Đối với bất kỳ một nền kinh tế nào, để tạo ra tăng trưởng nhanh và phát triển bền vững đếu phải có sự đầu tư đúng hướng; trong đó, cơ cấu đầu tư phải phù hợp và phục vụ cho chiến lược về cơ cấu kinh tế. Do đó, cần phải có một cơ cấu đầu tư hợp lý, cơ cấu đó phải khai thác được lợi thế so sánh, đáp ứng được những yêu cầu thị trường chung cho cả nước, phát huy nội lực và phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế- xã hội.
Trong thời gian qua, tại các kỳ họp quốc hội, Đảng và Nhà nước ta cũng đã và đang đề ra nhiệm vụ: Để đảm bảo thắng lợi nhiệm vụ phát triển của đất nước cần có sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư một cách hợp lý đó là: Chuyển dịch cơ cấu đầu tư gắn với mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đảm bảo cho việc thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước; trong khi nhấn mạnh vai trò quan trọng bậc nhất của tích luỹ nội bộ kinh tế, chúng ta phải coi vốn trong nước là quyết định, vốn nước ngoài là quan trọng, kết hợp hai nguồn lực này trong một thể thống nhất để đầu tư phát triển; đó còn là sự chuyển đổi cơ cấu đầu tư cần đảm bảo sự phát triển hợp lý giữa các vùng, bên cạnh việc hình thành nên những vùng kinh tế trọng điểm cần có sự quan tâm đến những vùng sâu, vùng xa, vùng còn khó khăn.
Trên thực tế, cơ cấu đầu tư của nước ta trong những năm gần đây đã có sự dịch chuyển khả quan, đáp ứng được những yêu cầu và mục tiêu trên. Tuy nhiên bên cạnh đó, cơ cấu đầu tư hiện nay cũng còn thể hiện nhiều mặt hạn chế, bất cập. Do đó, việc nghiên cứu cơ cấu đầu tư, sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư, và từ những thực trạng về cơ cấu đầu tư của Việt Nam thời gian qua từ đó có thể đưa ra những giải pháp để cơ cấu đầu tư dịch chuyển theo hướng hợp lý là đúng đắn và cần thiết.
Nhóm chúng em xin được chân thành cảm ơn thầy giáo Từ Quang Phương đã giúp chúng em hoàn thành đề án này
47 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1333 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Thực trạng và đánh giá chung về cơ cấu đầu tư ở Việt Nam trong giai đoạn 2001-2007, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Đối với bất kỳ một nền kinh tế nào, để tạo ra tăng trưởng nhanh và phát triển bền vững đếu phải có sự đầu tư đúng hướng; trong đó, cơ cấu đầu tư phải phù hợp và phục vụ cho chiến lược về cơ cấu kinh tế. Do đó, cần phải có một cơ cấu đầu tư hợp lý, cơ cấu đó phải khai thác được lợi thế so sánh, đáp ứng được những yêu cầu thị trường chung cho cả nước, phát huy nội lực và phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế- xã hội.
Trong thời gian qua, tại các kỳ họp quốc hội, Đảng và Nhà nước ta cũng đã và đang đề ra nhiệm vụ: Để đảm bảo thắng lợi nhiệm vụ phát triển của đất nước cần có sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư một cách hợp lý đó là: Chuyển dịch cơ cấu đầu tư gắn với mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đảm bảo cho việc thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước; trong khi nhấn mạnh vai trò quan trọng bậc nhất của tích luỹ nội bộ kinh tế, chúng ta phải coi vốn trong nước là quyết định, vốn nước ngoài là quan trọng, kết hợp hai nguồn lực này trong một thể thống nhất để đầu tư phát triển; đó còn là sự chuyển đổi cơ cấu đầu tư cần đảm bảo sự phát triển hợp lý giữa các vùng, bên cạnh việc hình thành nên những vùng kinh tế trọng điểm cần có sự quan tâm đến những vùng sâu, vùng xa, vùng còn khó khăn.
Trên thực tế, cơ cấu đầu tư của nước ta trong những năm gần đây đã có sự dịch chuyển khả quan, đáp ứng được những yêu cầu và mục tiêu trên. Tuy nhiên bên cạnh đó, cơ cấu đầu tư hiện nay cũng còn thể hiện nhiều mặt hạn chế, bất cập. Do đó, việc nghiên cứu cơ cấu đầu tư, sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư, và từ những thực trạng về cơ cấu đầu tư của Việt Nam thời gian qua từ đó có thể đưa ra những giải pháp để cơ cấu đầu tư dịch chuyển theo hướng hợp lý là đúng đắn và cần thiết.
Nhóm chúng em xin được chân thành cảm ơn thầy giáo Từ Quang Phương đã giúp chúng em hoàn thành đề án này
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CƠ CẤU ĐẦU TƯ
Cơ cấu đầu tư
1.1.1 Khái niệm cơ cấu đầu tư
Cơ cấu đầu tư là cơ cấu các yếu tố cấu thành đầu tư như cơ cấu vốn, nguồn vốn cơ cấu huy động và sử dụng vốn…quan hệ hữu cơ, tương tác qua lại giữa các bộ phận trong không gian va thời gian, vận động theo hướng hình thành một cơ cấu đầu tư hợp lý và tạo ra những tiềm lực lớn hơn về mọi mặt kinh tế - xã hội.
1.1.2 Phân loại cơ cấu đầu tư
1.1.2.1 Cơ cấu đầu tư theo nguồn vốn
Cơ cấu đầu tư theo nguồn vốn hay cơ cấu nguồn vốn đầu tư thể hiện tỉ lệ của từng loại nguồn vốn trong tổng số vốn đầu tư xã hội hay nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp va dự án. Cùng với sự gia tăng của vốn đầu tư xã hội, cơ cấu nguồn vốn ngày càng đa dạng hơn, phù hợp với cơ chế xóa bỏ bao cấp trong đầu tư, với chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần và chính sách huy động mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển. Trên phương diện vĩ mô, có một số loại nguồn vốn chủ yếu sau đây :
Vốn ngân sách nhà nước: Là nguồn vốn được trích lập từ ngân sách của Nhà nước chi cho các hoạt động đầu tư. Đây là một nguồn vốn quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia và thường được đầu tư cho các dự án kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, quốc phòng an ninh, hỗ trợ các dự án của doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực cần sự tham gia của nhà nước, chi cho công tác lập và thực hiện các dự án quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội vùng, lãnh thổ quy hoạch xây dựng đô thị và nông thôn.
Vốn tín dụng đầu tư phát triển nhà nước : Nguồn vốn này có tác dụng tích cực trong việc giảm đáng kể bao cấp vốn trực tiếp của nhà nước. Với cơ chế tín dụng, các đơn vị sử dụng nguồn vốn này phải đảm bảo nguyên tắc hoàn trả vốn vay. Chủ đầu tư là người vay vốn nay phải tính kỹ hiệu quả đầu tư, sử dụng vốn tiết kiệm hơn. Vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước là một hình thức quá độ chuyển từ phương thức cấp phát vốn ngân sách sang phương thức tín dụng đối với các dự án có khả năng thu hồi vón trực tiếp.
Bên cạnh đó, vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước còn phục vụ công tác quản lý và điều tiết vĩ mô.Thông qua nguồn vốn tín dụng đầu tư, nhà nước thực hiện việc khuyến khích phát triển kinh tế xã hội của ngành, vùng lĩnh vực theo dịnh hứong chiến lược của mình. Đứng ở khía cạnh là công cụ điều tiết vĩ mô,nguồn vốn này không chỉ thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế mà còn thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế xã hội.Việc phân bổ và sử dụng vốn tín dụng đầu tư còn khuyến khích phát triển những vùng kinh tế khó khăn, giải quyết các vấn đề xã hội như xóa đói, giảm nghèo. Và trên hết, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước có tác dụng tích cực trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa.
Vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước : Nguồn vốn này chủ yếu từ khấu tài sản cố định và thu nhập giữ lại tại doanh nghiệp nhà nước. Theo Bộ Kế hoạch va Đầu tư, thông thường nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước tự đầu tư chiếm 14-15% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, chủ yếu là đầu tư theo chiều sâu, mở rộng sản xuất, đổi mới thiết bị hiện đại hóa dây chuyền công nghệ của doanh nghiệp.
Vốn đầu tư tư nhân và dân cư : Nguồn vốn tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của dân cư, phần tích lũy của các doanh nghiệp dân doanh, các hợp tác xã. Theo ước tính của Bộ Kế hoạch và Đầu tư ,tiết kiệm trong dân cư và các doanh nghiệp dân doanh chiếm bình quân khoảng 15% GDP, trong đó phần tiết kiệm của dân cư tham gia đầu tư gián tiếp vào khoảng 3,7% GDP, chiếm khoảng 25% tổng tiết kiệm của dân cư; phần tiết kiệm của dân cư tham gia đầu tư trực tiếp khoảng 5% GDP và bằng 33% số tiết kiệm được. Đầu tư của các doanh nghiệp tư nhân và hộ gia đình có vai trò quan trong đặc biệt trong việc phát triển nông nghiệp va kinh tế nông thôn, mở mang ngành nghề, phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ, vận tải trên các địa phương. Ở mức độ nhất định,các hộ gia đình cũng sẽ là một trong số những nguồn tập trung và phân phối vốn quan trọng trong nền kinh tế.
Nguồn vốn trong dân cư còn phụ thuộc vào thu nhập và chi tiêu của các hộ gia dình. Quy mô của nguồn tiết kiệm này phụ thuộc vào: Trình độ phát triển của một nước (ở những nước có trình độ phát triển thấp thường có quy mô và tỷ lệ tiết kiệm thấp); tập quán tiêu dùng của dân cư; chính sách động viên của nhà nước thông qua chính sách phát triển thuế thu nhập và các khoản đóng góp của xã hội.
Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài: Đây là nguồn vốn quan trọng cho đầu tư và phát triển. Nó có đặc điểm là tiếp nhận nguồn vốn này không phát sinh nợ cho nước nhận vốn. Đầu tư trực tiếp nước ngoài mang theo toàn bộ tài nguyên kinh doanh vào nước nhận vốn nên nó có thể thúc đẩy phát triển ngành nghề mới, đặc biệt là những ngành nghề đòi hỏi cao về kĩ thuật hay cần nhiều vốn. Vì thế, nguồn vốn này có tác dụng cực kì to lớn đối với quá trình công nghiệp hóa, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tốc độ tăng trưởng nhanh ở nước nhận đầu tư.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng góp vào việc bù đắp thâm hụt tài khoản vãng lai và cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, đóng góp của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài cho ngân sách nhà nước cũng hết sức đáng kể. Đặc biệt nguồn vốn nước ngoài đã góp phần tích cực vào việc hoàn chỉnh ngày càng đầy đủ và tốt hơn hệ cơ sở hạ tầng giao thông vận tải, bưu chính viễn thông…hình thành lên các khu công nghiệp, khu chế xuất khu công nghệ cao, hiện đại hóa các khu vực phát triển, hình thành các khu dân cư mới tạo việc làm cho hàng vạn lao động tại các địa phương.
1.1.2.2 Cơ cấu vốn đầu tư
Cơ cấu vốn đầu tư thể hiên quan hệ tỉ lệ của từng loại vốn với tổng vốn đầu tư xã hội, vốn đầu tư của một doanh nghiệp hay của một dư án. Cơ cấu vốn đầu tư cần được xem xét như: cơ cấu kỹ thuật của vốn (vốn xây lắp và máy móc kĩ thuật trong tổng vốn đầu tư); cơ cấu vốn đầu tư cho hoạt động XDCB, công tác nghiên cứu triể khai khoa học và công nghệ vốn đầu tư cho đào tạo nguồn nhân lực, tái tạo tài sản lưu động và những chi phí khác (chi phí quảng cáo tiếp thị…); cơ cấu vốn đầu tư theo quá trình lập và thực hiện dự án như chi phí chuẩn bị đầu tư, chi phí thực hiên đầu tư…
1.1.2.3 Cơ cấu đầu tư phát triển theo ngành
Đây là loại cơ cấu đầu tư quan trọng nhất vì nó trực tiếp tác động đến sự chuyển dịch cơ cấu theo ngành. Cơ cấu đầu tư phát triển theo ngành quy định tỉ lệ phân bổ vốn đầu tư xã hội vào các ngành kinh tế, thực hiện đầu tư cho từng ngành kinh tế quốc dân cũng như trong từng tiểu ngành thể hiện việc thực hiện chính sách ưu tiên phát triển, chính sách đầu tư đối với từng ngành nhất định.
Có nhiều cách tiếp cận, nghiên cứu cơ cấu đầu tư theo ngành nhưng ta có thể chia theo các cách sau:
* Chia theo hai nhóm ngành quan trọng: Ngành sản xuất sản phẩm xã hội và nhóm ngành kết cấu hạ tầng. Mục đích là nghiên cứu tính hợp lí của đầu tư cho từng nhóm ngành. Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng phải đi trước một bước để tạo cơ sở phát triển các ngành sản xuất sản phẩm xã hội, nhưng cần có tỉ lệ hợp lý vì nếu quá tập trung đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, không chú ý dến sản xuất kinh doanh thì sẽ không có tăng trưởng.
* Chia cơ cấu đầu tư theo 3 nhóm ngành: Ngành công nghiệp, nông nghiêp, dịch vụ. Mục đích là đánh giá, phân tích tình hình đầu tư, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, trong đó ưu tiên phát triển công nghiệp và dịch vụ, chú ý đầu tư phát triển nông nghiệp hợp lí ở nước ta hiện nay, nông dân chiếm tỉ trọng phần lớn và nông thôn có vị trí rất quan trọng trong quá trình phát triển.
Ngành nông nghiệp: Đây là ngành sản xuất vật chất quan trọng nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của nhân dân, là ngành chiếm tỉ trọng lớn trong tổng sản phẩm quốc dân, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến phục vụ cho tiêu dùng và xuất khẩu,đồng thời cũng là ngành chiếm tỷ trọng lớn trong lực lượng lao động xã hội và dân cư ở nước ta. Nông nghiệp phát triển sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Do năng sất lao động trong nông nghiệp thấp hơn trong các ngành khác, nên nông nghiệp không phát triển nó sẽ trở thành gánh nặng cho nền kinh tế, sẽ kéo toàn bộ mức tăng trưởng của nền kinh tế. Mặt khác nông nghiệp phát triển sẽ tạo điều kiện thỏa mãn được nhu cầu tiêu dùng cho toàn xã hội, đảm bảo sự ổn định kinh tế xã hội để phát triển.Nông nghiệp và nông thôn phát triển sẽ mở rộng thị trường trong nước, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, tích lũy vốn ban đầu và cung cấp lao động cho các ngành sản xuất khác của nền kinh tế. Nhưng đây là ngành sản xuất phụ thuộc vào nhiều yếu tố tự nhiên, tính bấp bênh cao, thu hồi vốn lâu, đòi hỏi vốn lớn cho các công trình thủy lợi, máy móc trang thiết bị, phòng trừ sâu bệnh… Do vậy chính phủ phải có các chính sách phát triển nông nghiệp, điều chỉnh cơ cấu ngành một cách thích hợp, sao cho sự phát triển của nông nghiệp không ảnh hưởng đến đầu tư phát triển công nghiệp và dịch vụ mà còn tạo điều kiện tốt hơn cho sự phát triển của hai ngành này cũng như toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Ngành công nghiệp: Để đưa nước ta thoát khỏi một nước nghèo và rút ngắn khoảng cách tụt hậu so với các nước khác trong khu vực cũng như trên thế giới, chúng ta không thể chỉ phát triển nông nghiệp mà phải phát triển cả công nghiệp và dịch vụ. Công nghiệp là ngành quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Ngành này thu hút một lượng lao động lớn và năng suất lao đông trong ngành này rất cao và tạo ra giá trị sản lượng công nghiệp tăng nhanh hơn trong các ngành khác, tạo ra lợi nhuận lớn. Ngành công nghiệp phát triển sẽ cung cấp nhiều máy móc trang thiết bị cho nông nghiệp phát triển, nhiều sản phẩm hàng hóa đa dạng cho dịch vụ phát triển. Chúng ta xuất phát từ một nước nghèo, có nền công nghiệp lạc hậu so với các nước khác, do vậy phải tranh thủ tiến trình mở cửa hội nhập quốc tế để thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài, học hỏi kinh nghiệm, công nghệ từ họ để phát triển công nghiệp đất nước. Xây dựng công nghiệp nặng làm nền tảng cơ sở, tận dụng sự chuyển giao công nghệ, thiết lập những ngành mũi nhọn có lợi thế so sánh nhất. Ngành công nghiệp chiếm một tỉ trọng lớn trong tổng sản phẩm quốc dân, do vậy nhà nuớc phải đặc biệt quan tâm, và có những chính sách mở cửa thu hút vốn đầu tư nước ngoài, cung cấp vốn và phân bổ vốn một cách họp lí cho sự phát triển công nghiệp.
Ngành dịch vụ: Dịch vụ là một lĩnh vực hoạt động tổng hợp của nền kinh tế quốc dân, bao gồm tất cả các hoạt động phục vụ sản xuất và đời sống của dân cư. Hoạt động dịch vụ bao gồm tất cả các hoạt động thương mại, giao thông vận tải, cung cấp điện nước, bưu chính viễn thông, khách sạn du lịch và các loại hình phục vụ khác cho sản xuất và đời sống xã hội. Nền kinh tế càng phát triển thì khu vực dịch vụ cũng càng phát triển. Dịch vụ là cầu nối gắn liền sản xuất với sản xuất, sản xuất với tiêu dùng, gắn thị trường trong nước với thị trường nước ngoài. Có thể nói dịch vụ vừa là kết quả vừa là nguyên nhân của phát triển kinh tế. Sự phát triển của ngành dịch vụ làm cho cuộc sống thêm văn minh hiện đại hơn. Để phát triển ngành dịch vụ cần phát triển về cơ sơ hạ tầng, đây là nhiệm vụ hết sức cần thiết và quyết định cho sự phát triển của ngành. Ngoài ra chúng ta cần phải đào tạo một nguồn nhân lực tốt, giư gìn bản sắc văn hóa, phát triển và truyền bá nó. Ngày nay theo xu hướng hội nhập quốc tế, sự phát triển của ngành dịch vụ ngày càng quan trọng và nó đóng góp ngày càng lớn vào tổng thu nhập quốc dân.
Cả nước ta đang chuyển dịch theo xu hướng giảm tỉ trọng ngành nông nghiệp và tăng tỉ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ, đầy là một xu hướng đúng đắn tạo sự phát triển bền vững và phù hợp với xu thế của thời đại
* Chia theo 2 khối ngành: Khối ngành chủ đạo và khối ngành còn lại. Đầu tư phải đảm bảo tương quan hợp lý giữa hai khối ngành này để nền kinh tế vừa có những sản phẩm chủ đạo, tạo thế và lực cho sự phát triển lâu dài, đồng thời phải đảm bảo sự phát triển tổng hợp nhằm đáp ứng yêu cầu nhanh, bền vững hiệu quả.
1.1.2.4 Cơ cấu đầu tư phát triển theo địa phương vùng lãnh thổ
Cơ cấu đầu tư phát triển theo địa phương vùng lãnh thổ là cơ cấu đầu tư theo không gian, phẩn ánh tình hình sử dụng nguồn lực địa phương và việc phát huy thế mạnh cạnh tranh của từng vùng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Cơ cấu đầu tư phát triển theo địa phương vùng lãnh thổ phải phù hợp với mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế xã hội, khai thác sử dụng có hiệu quả về các nguồn lực lợi thế của vùng, dựa vào nhu cầu của nền kinh tế, phù hợp xu thế phát triển thế giới. Xác định các vùng kinh tế trọng điểm để ưu tiên phát triển đồng thời cũng tạo ra động lực để phát triển các vùng kinh tế lạc hậu khó khăn. Có thể phân tích cơ cấu đầu tư giũa lãnh thổ phát triển (địa bàn là động lực phát triển ) với lãnh thổ kém phát triển (lãnh thổ còn khó khăn) hoặc phân tích cơ cấu đầu tư theo các vùng lãnh thổ kinh tế.
1.2 Chuyển dịch cơ cấu đầu tư và cơ cấu đầu tư hợp lý.
1.2.1. Khái niệm chuyển dịch cơ cấu đầu tư:
Cơ cấu đầu tư phụ thuộc vào nhiều các yếu tố, các yếu tố này lại không cố định. Trong từng giai đoạn cụ thể khác nhau, cơ cấu đầu tư luôn thay đổi để phù hợp với sự phát triển với sự phát triển của nền kinh tế xã hội. Để có sự chuyển đổi đó thì cần có sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư. Do vậy sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư là điều cần thiết nhằm hướng tới xây dựng một cơ cấu đầu tư hợp lý.
Chuyển dịch cơ cấu đầu tư có thể hiểu là sự thay đổi của cơ cấu đầu tư từ mức độ này sang mức độ khác, phù hợp với môi trường và mục tiêu phát triển.
Trước hết sự thay đổi cơ cấu đầu tư được thể hiện trên phương diện về vị trí ưu tiên. Từ đó tuỳ theo từng loại cơ cấu đầu tư sự chuyển dịch sẽ tác động theo hướng ưu tiên cho những mặt mạnh giúp phát triển một cách hợp lý giữa các mặt, các ngành sao cho đạt hiệu quả cao nhất.
Sự chuyển dịch không chỉ bao gồm thay đổi về vị trí ưu tiên mà còn có sự thay đổi về chất trong nội bộ cơ cấu và các chính sách áp dụng.
Về thực chất khi có sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư thì cơ cấu vốn, vốn đầu tư, cơ cấu huy động và sử dụng các loại vốn, nguồn vốn sẽ được điều chỉnh. Như vậy các nhân tố nội bộ trong cơ cấu đầu tư sẽ được đổi mới để phù hợp với mục tiêu xác định của nền kinh tế, ngành địa phương và các cơ sở trong từng thời kỳ phát triển.
1.2.2. Sự cần thiết của việc chuyển dịch cơ cấu đầu tư:
Theo báo cáo chính trị trình Đại hội VIII của Đảng đã nhấn mạnh “ Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực vẫn là thách thức to lớn và gay gắt do điểm xuất phát của ta quá thấp, lại phải đi lên trong môi trường cạnh tranh quyết liệt”.
Để thoát khỏi một cách cơ bản tình trạng nghèo khổ và nguy cơ tụt hậu kinh tế, bên cạnh việc giải quyết các vấn đề xã hội đang đặt ra cần phải tăng trưởng nhanh, ổn định và liên tục đi liền với chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Có như vậy mới cải thiện đời sống nhân dân, tạo tiền đề để nhanh chóng đưa đất nước ta trở thành một nước phát triển. Theo nội dung của phát triển kinh tế, tăng trưởng cao cùng với chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý là nội dung cơ bản có tính chất quyết định.
Một nền kinh tế có sự tăng trưởng là có sự tăng về quy mô sản lượng đầu ra được tính bằng chỉ tiêu tổng sản phẩm trong nước (GDP). Tăng trưởng kinh tế cũng được hiểu là sự nâng cao tiềm lực sản xuất của nền kinh tế quốc dân và được quyết định bởi mức gia tăng quy mô cũng như hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào. Thực tế phát triển của các nước đi trước với những điều kiện tương đồng cho thấy vốn đầu tư là một trong những yếu tố quan trọng nhất. Đất nước ta còn nghèo, chính vì vậy sự thiếu thốn đầu tư cho phát triển lại càng nổi lên như một cản trở chủ yếu đối với yêu cầu tăng trưởng kinh tế. Vì vậy nhiệm vụ đặt ra là phải tranh thủ tối đa mọi nguồn vốn bên trong và bên ngoài, của Nhà nước cũng như mọi thành phần kinh tế cho mục tiêu tăng trưởng. Sau đó phải quản lý và sử dụng vốn một cách tiết kiệm và hiểu quả. Đồng thời phải tránh hậu quả nợ nần như một số quốc gia gặp phải trong lịch sử. Nâng cao hiệu quả vốn đầu tư phụ thuộc vào nhiều nhân tố khác nhau. Trên giác độ quản lý vĩ mô thì quan trọng là việc phân bố vốn vào đâu, theo số lượng và tỉ lệ như thế nào. Như vậy cần sự dụng vốn theo một cơ cấu tối ưu, hiệu quả nhất. Mặt khác đầu tư cơ bản với chức năng quan trọng là tác động trực tiếp vào quá trình tái sản xuất xã hội. Do đó làm biến đổi cơ cấu kinh tế. Như vây cơ cấu đầu tư có mối quan hệ mật thiết với cơ cấu kinh tế. Nếu cơ cấu kinh tế hướng vào mục đích cần đạt được của nền kinh tế thì đầu tư chính là phương tiện đảm bảo cho cơ cấu kinh tế được hình thành hợp lý theo mục đích hướng tới của nó. Vì vậy một cơ cấu đầu tư tối ưu vừa cho phép nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, vừa là phương tiện để hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý đảm bảo tăng trưởng nhanh. Cơ cấu đầu tư phụ thuộc vào nhiều nhân tố và các nhân tố đó lại luôn vận động và phát triển. Vì thế cơ cấu đầu tư cũng như cơ cấu kinh tế không phải là cố định.
Sự thay đổi của cơ cấu đầu tư và sự tác động của nó đến cơ cấu kinh tế diễn ra một cách thường xuyên, lặp đi lặp lại theo hướng tiến dần đến những cơ cấu kinh tế tối ưu. Nói cách khác, chuyển dịch cơ cấu đầu tư có ảnh hưởng quan trọng đến đổi mới cơ cấu kinh tế. Quá trình thay đổi đó mang tính chất khách quan, dưới tác động của các quy luật kinh tế. Định hướng đầu tư để đổi mới cơ cấu kinh tế trên cơ sở sự tác động của yếu tố đầu tư và có tính đến những nhân tố ảnh hưởng khác. Sự thay đổi và phát triển của các bộ phận nền kinh tế cũng sẽ quyết định sự thay đổi số lượng cũng như chất lượng của các ngành trong nền kinh tế quốc dân theo hướng xuất hiện nhiều ngành mới, giảm tỷ trọng những ngành không phù hợp, tăng tỷ trọng những ngành lợi thế. Bên cạnh đó chuyển dịch cơ cấu đầu tư cũng làm thay đổi mối quan hệ giữa các bộ phận của một ngành, của nền kinh tế theo xu hướng ngày càng lợi thế hơn, nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội cho từng bộ phận cũng như toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Tóm lại, quá trình chuyển dịch cơ cấu đầu tư của một quốc gia, ngành, địa phương hay cơ sở thông qua kế hoạch đầu tư là nhằm hướng tới xây dựng một cơ cấu đầu tư hợp lý với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội một cách toàn diện hơn.
1.2.3. Cơ cấu đầu tư hợp lý:
1.2.3.1 Khái niệm
Cơ cấu đầu tư hợp lý