Kinh tế càng phát triển càng đòi hỏi các quốc gia phải tự biến mình thành một bộ phận, một khâu trong dây chuyền sản xuất quốc tế. Hội nhập kinh tế là công cụ duy nhất giúp chúng ta thực hiện được điều này. Ngày 11/1/2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO. Điều này đã đánh dấu bước chuyển biến quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế của nước ta. Việc trở thành thành viên của WTO đem lại chúng ta nhiêu cơ hội lớn nhưng cũng đặt ra cho Việt Nam rất nhiều thách thức cho nền kinh tế nước ta vẫn còn kém phát triển. Vấn đề năng lực cạnh tranh, chất lượng hàng hoá - dịch vụ đang là bài toán nan giải trong các ngành và toàn bộ nền kinh tế. Thuỷ sản là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nước ta trong thời gian qua và những năm tới. Hiện nay, Nhà nước ta đang có kế hoạch phat triển thuỷ sản trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn, đi đầu trong danh sách các mặt hàng xuất khẩu chủ lực, góp phần tăng trưởng và hội nhập kinh tế quốc tế. Do vậy, hoạt động xuất khẩu thuỷ sản có ý nghĩa rất lớn đối với kinh tế nước ta trong những năm tới. Cũng chính vì điều này mà tôi chọn đề tài: Tác động của việc gia nhập WTO đến hoạt động xuất khẩu ngành thuỷ sản Việt Nam để thực hiện để án này.
Tôi xin chân thành cảm ơn GS.TS ĐẶNG ĐÌNH ĐÀO đã giúp đỡ tôi hoàn thành đề án này.
96 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1387 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Tác động của việc gia nhập WTO đến hoạt động xuất khẩu ngành thuỷ sản Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
Kinh tế càng phát triển càng đòi hỏi các quốc gia phải tự biến mình thành một bộ phận, một khâu trong dây chuyền sản xuất quốc tế. Hội nhập kinh tế là công cụ duy nhất giúp chúng ta thực hiện được điều này. Ngày 11/1/2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO. Điều này đã đánh dấu bước chuyển biến quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế của nước ta. Việc trở thành thành viên của WTO đem lại chúng ta nhiêu cơ hội lớn nhưng cũng đặt ra cho Việt Nam rất nhiều thách thức cho nền kinh tế nước ta vẫn còn kém phát triển. Vấn đề năng lực cạnh tranh, chất lượng hàng hoá - dịch vụ đang là bài toán nan giải trong các ngành và toàn bộ nền kinh tế. Thuỷ sản là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nước ta trong thời gian qua và những năm tới. Hiện nay, Nhà nước ta đang có kế hoạch phat triển thuỷ sản trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn, đi đầu trong danh sách các mặt hàng xuất khẩu chủ lực, góp phần tăng trưởng và hội nhập kinh tế quốc tế. Do vậy, hoạt động xuất khẩu thuỷ sản có ý nghĩa rất lớn đối với kinh tế nước ta trong những năm tới. Cũng chính vì điều này mà tôi chọn đề tài: Tác động của việc gia nhập WTO đến hoạt động xuất khẩu ngành thuỷ sản Việt Nam để thực hiện để án này.
Tôi xin chân thành cảm ơn GS.TS ĐẶNG ĐÌNH ĐÀO đã giúp đỡ tôi hoàn thành đề án này.
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUẤT KHẨU THUỶ SẢN
I/ VAI TRÒ CỦA XUẤT KHẨU THUỶ SẢN ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN.
1/ Khái quát về thuỷ sản
Nông nghiệp hiểu theo nghĩa rộng bao gồm các ngành trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp và thuỷ sản. Như vậy, khi nói đến ngành thuỷ sản, người ta nói đến ba khía cạnh chủ yếu sau đây:
Một là, ngành thuỷ sản là một bộ phận hay còn gọi là một phân ngành của nông nghiệp, bởi vì ngành thuỷ sản có những đặc điểm cơ bản của nông nghiệp nói chung. Tư liệu sản xuất chủ yếu của ngành thuỷ sản là mặt nước; đối tượng lao động là những sinh vật thuỷ sinh; kết quả sản xuất của ngành là những sản phẩm sinh vật, những kết quả sinh học. Mặc dù có những đặc điểm tương tự của nông nghiệp, ngành thuỷ sản vẫn có tính độc lập tương đối về kinh tế, kỹ thuật và môi trường. Tính độc lập tương đối về kinh tế biểu hiện ở chỗ trong ngành thuỷ sản người ta rất khó phân biệt rạch ròi về quyền sở hữu, quản lý và sử dụng
thuỷ vực và các nguồn lợi thuỷ sản, nhất là đối với các lưu vực con sông, cửa biển, vùng vịnh hay vùng biển. Do vậy, trong các hình thức tổ chức sản xuất, sự hiệp tác thường được coi trọng. Về mặt kỹ thuật, tính độc lập tương đối thể hiện ở chỗ ngành thuỷ sản cũng đòi hỏi phải có một hệ thống cơ sở vật chất riêng phục vụ cho nuôi trồng hay đánh bắt. Về môi trường, hoạt động của ngành thuỷ sản cũng có thể tự gây ô nhiễm cho môi trường nước, lại cũng có thể làm các thuỷ vực và nguồn lợi thuỷ sản bị ô nhiễm hay huỷ hoại do hoạt động của các ngành khác gây ra. Do vậy, sự phát triển hài hoà giữa thuỷ sản và trồng trọt, chăn nuôi và lâm nghiệp trên từng vùng sinh thái là điều kiện phát triển bền vững của nông nghiệp nói chung.
Hai là, những hoạt động xuất phát điểm của ngành thuỷ sản gồm nuôi trồng và đánh bắt thuỷ sản. Tuỳ điều kiện cụ thể của mỗi vùng và mỗi địa phương về mặt nước và nguồn lợi thuỷ sản mà địa phương đó coi trọng hoạt động nuôi trồng, đánh bắt hoặc kết hợp phát triển một cách hài hoà các hoạt động nói trên.
Ba là, ngành thuỷ sản là một ngành hàng có tính chất liên ngành cao. Khi trình độ phát triển và nhu cầu xã hội còn thấp, sản xuất ngành thuỷ sản có quy mô nhỏ, sản phẩm ít nên chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trực tiếp dưới dạng sản phẩm tươi. Khi quy mô sản xuất tăng lên, nhu cầu tiêu dùng của xã hội đa dạng và phức tạp thì việc chế biến phần lớn các sản phẩm đòi hỏi phải phát triển mạnh mẽ các ngành chuyên môn hoá hẹp như: công nghiệp đánh bắt cá biển, cơ khí chế tạo và sửa chữa tàu thuyền, công nghiệp sản xuất thức ăn cho chăn nuôi thuỷ sản …
2/ Vai trò của xuất khẩu thuỷ sản dối với kinh tế Việt Nam
Đối với những nước có tiềm năng về thuỷ vực và nguồn lợi thuỷ sản, phát triển ngành thuỷ sản tạo ra nguồn hàng xuất khẩu có giá trị, tăng thu ngoại tệ cho đất nước.
Trong nhiều năm qua, ngành thuỷ sản nước ta đã từng bước phát triển và có đóng góp quan trọng vào hoạt động xuất khẩu của đất nước. Năm 1980, sản lượng thuỷ sản cả nước đạt 558,66 ngàn tấn, trong đó xuất khẩu 2,72 ngàn tấn, đạt giá trị kim ngạch 11,3 triệu USD. Đến năm 2001, sản lượng đạt 2.226,9 ngàn tấn (tăng gần 4 lần), xuất khẩu là 358,833 ngàn tấn (tăng gần 132 lần), đạt giá trị kim ngạch là 1760 triệu USD (tăng 155 lần ). Năm 2003, mặc dù ngành thuỷ sản nước ta phải đối mặt với những diễn biến phức tạp của thị trường thế giới, những rào cản thương mại của một số nước, nhưng giá trị kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản vẫn đạt 2,3 tỷ USD (bằng 1,3 lần so với năm 2000),trong đó giá trị xuất khẩu tôm đạt trên 1tỷ USD đã khẳng định vị trí xuất khẩu tôm trên thị trường thế giới và trong nghề nuôi trồng thuỷ sản nước ta. Đối với các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu trong ngành thuỷ sản, đến nay đã có những bước tiến quan trọng trong việc đổi mới công nghệ, nâng cao sức cạnh tranh. Đã có 100 doanh nghiệp được EU công nhận đủ điều kiện an toàn vệ sinh, hơn 120 doanh nghiệp được cấp giấy phép vào thị trường Mỹ. Các doanh nghiệp cũng từng bước nâng cao năng lực xúc tiến thương mại để đi vào các thị trường mới. Đối với toàn ngành thuỷ sản, đã có những tiến bộ đáng kể về gắn kết giữa yêu cầu thị trường ngoài nước ( về số lượng, chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm ) với thực tiễn sản xuất kinh doanh chế biến, nuôi trồng, khai thác với phát triển cơ sở hậu cần dịch vụ; gắn kết giữa khâu chế biến xuất khẩu với yêu cầu vệ sinh trong nuôi trồng, bảo quản và khai thác sản phẩm, gắn kết giữa khâu chế biến xuất khẩu với chế biến phục vụ nhu cầu thị trường nội địa. Hiện nay sản phẩm thuỷ sản Việt Nam đã xuất khẩu tới 80 nước và vùng lãnh thổ thế giới và đem lại nguồn thu khá lớn cho đất nước.
Ngoài ra xuất khẩu thuỷ sản còn tạo điều kiện cho Việt Nam đi sâu khai phá những thị trường tiềm năng trên thế giới, tạo điều kiện giao lưu kinh tế, hợp tác quốc tế, giúp Việt Nam nhanh chón hội nhập với thế giới.
3/ Các nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu thuỷ sản
3.1. Thuế quan hay thuế xuất nhập khẩu (XNK)
Đây là loại thuế gián thu đánh vào hàng hoá xuất nhập khẩu khi qua lĩnh vực thuế quan của một nước. Nhà nước sử dụng công cụ thuế quan nhằm hai mục tiêu: Một là, quản lý XNK, nâng cao hiệu quả hoạt động ngoại thương, góp phần bảo vệ sản xuất và hướng dẫn tiêu dùng; hai là, tăng thu ngân sách. Mặc dù, trong những năm gần đây, vai trò của thuế trong thương mại quốc tế đang bị giảm dần ở các nước chậm phát triển, song khoản thu về thuế trong thương mại quốc tế vẫn chiếm vị trí đáng kể, đặc biệt là thuế XNK. Hiện nay, nó vẫn là công cụ được sử dụng rộng rãi nhất trong chính sách thương mại của Chính phủ các nước. Đối với một nền kinh tế quy mô nhỏ khi đánh thuế nhập khẩu sẽ không làm ảnh hưởng đến giá cả thế giới. thông thường thuế quan nhập khẩu dẫn đến giá nội địa cao lên làm cho mớc tiêu dùng nội địa giảm đi, sản xuất trong nước có điều kiện tăng lên; do đó khối lượng hàng nhập khẩu bị giảm bớt.Thuế nhập khẩu tạo ra sự phân phối lại thu nhập từ người tiêu dùng sản phẩm nội địa ( vì phải mua hàng với mức giá cao hơn ) sang người sản xuất trong nước ( vì nhận được mức giá cao hơn ), đồng thời cũng có sự phân phối lại từ các nhân tố dư thừa của một quốc gia sang các nhân tố khan hiếm của một quốc gia khác. Chính phủ là ngườ nhận khoản thu vè thuế, còn người tiêu dùng phải chịu gánh nặng về thuế. Thuế quan nhập khẩu cũng dẫn đến sự tổn thất cho nền kinh tế do hạn chế tự do hoá thương mại, tổn thất này gọi là chi phí bảo hộ. Hình thức phổ biến nhất hạn chế tự do hoá thương mại là thuế quan hay thuế XNK. Nó yêu cầu người nhập khẩu hàng hoá phải trả một tỷ lệ phần trăm cụ thể theo giá cả quốc tế cho Nhà nước.
3.2. Hàng rào phi thuế quan
Đó là những quy định hành chính phân biệt đói xử nhằm chống lại hàng hoá nước ngoài và ủng hộ sản xuất nội địa. Nhà nước tuyên truyền quảng cáo khuyên người tiêu dùng hoặc ra lệnh cho các viên chức dùng hàng hoá nội địa. Như vậy , hàng rào phi thuế quan có thể được khái quát là những khác biệt trong những quy định hoặc tập quán của các quốc gia làm cản trở sự lưu thông tự do của hàng hoá, dịch vụ và các yếu tố sản xuất với các nước. Biện pháp hạn chế xuất khẩu tự nguyện cũng là một trong các hình thức của hàng rào mậu dịch phi thuế quan. Thực chất đây là cuộc thương lượng mậu dịch giữa các bên để hạn chế bớt sự xâm nhập của hàng ngoại, tạo công ăn biệc làm cho thị trường trong nước.
Theo cam kết của Việt Nam với WTO thì sẽ có khoảng hơn 1/3 số dòng thuế của biểu thuế phải cắt giảm, chủ yếu là các dòng có thuế suất trên 20%. Một số mặt hàng nông sản vẫn được duy trì mức bảo hộ nhất định. Cá là một trong những mặt hàng có mức cắt giảm thuế nhiều nhất.
3.3. Trợ cấp xuất khẩu
Trợ cấp xuất khẩu là những biện pháp của Nhà nước hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu và các doanh nghiệp kinh doanh XK nhằm tăng nhanh số lượng hàng và trị giá kim ngạch xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ. Bên cạnh những công cụ nhằm hạn chế NK còn có những công cụ dùng để nâng đỡ hoạt động XK. Trợ cấp XK là những biện pháp mà Chính phủ áp dụng như trợ cấp trực tiếp hoặc cho vay với tỷ lệ lãi suất thấp hoặc là miễn thuế cho các nhà xuất khẩu trong nước. Mặt khác, Chính phủ cũng có thể thực hiện một khoản cho vay ưu đãi đối với các bạn hàng nước ngoài để họ có điều kiện mua các sản phẩm do nước mình sản xuất ra và để xuất khẩu ra bên ngoài. Biện pháp này thường được các nước công nghiệp phát triển áp dụng dưới danh nghĩa khoản tín dụng viện trợ cho các nước đang phát triển vay.
Việc áp dụng một khoản trợ cấp cho các nhà sản xuất trong nước sẽ làm cho cung tăng. Lượng sản xuất ra tăng đúng bằng lượng hàng nhập khẩu giảm. Người sản xuất trong nước được lợi vì thực tế họ dược trả ở mức giá cao hơn so với mức giá khi nhập khẩu tự do. Còn ngươi tiêu dùng thì không có gì thay đỏi vì họ vẫn phải trả mức giá không thay đổi như khi nhập khẩu tự do. Còn Chính phủ thì phải gánh chịu phí trợ cấp, được tính bằng trợ cấp cho mỗi đơn vị hàng hoá nhân với số lượng hàng hoá làm ra.
Như vậy, trợ cấp sản xuất là một công cụ thích hợp vì nó không làm biến dạng giá cả trên thị trường. Tuy nhiên Chính phủ phải trả giá cho điều đó bằng cách cấp vốn cho sản xuất.
3.4. Tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái là quan hệ về sức mua giữa bản tệ ( hay nội tệ ) so với các ngoại tệ khác, đặc biệt là các ngoại tệ có khả năng chuyển đổi tự do. Tỷ giá hối đoái là loại giá quan trọng nhất, chi phối những loại giá khác và tác động đến sản xuất. Đặc biệt, xuất nhập khẩu là lĩnh vực chịu sự tác động trực tiếp và nhạy cảm nhất trước những biến động của tỷ giá hối đoái. Bởi lẽ, là một loại giá cả quốc tế, tỷ giá hối đoái dùng để tính toán và thanh toán cho hàng hoá và dịch vụ xuất nhập khẩu ( không dùng để định giá hàng sản xuất trong nước ). Tỷ giá hàng xuất khẩu là lượng tiền trong nước cần thiết để mua một lượng hàng hoá xuất khẩu tương đương với một đơn vị ngoại tệ. Tỷ giá hàng nhập khẩu là lượng tiền trong nước thu được khi bán một lượng hàng hoá nhập khẩu có giá trị một đơn vị ngoại tệ.
Tỷ giá hối đoái thực tế có hai mục đích là điều chỉnh tác động của mức lạm phát và phản ánh những biến đổi thực tế trong khả năng cạnh tranh của hàng hoá XNK của một quốc gia.
3.5. Cán cân thanh toán quốc tế và cán cân thương mại
Cán cân thanh toán quốc tế là một tài khoản tổng hợp tất cả các dòng ngoại tệ vào ra của đất nước trong một thời kỳ nhất định ( thường là một năm ). Cán cân thanh toán quốc tế gồm cán cân thanh toán vãng lai ( trao đỏi hàng hoá và dịch vụ ) và cán cân vốn ( trao đổi vốn ).
Thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế khi dòng ngoại tệ đi ra lớn hơn dòng ngoại tệ đi vào.Thặng dư cán cân thanh toán quốc tế khi dòng ngoại tệ đi vào lớn hơn dòng ngoại tệ đi ra khỏ đất nước.
Cán cân thương mại – thành phần quan trọng nhất của cán cân vãng lai – là hệ số thanh toán giữa XK và NK hay sự chênh lệch XNK.Khi kim ngạch XK lớn hơn kim ngạch NK trong một khoảng thời gian ( thường là 1 năm) thì gọi là xuất siêu và ngược lại goi là nhập siêu.
Cán cân thanh toán quốc tế cho ta thấy được thực trạng về kinh tế - tài chính của một đất nước, cán cân thương mại cho thấy rõ thực trạng về ngoại thương của một nước. Hai cán cân này tác động mạnh đến hối đoái và do đó tác động đến hoạt động XNK.
3.6. Các quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm
Thực chất đây là các quy định về hoá chất, dung lượng kháng sinh trong sản xuất và cuất khẩu thuỷ sản. Các yêu cầu về chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm thủy sản của các thị trường, nhất là thị trường nước ngoài, thay đổi nhanh chóng và ngày càng nghiêm ngặt. Trong năm 2006, thủy sản xuất khẩu sang Nhật Bản đã bị cảnh báo dư lượng Chloramphenicol, Nitrofurans trong một số lô hàng tôm, mực. Hiện nay vấn đề chất lượng sản phẩm đang là nỗi lo ngại lớn cho các doanh nghiệp thuỷ sản Việt Nam.
3.7. Điều kiện tự nhiên
Đây là yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sản xuất và nuôi trồng thuỷ sản Việt Nam vì nước là môi trường sống của các sinh vật thuỷ sản. Trong những năm qua tình hình khí hậu trên thế giới nói chung và nước ta nói riêng có những biến động rất phức tạp. Bão, lũ... thường xuyên xảy ra gây thiệt hại lớn cho ngành thuỷ sản. Do đó công tác phòng chống bão, lũ luôn được ngành chú trọng phòng, chống.
II/ TỔNG QUAN VỀ TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI WTO
1/ Những điều cần biết về WTO
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển
WTO là chữ viết tắt của Tổ chức Thương mại Thế giới ( World Trade Organization ) – tổ chức quốc tế duy nhất đưa ra những nguyên tắc thương mại giữa các quốc gia trên thế giới. Trọng tâm của WTO chính là các hiệp định đã và đang được các nước đàm phán và ký kết.
WTO được thành lập vào ngày 1/1/1995, kế tục và mở rộng phạm vi điều tiết thương mại quốc tế của tổ chức tiên thân GATT- Hiệp định chung về Thuế quan Thương mại. Tổ chức GATT ra đời sau Chiến tranh Thế giới lần thứ II, khi mà trào lưu hình thành hàng loạt cơ chế đa biên điều tiết các hoạt động hợp tác kinh tế đang diễn ra sôi nổi, điển hình là Ngân hàng Quốc tế Tái Thiết và Phát triển, thường được biết đến là Ngân hàng Thế giới ( World Bank) và Quỹ tiền tệ Quốc tế ( IMF ) ngày nay.
Với ý tưởng hình thành những nguyên tắc, thể lệ, luật chơi cho thương mại quốc tế nhằm điều tiết các lĩnh vực về công ăn việc làm, thương mại hàng hóa, khắc phục tình trạng hạn chế, ràng buộc các hoạt động này phát triển, 23 nước sáng lập GATT đã cùng một số nước khác tham gia Hội nghị về thương mại và việc làm và dự thảo Hiến chương La Havana để thành lập Tổ chức Thương mại Quốc tế (ITO) với tư cách là chuyên môn của Liên Hiệp Quốc. Đồng thời, các nước này đã cùng nhau tiến hành các cuộc đàm phán về thuế quan và xử lý những biện pháp bảo hộ mậu dịch đang áp dụng tràn lan trong thương mại quốc tế từ đầu những năm 30, nhằm thực hiện mục tiêu tự do hóa mậu dịch, mở đường cho kinh tế và thương mại phát triển, tạo công ăn việc làm, nâng cao thu nhập và đời sống của nhân dân các nước thành viên.
Trên cơ sở đó, Hiến chương thành lập Tổ chức thương mại Quốc tế (ITO) nói trên đã được thỏa thuận tại Hội nghị Liên Hiệp Quốc về thương mại và việc làm ở Havana từ 11/1947 đến 23/4/1948, nhưng do một số quốc gia gặp khó khăn trong phê chuẩn, nên việc hình thành lập Tổ chức thương mại Quốc tế (ITO) đã không thực hiện được.Mặc dù vậy, kiên trì mục tiêu đã định, và với kết quả đáng khích lệ đã đạt được ở vòng đàm phán thuế quan đầu tiên là 45.000 ưu đãi về thuế áp dụng giữa các bên tham gia đàm phán, chiếm khoảng 1/5 tổng lượng mậu dịch thế giới, 23 nước sáng lập đã cùng nhau ký hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT), chính thức có hiệu lực vào 1/1948.
Từ đó tới nay, GATT đã tiến hành 8 vòng đàm phán chủ yếu về thuế quan. Tuy nhiên, từ thập kỷ 70 và đặc biệt từ hiệp định Uruguay (1986-1994) do thương mại quốc tế không ngừng phát triển, nên GATT đã mở rộng diện hoạt động, đàm phán không chỉ về thuế quan mà còn tập trung xây dựng các hiệp định hình thành các chuẩn mực, luật chơi điều tiết các hàng rào phi quan thuế, về thương mại dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ, các biện pháp đầu tư có liên quan tới thương mại, về thương mại hàng nông sản, hàng dệt may, về cơ chế giải quyết tranh chấp. Với diện điều tiết của hệ thống thương mại đa biên được mở rộng, nên Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT) vốn chỉ là một sự thỏa thuận có nhiều nội dung ký kết mang tính chất tùy ý đã tỏ ra không thích hợp. Do đó, ngày 15/4/1994, tại Marrkesh (Maroc), các bên đã kết thúc hiệp định thành lập Tổ chức thương mại Thế giới (WTO) nhằm kế tục và phát triển sự nghiệp GATT. WTO chính thức được thành lập độc lập với hệ thống Liên Hợp Quốc và đi vào hoạt động từ 1/1/1995.
1.2.Về cơ cấu tổ chức của WTO
Hiện nay WTO có 150 nước, lãnh thổ thành viên, chiếm 97% thương mại toàn cầu và khoảng 30 quốc gia khác đang trong quá trình đàm phán gia nhập.Hầu hết các quyết định của WTO đều được thông qua trên cơ sở đồng thuận. Trong một số trường hợp nhất định, khi không đạt được sự nhất trí chung, các thành viên có thể tiến hành bỏ phiếu. Khác với các tổ chức khác, mỗi thành viên WTO chỉ có quyền bỏ một phiếu và các phiếu bầu của các thành viên có giá trị ngang nhau.
Cơ quan quyền lực cao nhất của WTO là Hội nghị Bộ trưởng, họp ít nhất 2 năm một lần. Dưới Hội nghị Bộ trưởng là Đại hội đồng - thường họp nhiều lần trong một năm tại trụ sở chính của WTO ở Geneva. Nhiệm vụ chính của Đại hội đồng là giải quyết tranh chấp thương mại giữa các nước thành viên và rà soát các chính sách của WTO.
Dưới Đại hội đồng là Hội đồng Thương mại hàng hóa, Hội đồng thương mại dịch vụ và Hội đồng giám sát về các vấn đề liên quan đến quyền Sở hữu trí tuệ (TRIPS).
1.3. Những chức năng chính của WTO
- Quản lý các hiệp định về thương mại quốc tế.
- Diễn đàn cho các vòng đàm phán thương mại.
- Giải quyết các tranh chấp thương mại.
- Giám sát các chính sách thương mại.
- Trợ giúp về kỹ thuật và đào tạo cho các nước đang phát triển..
- Hợp tác với các tổ chức quốc tế khác.
1.4. Những nguyên tắc pháp lý của WTO
1.4.1.Nguyên tắc tối huệ quốc (MFN)
Nguyên tắc tối huệ quốc còn gọi là chế độ tối huệ quốc hay chế độ ưu đãi nhất, là chế độ mà các nước dành cho nhau trong quan hệ kinh tế và buôn bán về thuế quan, mặt hàng trao đổi, vận tải ngoại thương, quyền lợi của các pháp nhân và thể nhân của nước này trên lãnh thổ của nước kia... theo nguyên tắc không phân biệt đối xử . Nghĩa là khi một nước cam kết cho một nước khác được hưởng chế độ tối huệ quốc thì phải dành cho nước đó tất cả những ưu đãi mà mình dã và sẽ dành cho nước thứ ba. Để thống nhất quản lý nhà nước về Đối xử tối huệ quốc và Đối xử quốc gia trên cơ sở bình đẳng trong Thương mại quốc tế, ngày 25/5/2002 Nhà nước ta đã ban hành pháp lệnh về đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia trong thương mại quốc tế.
Theo luật pháp thương mại quốc tế thì đây là một nguyên tắc điều chỉnh các mối quan hệ thương mại và kinh tế giữa các nước trên cơ sở hiệp định, hiệp ước giữa các nước một cách bình đẳng, có đi có lại, hai bên cùng có lợi. Tuy nhiên, mục tiêu chủ yếu của chế độ tối huệ quốc là không phải cho nhau hưởng các đặc quyền mà là nguyên tắc đảm bảo sự bình đẳng giữa các quốc gia có chủ quyền về các cơ hội giao dịch thương mại và kinh tế với mục đích thúc đẩy quan hệ buôn bán giữa các nước phụ thuộc vào mức độ thân thiện giữa các nước với nhau.
Hiện nay, nguyên tắc tối huệ quốc được các nước trên thế giới áp dụng theo hai cách khác nhau hay còn gọi là có hai loại chế độ tối huệ quốc, tuỳ thuộc vào lợi ích kinh tế của từng nước : Chế độ tối huệ quốc vô điều kiện, Chế độ tối huệ quốc có điều kiện
1.4.2. Nguyên tắc đãi ngộ quốc gia (NF)
Nguyên tắc đãi ngộ quốc gia hay còn gọi là nguyên tắc ngang bằng dân tộc là chế độ có đi có lại được quy định cụ thể trong các hiệp định thương mại giữa hai nước. Trong đó, các công dân và pháp nhân của hai nước tham gia trong quan hệ kinh tế, thương mại sinh sống trên lãnh thổ của nhau được hưởng qu