ra thị trường nhằm thu hút vốn đầu tư. Chủ thể phát hành bao gồm chính phủ, doanh nghiệp, quỹ đầu tư và các trung gian tài chính.
b. Nhà đầu tư.
Là những người có vốn thực hiện mua bán chứng khoán trên thị trường nhằm tìm kiếm lợi nhuận. Bao gồm nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư có tổ chức. Nhà đầu tư cá nhân thường mua bán với số lượng chứng khoán không lớn, họ tìm kiếm lợi nhuận trên cơ sở khả năng tài chính và khả năng chấp nhận rủi ro. Các nhà đầu tư có tổ chức là các nhà đầu tư chuyên nghiệp, thường mua bán chứng khoán với số lượng lớn, đa dạng hoá danh mục đầu tư để hạn chế rủi ro. Thường là các ngân hàng thương mại, công ty chứng khoán, quỹ hỗ tương, công ty bảo hiểm..Các quyết định đầu tư được thực hiện bởi các chuyên gia có kinh nghiệm.
c. Các tổ chức kinh doanh trên thị trường chứng khoán
bao gồm:
Công ty chứng khoán.
Các quỹ đầu tư chứng khoán.
Các trung gian tài chính.
Các tổ chức này thực hiện các nghiệp vụ chứng khoán được nhà nước quy định như: môi giới chứng khoán, bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư chứng khoán, lưu kí chứng khoán…
d.Các tổ chức có liên quan.
Ngoài các chủ thể chính nêu trên, thị trường chứng khoán không thể thiếu sự góp mặt của các tổ chức sau:
Các cơ quan quản lý và giám sát hoạt động của thị trường chứng khoán: Các cơ quan này được nhà nước thành lập, hoạt động với nhiệm vụ đảm bảo cho thị trường chứng khoán hoạt động một cách minh bạch, lành mạnh và có hiệu quả nhất.
Sở giao dịch chứng khoán.
Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán.
Tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán.
Các tổ chức hỗ trợ.
Các tổ chức đánh giá hệ số tín nhiệm.
Các tổ chức này có tác động không nhỏ, chúng có tác dụng bổ trợ tích cực cho các hoạt động của thị trường chứng khoán. Đảm bảo thực hiện các nguyên tắc trên thị trường, thực hiện công tác đánh giá thị trường, tạo ra các dịch vụ hữu ích cho các nhà đầu tư. Sự góp mặt của các tổ chức này tạo nên sự hoàn thiện cho thị trường chứng khoán.
1.5. Đôi nét về thị trường chứng khoán Việt Nam.
1.5.1. Tổng quan.
Như đã nêu trong lời mở đầu, thị trường chứng khoán Việt Nam cho tới nay đã có hơn 7 năm đi vào hoạt động. Nhìn chung, thị trường chứng khoán Việt Nam đang được đánh giá khá tốt với tốc độ tăng trưởng cao dù quy mô còn nhỏ bé. Theo cuộc điều tra mới nhất của hãng tin tài chính Bloomberg và hãng tư vấn đầu tư toàn cầu Standard and Poor’s thì tốc độ tăng trưởng của thị trường chứng khoán Việt Nam đứng thứ 24/83 thị trường tăng trưởng hàng đầu thế giới. Theo đó, tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm của Việt Nam đạt 43%. Tại thị trường Châu Á, chúng ta chỉ đứng sau Ấn Độ (50%) và Indonesia (46%). Có được kết quả đó trước hết là nhờ Việt Nam có được một môi trường đầu tư lí tưởng, tốc độ tăng trưởng bình quân luôn đạt trên 8 phần trăm, nền an ninh chính trị xã hội ổn định. Thêm vào đó là những cố gắng không nhỏ của Chính phủ và các Doanh nghiệp với việc ban hành các chính sách thu hút đầu tư, luật chứng khoán có hiệu lực, chính sách cổ phần hoá doanh nghiệp, cộng với một môi trường cạnh tranh lành mạnh. Đó là những động lực không nhỏ cho thị trường chứng khoán Việt Nam hiện tại cũng như tương lai.
Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng thị trường chứng khoán Việt Nam còn quá nhỏ bé so với các thị trường khác trên thế giới. Tháng 7/2000 khi đưa vào hoạt động tại Trung tâm giao dịch chứng khoán Tp Hồ Chí Minh mới chỉ có 2 công ty niêm yết với số vốn khoảng 16.8 triệu USD. Tới 2004 con số này là 3.1 tỷ USD, quá nhỏ bé so với hai thị trường hàng xóm là Thái Lan 132.3 tỷ USD và Trung Quốc với 650 tỷ USD. Theo số liệu thống kê của Bloomberg thì trong 3 tháng, tổng giá trị trao đổi của Việt Nam là 6.6 triệu USD, trong khi đó Thái Lan là 314 triệu USD và 3.1 tỷ USD tại Hồng Kông. Những con số này đã phản ánh quy mô còn quá nhỏ bé của thị trường Việt Nam. Bên cạnh đó có thể kể ra đây những mặt còn hạn chế của thị trường chứng khoán Việt nam như tính thanh khoản của chứng khoán chưa cao, chính sách thu hút đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực này chưa thông thoáng, cụ thể là quy định nhà đầu tư nước ngoài chỉ được nắm giữ 49% cổ phần công ty. Thêm vào đó là tính chuyên nghiệp của thị trường chưa cao, mà tiêu biểu là nguồn nhân lực còn quá nhiều hạn chế.
Thị trường chứng khoán Việt Nam được đánh giá là thăng hoa và bất ổn, thị trường có những lúc phát triển tột bậc nhưng cũng có lúc rơi rớt một cách thảm hại. Bởi vì lẽ đơn giản, chứng khoán là một thị trường mới mẻ, nguồn tiền đầu tư mang nặng tính phong trào và bị cuốn theo cơn lốc làm giàu nhanh chóng. Đó là thách thức không nhỏ về sự bất ổn của thị trường.
1.5.2. Về phân loại thị trường chứng khoán.
Hiện nay, thị trường chứng khoán Việt nam chủ yếu tồn tại theo hình thức thị trường tập trung với việc các chứng khoán chủ yếu được niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán Tp Hồ Chí Minh và Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội. Đó là điểm kh