Thị trường tài chính Việt Nam trong những năm gần đây đang chứng kiến bước phát triển nhanh chóng của các ngân hàng thương mại. Các ngân hàng không ngừng tăng vốn, tăng dư nợ tín dụng , mở rộng mạng lưới chi nhánh hoạt động để chuẩn bị cho cuộc cạnh tranh mạnh mẽ khi Việt Nam hoàn toàn gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO. Là trung gian tài chính trong nền kinh tế, đối tượng của hoạt động ngân hàng chính là vốn, và quy mô vốn của ngân hàng sẽ quyết định lợi nhuận mà nó kiếm được. Việc huy động vốn luôn giữ vai trò hết sức quan trọng vì nó liên quan tới việc duy trì và mở rộng thị phần, nâng cao sức cạnh tranh và tiềm năng phát triển của ngân hàng. Sự thịnh vượng và phát triển của một NHTM căn cứ vào là tiền gửi. Tiền gửi là cơ sở chính của các khoản cho vay và do đó, nó là nguồn gốc sâu xa của lợi nhuận và sự phát triển của ngân hàng. Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ và cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu đang diễn ra cũng là đặt ra những thách thức, yêu cầu đối với công tác quản lý tiền gửi của các NHTM Việt Nam.
Xuất phát từ vai trò quan trọng của tiền gửi đối với mỗi ngân hàng nói riêng cũng như dối với toàn bộ nền kinh tế nói chung, em đã chọn đề tài « Tiền gửi và quản lý tiền gửi tại các NHTM » để có điều kiện củng cố lại những kiến thức đã học và tiếp xúc với thực tế để biết thêm về hoạt động của các NHTM hiện nay. Đề án đưa ra giải quyết hai vấn đề chính : Phần thứ nhất là các vấn đề mang tính lý luận về tiền gửi và quản lý tiền gửi tại các NHTM nói chung. Phần thứ hai dựa trên cơ sở xem xét thực tiền để đưa ra vài nét về tiền gửi và quản lý tiền gửi ở Việt Nam.
Hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ của ngân hàng rất đa dạng và phong phú. Nhưng vì thời gian và khả năng tiếp cân của bản thân có hạn nên em chưa thể phân tích một cách sâu sắc các hoạt động của ngân hàng mà chỉ tập trung nghiên cứu quá trình huy động và quản lý tiền gửi của ngân hàng. Và cũng do còn thiếu kinh nghiệm nên đề án của em vẫn còn những thiếu sót. Em rất mong sẽ nhận được sự đánh giá, góp ý và sửa chữa của thầy.
60 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1466 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Tiền gửi và quản lý tiền gửi tại các ngân hàng thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Thị trường tài chính Việt Nam trong những năm gần đây đang chứng kiến bước phát triển nhanh chóng của các ngân hàng thương mại. Các ngân hàng không ngừng tăng vốn, tăng dư nợ tín dụng , mở rộng mạng lưới chi nhánh hoạt động… để chuẩn bị cho cuộc cạnh tranh mạnh mẽ khi Việt Nam hoàn toàn gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO. Là trung gian tài chính trong nền kinh tế, đối tượng của hoạt động ngân hàng chính là vốn, và quy mô vốn của ngân hàng sẽ quyết định lợi nhuận mà nó kiếm được. Việc huy động vốn luôn giữ vai trò hết sức quan trọng vì nó liên quan tới việc duy trì và mở rộng thị phần, nâng cao sức cạnh tranh và tiềm năng phát triển của ngân hàng. Sự thịnh vượng và phát triển của một NHTM căn cứ vào là tiền gửi. Tiền gửi là cơ sở chính của các khoản cho vay và do đó, nó là nguồn gốc sâu xa của lợi nhuận và sự phát triển của ngân hàng. Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ và cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu đang diễn ra cũng là đặt ra những thách thức, yêu cầu đối với công tác quản lý tiền gửi của các NHTM Việt Nam.
Xuất phát từ vai trò quan trọng của tiền gửi đối với mỗi ngân hàng nói riêng cũng như dối với toàn bộ nền kinh tế nói chung, em đã chọn đề tài « Tiền gửi và quản lý tiền gửi tại các NHTM » để có điều kiện củng cố lại những kiến thức đã học và tiếp xúc với thực tế để biết thêm về hoạt động của các NHTM hiện nay. Đề án đưa ra giải quyết hai vấn đề chính : Phần thứ nhất là các vấn đề mang tính lý luận về tiền gửi và quản lý tiền gửi tại các NHTM nói chung. Phần thứ hai dựa trên cơ sở xem xét thực tiền để đưa ra vài nét về tiền gửi và quản lý tiền gửi ở Việt Nam.
Hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ của ngân hàng rất đa dạng và phong phú. Nhưng vì thời gian và khả năng tiếp cân của bản thân có hạn nên em chưa thể phân tích một cách sâu sắc các hoạt động của ngân hàng mà chỉ tập trung nghiên cứu quá trình huy động và quản lý tiền gửi của ngân hàng. Và cũng do còn thiếu kinh nghiệm nên đề án của em vẫn còn những thiếu sót. Em rất mong sẽ nhận được sự đánh giá, góp ý và sửa chữa của thầy.
Em xin chân thành cảm ơn.
Nguồn tiền gửi tại các NHTM
1.1. Khái niệm và đặc điểm của tiền gửi trong các NHTM
Khái niệm
Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng cho thấy rằng, hình thức ban đầu của nghiệp vụ tiền gửi là cất giữ hộ , bảo quản các đồng tiền vàng và đồ vật quý của những người chủ sở hữu nó. Người chủ bảo quản phải đảm bảo trả lại chính những đồng tiền mà họ được chuyển giao để cất giữ, đổi lại, họ sẽ được nhận một khoản tiền công từ những người sở hữu. Tất nhiên, trong những điều kiện như vậy, người bảo quản không thể tiến hành các nghiệp vụ cho vay những đồng tiền nhận bảo quản, cất giữ , và cũng không thể thu lợi nhuận để trả lợi tức cho những người gửi tiền. Dần dần, khi xã hội phát triển, người gửi tiền không yêu cầu phải trả lại chính những đồng tiền mà họ gửi, mà chỉ yêu cầu trả lại tổng số tiền mà họ gửi. Thời hạn bảo quản cũng kéo dài thêm. Do đó đã xuất hiện khả năng sử dụng số tiền gửi đó để cấp tín dụng thu lợi tức và trả lãi cho người gửi tiền. Nghiệp vụ huy động tiền gửi để cho vay của ngân hàng cũng từ đó được đẩy mạnh và và trở thành một trong những hoạt động chủ yếu của ngân hàng.
Người ta thường xem tiền gửi là số tiền do khách hàng gửi vào và để lại trong tài khỏan của họ tại ngân hàng . Cách hiểu như vậy chưa thực sự đầy đủ và chính xác nếu đứng trên khía cạnh của cả người gửi tiền và ngân hàng.
Đối với người gửi tiền : Ý nghĩa của việc gửi tiền phụ thuộc vào mục đích sử dụng của người gửi. Có thể chia thành hai trường hợp sau đâu :
+ Khách hàng mở tài khỏan tại ngân hàngvà gửi tiền vào để được hưởng các dịch vụ của ngân hàng như thanh toán…Tiền gửi ở đây là số tiền được gửi vào để sử dụng cho các nghiệp vụ phát sinh trong tương lai hoặc do các nghiệp vụ phát sinh từ trước. Như vậy, khách hàng không phải chỉ gửi và để lại trong tài khoản để ngân hàng cất giữ mà chủ yếu là để hưởng lợi ích của các phương tiện, dịch vụ mà ngân hàng cung cấp cho họ.
+ Khách hàng gửi tiền vào ngân hàng để lấy lãi như số tiền gửi vào sổ tiết kiệm hay các tài khoản định kỳ. Khi đó, khách hàng không còn quyền sử dụng các dịch vụ của ngân hàng như không được dùng sec để thanh toán.
Đối với ngân hàng, các loại tiền gửi tạo thành nguồn vốn cung cấp cho các nghiệp vụ sinh lời trong các hoạt động kinh doanh của ngân hàng.Do vậy, ngân hàng không phải nhận tiền gửi để cất giữ hộ khách hàng và hưởng khoản tiền công cho việc đó mà cho mục đích chủ yếu là cung cấp tín dụng và hưởng lãi từ khoản chênh lệch giữa lãi suất trả cho người gửi tiền và lãi suất áp dụng cho người đi vay. Đối với NHTM, có nhiều loại tiền gửi khác nhau, những nó chủ trọng nhiều hơn đến hai nguồn chủ yếu là tiền gửi của các doanh nhận và tiền gửi của dân cư.
Khó có thể đưa ra một định nghĩa chung về tiền gửi bởi nó phụ thuộc vào quan niệm chủ quan và mục đích của người gửi tiền và của ngân hàng. Đứng trên khía cạnh của ngân hàng, tiền gửi được hiểu là số tiền của khách hàng gửi tại tổ chức tín dụng dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình thức khác. Tiền gửi được hưởng lãi hoặc không hưởng lãi và phải được hoàn trả cho người gửi tiền. (Theo khoản 9 điều 20 Luật các TCTD 1997). Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của NHTM, là bộ phận chiếm tỷ trọng lớn trong trong tổng nguồn tiền của ngân hàng.
Như vậy, về phương diện pháp lý, người gửi tiền có quyền lựa chọn các loại tiền gửi tùy theo nhu cầu và được hưởng các dịch vụ do khách hàng cung cấp hoặc hưởng lãi; đồng thời, quyền sử dụng tiền của người gửi được chuyển giao cho khách hàng. Ngân hàng có thể tùy nghi sử dụng số tiền cho hoạt động kinh doanh của mình với cam kết thực hiện nghĩa vụ hoàn trả vào thời điểm mà người gửi yêu cầu ( đối với loại tiền gửi không kỳ hạn) hoặc vào ngày đáo hạn ( đối với tiền gửi có kỳ hạn). Ngày nay, có rất nhiều hình thức tiền gửi được ngân hàng tạo ra nhằm thu hút số lượng tiền nhiều nhất có thể từ trong dân chúng hay các tổ chứ, doanh nghiệp. Tuy nhiên, dù với hình thức nào thì các loại tiền gửi đều có những đặc điểm như sau :
Đặc điểm của tiền gửi
Tiền gửi phải được thanh toán khi có yêu cầu của khách hàng, ngay cả khi đó là tiền gửi có kỳ hạn chưa đến hạn phải trả.Nhận tiền gửi là một trong những nghiệp vụ chính của ngân hàng, với nội dung chủ yếu là nhận tiền gửi của khách hàng thông qua việc mở cho khách hàng một tài khỏan như tài khoản tiền gửi có kỳ hạn, tài khỏan tiền gửi không kỳ hạn và tài khoản tiền gửi tiết kiệm.Giao dịch nhận tiền gửi của ngân hàng được hiểu là cam kết song phương giữa NHTM với khách hàng gửi tiền, thông qua việc giao kết hợp đồng tài khoản tiền gửi. Giai đoạn đầu, nó chỉ đơn thuần là một hợp đồng dịch vụ gửi,giữ tài sản, theo đó,ngân hàng đóng vai trò là bên nhận gửi, giữ để được nhận thù lao.Về sau, do nhu cầu khách quan của hoạt động kinh tế, giữa ngân hàng và khách hàng có thêm thỏa thuận là ngân hàng có thể sử dụng chính số tiền này để đầu tư nhằm mục đích sinh lời., với điều kiện là phải hoàn trả cho người sở hữu toàn bộ số tiền vốn đã sử dụng kèm theo một khoản lãi nhất định, tùy thuộc vào thời gian mà ngân hàng giữ khoản tiền đó. Giao dịch nhận tiền được nhìn nhận là hành vi vay tiền từ công chúng với cma kết đảm bảo an toàn cho số tiền gửi đó cùng với nghĩa vụ trả gốc và lãi. Việc ngân hàng giữ các khoản tiền này không đơn thuần là một nghiệp vụ giữ hộ tài sản hay quản lý tài sản cho khách hàng để nhận thù lao mà quan trọng hơn, nó là nghiệp vụ huy động vốn – nghiệp vụ đi vay của NHTM từ nền kinh tế. Do đó, khi người gửi tiền yêu cầu thanh toàn thì ngân hàng buộc phải thực hiện nghĩa vụ như đã cam kết trong hợp đồng.
Tiền gửi có quy mô rất lớn so với các nguồn vốn khác trong ngân hàng, là cơ sở chính của các khoản cho vay và do đó là nguộc gốc của lợi nhuận trong ngân hàng. Thông thường,tiền gửi chiếm hơn 50% tổng nguồn vốn, và là mục tiêu tăng trưởng hàng năm của các ngân hàng thương mại. « Tiền gửi là nền tảng cho sự thịnh vượng và phát triển của ngân hàng, đây cũng là khỏan mục duy nhất trên bảng cân đối kế toán giúp phân biệt ngân hàng với các loại hình doanh nghiệp khác »
Tiền gửi là đối tượng phải dự trữ bắt buộc nên chi phí tiền gửi cao hơn khoản trả lãi cho nó. Để đảm bảo khả năng thanh toán cho khách hàng khi đến hạn và hạn chế việc lạm dụng khoản tiền gửi của khách hàng trong việc cho vay nhằm mục đích sinh lời của ngân hàng, ngân hàng nhà nước quy định các khoản tiền gửi đều phải trích dự trữ bắt buộc. Tùy vào hình thức gửi tiền và quy định của mỗi ngân hàng mà tỷ lệ dự trữ này là khác nhau. Sau khi huy động được tiền gửi, trừ đí khoản dự trữ bắt buộc này, ngân hàng có thể cho vay phần tền gửi còn lại. Như vậy, ngoài chi phí trả lãi tiền gửi cho khách hàng, ngân hàng còn phải trích một khỏan dự trữ nữa nên nếu tính tổng lại thì chí phí tiền gửi sẽ lớn hơn lãi phải trả cho khách hàng, khoản chênh lệnh này chính là số tiền dự trữ bắt buộc.
Ở nhiều nước, ngân hàng phải mua bảo hiểm tiền gửi. Ngân hàng là một tổ chức có quan hệ chặt chẽ với các lĩnh vực, ngành kinh tế khác. Hơn nữa, các NHTM cũng có mối quan hệ với nhau rất mật thiết. Do phải thanh toán tiền gửi cho khách hàng khi có yêu cầu nên NHTM luôn luôn phải đảm bảo khả năng thanh tóan của mình. Vì vậy, ở một số nước, yêu cầu NHTM phải mua bảo hiểm tiền gửi là để tránh rủi ro cho khách hàng gửi tiền, tạo tâm lý an tòan hơn cho khách hàng. Như vậy, sẽ đảm bảo an tòan cho NHTM nói riêng và cho cả hệ thống ngân hàng của quốc gia đó.
Vai trò của tiền gửi trong NHTM
Tiền gửi trong NHTM có vai trò quan trọng không chỉ đối với hoạt động của ngân hàng mà còn đối với các chủ thể khác trong nền kinh tế như khách hàng là cá nhân hoặc khách hàng là doanh nghiệp và cả nền kinh tế.
Đối với khách hàng là doanh nghiệp: chủ doanh nghiệp thông qua việc mở tài khoản để được hưởng các dịch vụ về ngân quỹ, thu chi tài vụ và các dịch vụ khác của ngân hàng một cách nhanh chóng và an toàn. Dịch vụ chủ yếu mà các doanh nghiệp sử dụng là nhờ ngân hàng thanh toán tiền hàng lẫn nhau. Nếu không thông qua ngân hàng, doanh nghiệp sau khi mua hàng xong sẽ phải trực tiếp mang tiền đến trả cho nhà cung cấp. Như thế sẽ mất thời gian, tốn chi phí đi lại , bảo quản, cất giữ và nguy hiểm do nguy cơ bị cướp hoặc gian lận của người mang tiền đi trả. Về phía ngân hàng, qua nghiệp vụ này cũng thu hút được một số lượng tiền gửi của khách hàng trên tài khỏan và một khỏan lệ phí nhất định. Một điều quan trong nữa cần nhắc tới ở đây là doanh nghiệp có thể sử dụng việc gửi tiền vào ngân hàng để kiếm thêm tiền lãi khi ngân quỹ tạm thời dư thừa.
Đối với khách hàng thuộc tầng lớp dân cư: Khách hàng mở tài khỏan và ký gửi tiền tại ngân hàng ngoài việc được hưởng dịch vụ thanh toán bằng sec, còn được ngân hàng cung ứng một loạt dịch vụ đa dạng về tài chính có sinh lời. Trong nền kinh tế thị trường, một người dân muốn giữ tiền hay tích lũy vốn trước hết có hai hình thức lựa chọn: hoặc giữ tiền trong két sắt hoặc mua cổ phiếu ( của các công ty cổ phần) hay trái phiếu ( Chính phủ hay công ty). Cả hai cách này đều chứa đựng rất nhiều rủi ro như trộm cướp hay tiền trong tương lai không có giá trị thấp hơn hiện tại do quy luật giá trị theo thời gian của tiền…. ( đối với cách thứ nhất); giá cổ phiếu giảm, trái phiếu không được thanh toán ( đối với cách thứ hai)…Do đó, họ có thể lựa chọn cách thứ ba: gửi tiền vào ngân hàng vừa để giữ được vốn tích lũy của mình tương đối an toàn, vừa thu được một khoản lợi tức nhất định.
Đối với nền kinh tế: Tiền gửi của NHTM sẽ được tài trợ cho các dự án của doanh nghiệp sẽ làm tăng đầu tư của nền kinh tế và do đó cũng làm tăng thu nhập quốc dân GDP.
Đối với NHTM: tiền gửi là nền tảng cho sự thịnh vượng và phát triển của Ngân hàng, là khoản mục duy nhất trên Bảng cân đối kế toán giúp phân biệt Ngân hàng với các loại hình doanh nghiệp khác. Tiền gửi là cơ sở chính cho các khoản vay của NHTM, là nguồn gốc sâu xa của lợi nhuận và sự phát triển của Ngân hàng. Khi huy động tiền gửi, Ngân hàng phải duy trì tỷ lệ dự trữ bắt buộc và sau khi trừ đi các khoản dự trữ để đảm bảo khả năng thanh toán, ngân hàng có thể cho vay phần tiền gửi còn lại. Ngân hàng cũng có thể thu được những khoản phí khi cung cấp các dịch vụ cho khách hàng gửi tiền. Khả năng huy động tiền gửi với mức lãi suất hợp lý còn là những chỉ số quan trọng đáng giá tính hiệu quả trong quản lý ngân hàng.
1.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến tiền gửi
Lãi suất: lãi suất cao là một nhân tố kích thích các doanh nghiệp, dân cư gửi và cho vay. Trong điều jiện có lạm phát, người có tiền tiết kiệm thường quan tâm đến lãi suất thực, điều đó có nghĩa là lãi suất thực dương mới thực sự hấp dẫn các nguộc tiền tiết kiệm.
Thời vụ chi tiêu: ảnh hưởng đến quy mô và tính ổn định của nguồn tiền. Vào dịp Tết, nguồn tiền tiết kiệm cũng như tiền gửi của doanh nghiệp có xu hướng giảm sút đặc biệt trong điều kiện thanh toán bằng tiền mặt còn phổ biến do nhu cầu mua sắm cho dịp tết của các gia đình tăng nhiều.
Thu nhập: thu nhập gia tăng là điều kiện để gia tăng quy mô và thay đổi kỳ hạn của nguồn tiền. Tại các thành phố lớn, nơi tập trung tầng lớp dân cư có thu nhập cao, hin thành những người gửi tiền lớn. Khi ngân hàng mở rộng cho vay, tiền gửi của các doanh nghiepẹ và các cá nhân cũng gia tăng. Các nguồn tiền gửi thanh toán thường biến động mạnh ( kém ổn đinh) hơn tiền gửi tiết kiệm.
Địa điểm ngân hàng: mạng lứoi chi nhánh và quầy tiết kiệm, các loại hình huy động đa dạng, các dịch vụ đa dạng…
Phân loại tiền gửi trong các NHTM
Tiền gửi là có vai trò vô cùng quan trọng trong hoạt động của NHTM như đã nói ở trên. Việc phân loại tiền gửi sẽ giúp chúng ta quản lý được nó dễ dàng hơn và có những biện pháp để huy động tiền gửi nhiều hơn tùy theo mục đích hoạt động của ngân hàng. Có nhiều cách để phân loại tiền gửi trong các NHTM, dưới đây là cách phân loại phổ biến nhất. Theo cách phân loại này, tiền gửi có thể chia thành 3 loại chính sau: tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm
Tiền gửi không kỳ hạn
Định nghĩa
Tiền gửi không kỳ hạn là loại tiền gửi hoàn toàn theo quy tắc bất dụng, nghĩa là người gửi tiền có quyền rút tiền vào bất cứ lúc nào họ muốn. Ngân hàng sắp xếp loại tiền này vào nhóm tiền gửi không kỳ hạn, nghĩa là các khỏan tiền gửi với thời gian không xác định. Người vừa mới gửi tiền vào sáng nay, nếu cần anh ta có thể rút ra ngay vào buổi chiều. Tính bất định về thời gian gửi, cùng với đặc điểm có thể có thể rút ra bất cứ lúc nào cần đã làm cho loại tiền gửi này còn có tên gọi theo tiếng anh là tiền gửi theo nhu cầu ( Demand deposits).
Ngày nay, khi chúng ta gửi tiền vào tài khoản không kỳ hạn, ngân hàng sẽ cấp cho chúng ta một cuốn sổ Séc để chúng ta có thể viết Séc chi tiêu khi có nhu cầu ở bất cứ nơi nào. Vì vậy, tiền gửi không kỳ hạn còn được gọi là tiền trong tài khoản Séc ( Checking Account). Khách hàng sử dụng Séc không phải vì mục đích để dành và cũng không chú trọng ở tiền lãi. Khách hàng chỉ muốn đổi hình thức tiền tệ này thành hình thức tiền tệ khác và do sự thuận tiện trong thanh toán mà họ đã chọn Sec. Sụ tiện lợi trong thanh tóan của tiền gửi không kỳ hạn này phụ thuộc vào tổ chức và hoạt động của NHTM đã phát hàng ra nó. Nếu gửi tiền vào tài khỏan này ở một NHTM có chi nhánh ở khắp nơi trên lãnh thổ kể cả những vùng xa xôi hẻo lánh nhất, thì Séc do chủ tài khoản ký phát có hiệu lực thanh tóan và được chấ nhận nhanh chẳng kém gì tiền mặt. Đó là lý do để tiền gửi không kỳ hạn được xem là laọi hình gần tiền mặt nhất trong tất cả các loại hình tiền của NHTM. Tuy nhiên, ở các nước đang phát triển thì thanh toán bằng Séc chưa phổ biến do chi nhánh của các NHTM ở những nước này còn ít và không phủ rộng khắp nơi để cả những vùng sâu vùng xa hoặc có quan hệ không tốt với các ngân hàng khác, hơn nữa, tâm lý của người dân còn ưa thích dùng tiền mặt hơn.
Tiền gửi laọi này có thể phát hành từ khách hàng là doanh nghiệp và chủ doanh nghiệp đứng tên tài khoản hay người dân bình thường. Việc phân biệt giữa tài khỏan vãng lãi mở cho doanh nghiệp và các tài khỏan Séc mở cho người dân rất cần thiết cho ngân hàng không những về mặt pháp lý mà còn cả về mặt kỹ thuật. Khoản tiền khách hàng gửi vào thực chất là khoản tiền khách hàng cho ngân hàng vay. NGân hàng sẽ trả lãi cho khách hàng hàng tháng mặc dù rất thấp. Do đó, đối với ngân hàng, nó là một khỏan nợ, khoản nợ này sẽ được trả theo nhu cầu của người gửi.
Phân loại
Sự đa dạng của loại hình tiền gửi không kỳ hạn này để đáp ứng cho sự phát triển của xã hội và nhu cầu thanh toán của người dân. Ở các nước phát triển, tiền gửi không kỳ hạn có thể phấn ra thành các loại như sau:
Tiền gửi dùng Sec ( checking deposits)
Tiền gửi rút tiền tự động hay tiền gửi thông dụng ( Ordinary deposits) thực hiện qua máy rút tiền ( cash dispensers) máy nhận rút và chuyển tiền tự động ( Automated teller machine hay còn gọi là ATM)
Tài khỏan ATS ( automatic transfer service account) tài khoản phối hợp tài khoản tiền gửi tiết kiệm và tài khoản Séc ở Mỹ
Tiền gửi có thông tri ( deposit at notice), tiền gửi hẹn rút ( deposit at call) hay tiền gửi có báo trước (dépots à prévis) : là loại tiền gửi không có quy định một kỳ hạn nào, nhưng các bên có thỏa thuậ việc thông báo trước từ 5 đến 8 ngày. Vậy việc thông báo trước có làm mất tính khả dụng, nghĩa là làm cho khỏan tiền gửi mất tính pháp lý cơ bản của nó?
+ Xét về khía cạnh kinh tế, thông tri báo trước một vài ngày nhằm mục đích giúp ngân hàng có thời gian để gom đủ số tiền cần thiết cho việc thanhtoán, thì số tiền gửi có báo trước đúng là một loại tiền gửi.
+ Xét về phương diện pháp lý, tiền gửi có báo trước không cho phép khách hàng sử dụng sec để rút tiền trong các tài khoản có báo trước. Do đó, tiền gửi có báo trước phụ thuộc quy tắc cho vay. Những loại tiền gửi có báo trước thường cũng được trả lãi, nhưng thấp hơn so với các loại tiền gửi có ký hạn.
Có nhiều ngân hàng đã dung hợp hai lối tiền gửi có kỳ hạn và báo trước. Khách hàng lúc gửi tiền được ấn định một kỳ hạn, nhưng khi cần tiền gấp, có thể rút tiền trước thời hạn, miễn là báo trước vài ngày hoặc một tuần tùy theo số tiền lớn hay nhỏ.
Tài khoản NOW: Ra đời ở Anh trong thập kỷ 70 của thế kỷ XX, sự kếp hợp giữa tiền gửi giao dịch không hưởng lãi và tiền gửi tiết kiệm đã xuất hiện dưới hình thức tài khỏan NOW – negotiable order of withdrawal – tài khoản lệnh rút tiền có thể thương lượng. NOW là tài khoản giao dịch được hưởng lãi, do đó nó cho phép Ngân hàng đòi hỏi khách hàng phải thông báo trước về việc rút tiền. Do đòi hỏi này ít khi được thực hiện nên NOW được sử dụng như là một tài khoản phát séc để chi trả cho việc mua hàng hóa và dịch vụ. Từ năm 1981, NOW đựoc chấp nhận rộng rãi trên toàn nước Mỹ. Tuy nhiên, loại tài khoản này chỉ có thể được nắm giữ bởi cá nhân và các tổ chức phi lợi nhuận (nonprofit institutions). Khi NOW được chấp nhận trên tòan nước Mỹ, Chính phủ Mỹ đã cho phép ngân hàng thực hiện nghiệp vụ chuyển vốn tự động, trong đó khách hàng ủy quyền trước (preauthorize) cho ngân hàng trong việc chuyển vốn từ tài khỏan tiết kiệm sang tài khoản séc để bù đắp thấu chi (overdraft). Kết quả cuối cùng là khách hàng hưởng lãi trên tài khoản giao dịch tương đương với lãi thu được từ tài khoản tiền tiết kiệm.
Tài khoản MMDA: “Với việc thông qua đạo luật về các tổ chức nhận tiền gửi Garn-st Germain năm 1982, hai loại hình tài khoản giao dịch hưởng lãi quan trọng được hình thành. Ngân hàng và các tổ chức tiết kiệm phi Ngân hàng có thể đưa ra một loại hình tiền gửi mới để cạnh tranh với tài khoản đầu tư chứngkhóancó lãi suatá cao hơn, được cung cấp bởi các quỹ trên thị trường tiền tệ và được đảm bảo bằng danh mục đầu tư chứng khóan có chất lượng cao. Kết quả là đưa tới sự ra đời của tài khoản tiền gửi trên thị trường tiền tệ (MMDA) và tài khoản Super NOW”. Hai loại tài khoản này trả lãi theo lãi suất thị trường tiền tệ và khách hàng có thể thực hiện thanh tóan cho các giao dịch mua hàng hóa và dịch vụ thông qua việc phát séc hay hối phiếu ủy quyền trước (preauthorised draft).
MMDA là tài khoản tiền gửi thời hạn ngắn, có thể là vài ngày, vài tuần hay vài tháng và