Nước là một tài nguyên quí của con người. Mọi hoạt động sản xuất sinh 
hoạt đều cần dùng nước. Chính vì vậy mà hàng ngày có một lượng lớn nước 
được tiêu thụ và đồng thời cũng ngần ấy lượng nước thải được thải ra môi 
trường. Hà Nội là một trong những thành phố lớn nhất của Việt Nam. Lượng 
nước thải của thành phố thải ra hàng ngày là rất lớn và chủ yếu tập trung vào 
ba nguồn lớn là: nước thải sinh hoạt, từ sản xuất và từ bệnh viện. Tuy nhiên , 
hệ thống sử lí nước thải của thành phố lại chưa có, còn của các doanh nghiệp 
thì lại chỉ có một số ít doanh nghiệp có hệ thống sử lí ,còn lai hầu như là thải 
trực tiếp ra môi trường từ đó gây ra ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, ảnh 
hưởng tới sức khoẻ đời sống của nhân dân, ảnh hưởng tới sản xuất cũng như 
gây mất mĩ quan đô thi.
Ở Hà Nội hiện nay, khi mà hệ thống thoát nước của thành phố chưa đáp 
ứng với mức phát triển hiện nay của thành phố, cũng như quy mô dân số và 
các cơ sở sản xuất ở trong thành phố. Do vậy việc thoát nước chủ yếu thông 
qua việc thải ra các con sông đào hay các cống trong thành phố. Sông Tô lịch 
là con sông lớn nhất trong bốn con sông chảy trong thành phố có nhiệm vụ 
tiêu thoát nước trong thành phố là sông Sét, Lừ, Kim Ngưu và Tô Lịch. Nó là 
con sông ô nhiễm nhất và cũng là con sông có nhiều vấn đề liên quan đến môi 
trường do số lượng dân cư sống hai bên bờ sông là khá đông đúc.
Sông tô Lịch hiện nay đang là con sông mà hệ thống nước mặt đang bị ô
nhiễm nghiêm trọng nhất ở Hà Nội hiện nay. Nhà Nước và thành phố hiện 
nay cũng đang thực hiện nhiều biện pháp nhằm cải tạo môi trường sông và 
nước thải của thành phố vào con sông này, mà đây lại là loại hình không có 
thu để tự trang trải.
Theo nghiĐịnh 67/2003NĐ-CP của chính phủ từ 1/1/2004 trở đi bắt đầu 
thực hiện thu phí nước thải. Xuất phát từ thục tế môi trường sông Tô Lịch và 
2
mục đích của việc thu phí là: nhằm nâng cao nhận thức của các tổ chức và 
nhân dân, tăng cường kiểm soát ô nhiễm, góp phần đảm bảo sự phát triển bền 
vững, làm trong sạch môi trường.
Chế độ thu phí sẽ hỗ trợ và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp áp dụng 
các biện pháp phòng ngừa ô nhiễm, sản xuất sạch hơn bằng công nghệ tiên 
tiến, nhằm giảm thiểu lượng ô nhiễm môi trường, nâng cao hiệu quả sản xuất 
và chất lượng sản phẩm. Việc thu phí còn giúp phục vụ cho công tác quản lí 
môi trường và cải thiện môi trường.
Với những mục đích đó, em muốn tìm hiểu xem thực tế với viêc thu phí 
nước thải hiện nay có thực hiện được những mục đích đã nêu ở trên hay 
không. Mà cụ thể ở đây là việc cải thiện môi trường tại sông Tô Lịch, nâng 
cao thể ở đây là chất lượng nước có được cải thiện hay không và qua đó hiểu 
thêm những kiến thức đã được học tại trường kết hợp với thục tế đang diễn ra. 
Từ đó cái cái nhìn toàn diện, cách đánh giá các vấn đề môi trường, nâng cao 
nhận thức và hiểu biết.
Em xin cám ơn thầy giáo Lê Trọng Hoa và thầy Nguyễn Thế Chinh đã 
giúp em hoàn thành đề án này
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 29 trang
29 trang | 
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1482 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Việc thu phí nước thải để cải thiện môi trường tại sông Tô Lịch, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận 
Đề tài: Việc thu phí nước 
thải để cải thiện môi trường 
tại sông Tô Lịch 
 1 
 LỜI MỞ ĐẦU 
 Nước là một tài nguyên quí của con người. Mọi hoạt động sản xuất sinh 
hoạt đều cần dùng nước. Chính vì vậy mà hàng ngày có một lượng lớn nước 
được tiêu thụ và đồng thời cũng ngần ấy lượng nước thải được thải ra môi 
trường. Hà Nội là một trong những thành phố lớn nhất của Việt Nam. Lượng 
nước thải của thành phố thải ra hàng ngày là rất lớn và chủ yếu tập trung vào 
ba nguồn lớn là: nước thải sinh hoạt, từ sản xuất và từ bệnh viện. Tuy nhiên , 
hệ thống sử lí nước thải của thành phố lại chưa có, còn của các doanh nghiệp 
thì lại chỉ có một số ít doanh nghiệp có hệ thống sử lí ,còn lai hầu như là thải 
trực tiếp ra môi trường từ đó gây ra ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, ảnh 
hưởng tới sức khoẻ đời sống của nhân dân, ảnh hưởng tới sản xuất cũng như 
gây mất mĩ quan đô thi. 
 Ở Hà Nội hiện nay, khi mà hệ thống thoát nước của thành phố chưa đáp 
ứng với mức phát triển hiện nay của thành phố, cũng như quy mô dân số và 
các cơ sở sản xuất ở trong thành phố. Do vậy việc thoát nước chủ yếu thông 
qua việc thải ra các con sông đào hay các cống trong thành phố. Sông Tô lịch 
là con sông lớn nhất trong bốn con sông chảy trong thành phố có nhiệm vụ 
tiêu thoát nước trong thành phố là sông Sét, Lừ, Kim Ngưu và Tô Lịch. Nó là 
con sông ô nhiễm nhất và cũng là con sông có nhiều vấn đề liên quan đến môi 
trường do số lượng dân cư sống hai bên bờ sông là khá đông đúc. 
 Sông tô Lịch hiện nay đang là con sông mà hệ thống nước mặt đang bị ô 
nhiễm nghiêm trọng nhất ở Hà Nội hiện nay. Nhà Nước và thành phố hiện 
nay cũng đang thực hiện nhiều biện pháp nhằm cải tạo môi trường sông và 
nước thải của thành phố vào con sông này, mà đây lại là loại hình không có 
thu để tự trang trải. 
 Theo nghi Định 67/2003NĐ-CP của chính phủ từ 1/1/2004 trở đi bắt đầu 
thực hiện thu phí nước thải. Xuất phát từ thục tế môi trường sông Tô Lịch và 
 2 
mục đích của việc thu phí là: nhằm nâng cao nhận thức của các tổ chức và 
nhân dân, tăng cường kiểm soát ô nhiễm, góp phần đảm bảo sự phát triển bền 
vững, làm trong sạch môi trường. 
 Chế độ thu phí sẽ hỗ trợ và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp áp dụng 
các biện pháp phòng ngừa ô nhiễm, sản xuất sạch hơn bằng công nghệ tiên 
tiến, nhằm giảm thiểu lượng ô nhiễm môi trường, nâng cao hiệu quả sản xuất 
và chất lượng sản phẩm. Việc thu phí còn giúp phục vụ cho công tác quản lí 
môi trường và cải thiện môi trường. 
 Với những mục đích đó, em muốn tìm hiểu xem thực tế với viêc thu phí 
nước thải hiện nay có thực hiện được những mục đích đã nêu ở trên hay 
không. Mà cụ thể ở đây là việc cải thiện môi trường tại sông Tô Lịch, nâng 
cao thể ở đây là chất lượng nước có được cải thiện hay không và qua đó hiểu 
thêm những kiến thức đã được học tại trường kết hợp với thục tế đang diễn ra. 
Từ đó cái cái nhìn toàn diện, cách đánh giá các vấn đề môi trường, nâng cao 
nhận thức và hiểu biết. 
 Em xin cám ơn thầy giáo Lê Trọng Hoa và thầy Nguyễn Thế Chinh đã 
giúp em hoàn thành đề án này 
 3 
 4 
PHẦN I: CƠ SỞ LÍ LUẬN 
I: Khái niệm 
 1: Thuế pigou 
 Pigou là người đầu tiên có sáng kiến áp dụng cách tiếp cận kinh tế và 
việc giải quyết ngoại ứng do ô nhiễm môi trường. ông đã đưa ra ý tưởng về 
việc đánh thuế với những người gây ô nhiễm. Đây là loại thuế thay vì đánh 
vào đầu ra sản phẩm, người ta đánh cho mỗi đơn vị phát thải ô nhiễm đầu 
vào. 
 2:Phí 
 Một dạng của thuế pigou, là loại phí đánh vào lượng chất thải thực tế 
người sản xuất. để xác định mức phí người ta căn cứ vào chi phí cần thiết để 
làm giảm một đơn vị ô nhiễm. 
 Pháp lệnh về phí và lệ phí của Uỷ Ban thường Vụ Quốc hội khoá 10 (số 
38/2001 PL-UBTVQH 10 ngay 28/8/20001 ) qui định: “phí là khoản tiền mà 
tổ chức, cá nhân phải trả khi được một tổ chức, cá nhân khác cung cấp dịch 
vụ được qui định trong danh mục phí”. 
 Danh mục phí thuộc lĩnh vực môi trường được qui định tại mục A . 
Khoản 10 pháp lệnh gồm 11 khoản trong đó các loại phí liên quan tới môi 
trường như sau: 
 - Phí bảo vệ môi trường 
 - Phí thẩm định báo cáo tác động môi trường 
 - Phí vệ sinh. 
 - Phí phòng chống thiên tai. 
 - Phí sử dụng an toàn bức xạ. 
 - Phí thẩm định an toàn bức . 
 Riêng phí bảo vệ môi trường được tại nghị định số 57/2002NĐ-CP 
ngày 3/6/2002 của chính phủ qui định chi tiết thi hành pháp lệnh phí và lệ phí 
qui định thành 6 loại như sau. 
 - Phí bảo vệ môi trường đối với nước thải. 
 5 
 - Phí bảo vệ môi trường đối với xăng dầu, khí thải từ việc sử dụng than 
đá và các nguyên liệu khác. 
 - Phí bảo vệ môi trường với chất thải rắn. 
 - Phí bảo vệ môi trường tiếng ồn. 
 - Phí bảo vệ môi trường đối với sân bay, nhà ga bến cảng, phí bảo vệ 
môi trường với viêc khai thác dầu mỏ, khí đốt và khoảng sản khác. 
 Như vậy phí bảo vệ môi trường nói chung và phí nước thải nói riêng có 
thể được hiểu là một khoản nghĩa vụ tài chính mà các tổ chức, cá nhân phải 
trả khi được hưởng một dịch vụ về môi trường. Có thể nói đây là một công cụ 
quản lí cần thiết cho các nhà hoạch định chính sách cũng như các nhà quản lí 
nhằm đạt được các mục tiêu môi trường. Và đây cũng là nghĩa vụ của các 
doanh nghiệp, các tổ chức và là một nhu cầu tất yếu của xã hội nhằm đảm bảo 
vệ môi trường. 
II. Việc cần thiêt sử dụng phí nước thải. 
 Việc sử dụng phí nước thải là cần thiết và phù hợp với thực tế chung 
của thế giới cũng như tình hình phát triển kinh tế của nước ta trong những 
năm trở lại đây. Xuất phát từ thực tê cuộc sống của con người gắn liền với 
môi trường tự nhiên mà trong quá trình phát triển kinh tế hiện nay đang gây ô 
nhiễm môi trường nghiêm trọng ảnh hưởng tới những khu vực có người dân 
sống quanh khu vực ô nhiễm. 
 Kinh ngiệm thực tế của của các nước trên thế giới cho thấy việc nhà 
nước dùng các công cụ kinh tế mà cụ thể ở đây là phí nuớc thải là một biện 
pháp hữu hiệu trong việc bảo vệ môi trường. Những nước này thu được nhiều 
thành công cải thiện môi trường hiện tại, bảo vệ môi trường hiện có. 
 Trung Quốc là một quốc gia nước đang phát triển, có xuất phát điểm 
về kinh tế giống với Việt Nam, nhưng họ đã có một hệ thống phí phạt do vi 
phạm tiêu chuẩn môi trường. Hệ thống này bao gồm hơn 100 mức phí đánh 
vào các nguồn gây ô nhiễm môi trường với nước thải, khí thải, phế thải, tiếng 
ồn và các loại khác. Lệ phí từ ô nhiễm nước chiếm 70% tổng lệ phí thu được. 
 6 
Lệ phí nay được tính từ năm 1979 bằng việc thử nghiệm ở thành phố Suzhan. 
Kết quả là đã làm giảm tới 60,4% tổng lượng chất gây ô nhiễm thải ra trong 
giai đoạn 1979-1986. Lệ phí được qui định theo nguyên tắc sau: 
 + Lệ phí cao hơn một chút so với chi phí vận hành thiết bị 
 + Lệ phí thay đổi theo số lượng, nồng độ và loai chất gây ô 
nhiễm được thải ra 
 + Lệ phí ô nhiễm áp dụng cho việc xả thải nước thải công nghiệp 
đối với chất gây ô nhiễm nhất định nào đó được tính bằng cách nhân với 
lượng nồng độ chất gây ô nhiễm vượt quá tiêu chuẩn. 
 Malaysia một nước trong khu vực, vào giữa những năm 1979, chính 
phủ Malaysia đã tiến hành áp dụng hệ thu phí đối với ngành chế biến dầu cọ 
thô, chế biến cao su tự nhiên và các hoạt động khai hoang. Hệ thống này được 
thiết lập trên cơ sở các tiêu chuẩn về nồng độ cho phép trong nước thải cảu 
các chất gây ô nhiễm. Các lệ phí ấn định cho việc xả thải các chất gây ô 
nhiễm ở dưới mức tiêu chuẩn. Vượt quá mức tiêu chuẩn phải bị sử phạt mức 
nộp lệ phí. 
 Còn với các quốc gia phat triển OECD áp dụng phí đánh vào nguồn gây 
ô nhiễm nước, loại phí này được áp dụng riêng không liên quan gì đến hệ 
thống xử lí nước thải từ các nhà máy xí nghiệp. ở hầu hết các nước OECD phí 
sử dụng hệ thống thoát nước thải là công trình công cộng, chịu sự quản lí và 
giám sát của chính quyền địa phương. Do đó, các hộ gia đình và cơ sở sản 
xuất thường phải trả lệ phí do sử dụng hệ thống công cộng này. 
 Từ kinh nghiệm, cũng như thực tế của các quốc gia đã làm trước chúng 
ta có thể thấy rằng, phí bảo vệ ô nhiễm môi trường nói chung và phí nước thải 
nói riêng được áp dụng là một thực tế khách quan và cũng là xu hướng chung 
và tất yếu của thế giới 
 Còn với nước ta phí bảo vệ môi trường có mục đích khuyến khích các 
nhà sản xuất, kinh doanh đầu tư giảm thiểu ô nhiễm, thay đổi hành vi ô nhiễm 
theo hướng tích cực cho môi trường, có lợi cho môi trường. Ngoài ra phí bảo 
 7 
vệ môi trường còn có mục đích khác là tạo thêm nguồn thu cho ngân sách nhà 
nước để đầu tư khắc phục và cai thiện môi trường. Với mục đích này, phí bảo 
vệ môi trường là công cụ kinh tế được xây dựng trên nguyên tắc “người gây ô 
nhiễm phải trả tiền đóng góp tài chính để khắc phục ô nhiễm môi trường và 
cải thiện môi trường ” và ai hưởng lợi từ việc môi trường trong lành phải 
đóng phí khắc phục ô nhiễm. 
 II.1. Nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền (PPP). 
 Nguyên tắc này bắt nguồn từ sáng kiến do tổ chức hợp tác kinh tế và 
phat triển (OECD) đề ra vào các năm 1972 và 1974. PPP qui định năm 1972 
có quan điểm những tác nhân gây ô nhiễm phải trả mọi chi phí cho hoạt động 
kiểm soát và phòng chống ô nhiễm. PPP năm 1974 chủ trương rằng, các tác 
nhân gây ô nhiễm thi ngoài việc tuân thủ theo các chỉ tiêu đối với việc gây ô 
nhiễm thì còn phải bồi thường thiệt hại cho những người bị thiệt hại do ô 
nhiễm này gây ra. Nói tóm lại, theo nguyên tắc PPP thì người gây ô nhiễm 
phải chịu mọi khoản chi phíđể thực hiện các biện pháp làm giảm ô nhiễm do 
chính quyền thục hiện, nhằm đảm bảo môi trương ở mức chấp nhận được. 
 II.2. Nguyên tắc người hưởng lợi phải trả tiền(BPP) 
 Nguyên tắc BPP chủ trương rằng việc phòng ngừa ô nhiễm và cải thiện 
môi trường cần được bảo trợ bởi những người muốn thay đổi hoặc những 
người không phải trả giá cho việc gây ô nhiễm. Nguyên tắc BPP cũng tạo ra 
một khoản thu cho nhà nước, mức phí tính theo đầu người càng cao và càng 
nhiều người nộp thì số tiền thu được càng nhiều. Số tiền thu được từ BPP 
được thu theo nguyên tắc các cá nhân muốn bảo vệ môi trường và những cá 
nhân không phải trả cho việc gây ô nhiễm nhưng khi môi trường được cải 
thiện họ là những người được hưởng lợi cần đóng góp. Tuy nhiên số tiền này 
không trực tiếp do người hưởng lợi tự giác trả mà phải một chính sách do nhà 
nước ban hành qua thuế hoặc phí buộc những người hưởng lời phải đóng góp, 
nên ngưyên tắc BPP chỉ khuyến khích việc bảo vệ môi trường một cách gián 
tiếp. 
 8 
 Đây là nguyên tắc có thể được sử dụng như một định hướng hỗ trợ 
nhằm đạt được mục tieu môi trường, dù đó là bảo vệ hay phục hồi môi 
trường. Tuy nhiên hiệu quả môi trường có thể đạt được hay không, trên thực 
tế phụ thuộc vào mức lệ phí, số người đóng góp và khả năng sủ dụng tiền hợp 
lí. 
 9 
III. Nguyên tắc xác định phí nước thải. 
 Theo nghị định 67/2003/NĐ-CP của chính phủ ban hành việc thu phí 
nước thải và thông tư 125/2003/TTLT-BTC-BTNMT hướng dẫn thi hành 
nghị định 67. Nghị định 67 quy định về phí bảo vệ môi trường đối với nước 
thải; chế độ thu, nộp, quản lí và sử dụng phí bảo vệ môi trường đối với nước 
thải. Còn thông tư 125 hướng dẫn thi hành nghị định 67. trong đó quy định rõ 
đối tượng phải chịu phí bảo vệ môi trường với nước thải và cách tính phí. 
 Đối với nước thải công nghiệp cách tính phí được tính: 
 Số phí = tổng lượng nước thải * hàm lượng chất gây ô nhiễm trong 
nước thải(mg/l)*10-3 * mức thu đối với chât gây ô nhiễm ra MT(đồng/kg) 
 Đối với sinh hoạt: 
 Số phí = lượng nước sử dụng * giá bán(đồng/m3) * tỉ lệ thu phí(%) 
 Qua các văn bản pháp luật có thể thấy phí nước thải nước ta được tính 
dựa vào các tiêu chí: 
 + Tổng lượng thải 
 + hàm lượng các chất gây ô nhiễm có trong nước tính bằng mg/l 
 + Đặc tính các chất gây ô nhiễm. Mỗi chất gây ô nhiễm khác nhau có 
một mức thu phí tối đa và tối thiểu khác nhau, tuỳ theo mức độ độc hại của 
mỗi loại chất và được quy đinh tại nghị định 67. Các chất gây ô nhiễm chủ 
yếu được qui đinh trong luật là: BOD, COD, TSS, Hg, Pb, As, Cd. 
Chất gây ô nhiễm có trong nước 
thải 
Mức thu 
(đồng/kg chất gây ô nhiễm có trong 
nước thải) Stt 
Tên hoá chất Kí hiệu Tối thiểu Tối đa 
1 Nhu cầu ô xy sinh hoá ABOD 100 300 
2 Nhu cầu ô xy hoá học ACOD 100 300 
3 Chất rắn lơ lửng ATSS 200 400 
4 Thuỷ ngân AHg 10.000.000 20.000.000 
5 Chì APb 300.000 500.000 
6 Arsenic AAs 600.000 1.000.000 
7 Cadmium ACd 600.000 1.000.000 
 10 
 Việc thực thi phí nước thải ở nhiều nước trên thế giới đã thu được 
nhiều thành tựu đáng khích lệ. Do đó việc thực thi phí nước thải với nước ta 
cũng có nhiều ảnh hưởng tác động đến môi trường nước mặt. Mà cụ thể ở đây 
là nước mặt và môi trường sông Tô Lịch. Nó có thể giúp mọi người nâng cao 
ý thức bảo vệ môi trường. Nhà nước và địa phương có thêm nguồn thu từ đó 
đầu tư trở lại vào môi trường nhằm bảo vệ môi trường. Kích thích các doanh 
nghiệp đầu tư vào hệ thống sử lí nước thải hoặc đổi mới công nghệ nhằm làm 
giảm lượng ô nhiễm, từ đó nâng cao chất lượng môi trường. 
 Hiện nay tổng lượng nươc thải sinh hoạt của khu vực nội thành Hà Nội 
khoảng 500.000m3/ngày đểm trong đó có khoảng 100.000m3ngày đêm là 
nước thải của các cơ sở công nghiệp, dịch vụ, bệnh viên. toàn bộ lượng nước 
thải này được tiêu thoát chủ yếu qua 4 con sông chính cẩu thành phố là: sông 
Tô Lịch, sông Sét, sông Kim Ngưu và sông Lừ. Nước thải sinh hoạt phần lớn 
qua sử lí sơ bộ tại các bể tự hoại trước khi thải vào tuyến cống chung, kênh, 
mương, ao, hồ. Tuy nhiên các bể tự hoại này làm việc kém hiệu quả do xây 
dựng không đúng quy cách, không hút phân cặn thường xuyên nên hàm lượng 
chất bẩn trong nước cao, gây ảnh hưởng xấu trong chất lượng nước trong các 
kênh mương. 
 Sông Tô lịch là con sông lớn nhất trong bốn con sông tiêu thoát nước 
chính của thành phố Hà Nội. Qua đánh giá thực tế ban đầu bằng việc quan sát 
trực tiếp sông, có thể nói sông đang bị ô nhiễm nặng dù mùa khô hay mùa 
mưa. vào những ngày nóng bức mùi từ sông bốc lên gây ảnh hưởng nghiêm 
trọng tới đời sống, sức khoẻ, cũng như sản xuất của ngưòi dân hai bên bờ 
sông. Không những thế nó còn gây mất mĩ quan đô thị làm giảm hình ảnh thủ 
đô cũng như môi trường của thành phố. 
 Tuy nhiên với việc áp dụng phí nước thải với các cơ sở sản xuất và các 
hộ gia đình, sẽ có những tác động tích cực tới môi trường. Phí nước thải có 
thể buộc các doanh nghiệp phải làm giảm lượng gây ô nhiễm, từ đó nâng cao 
 11 
chất lượng môi trường. Với nguồn thu từ phí nước thải, chinh phủ có thể đầu 
tư trở lại môi trường thực hiện các công việc khảo sát đo đạc, lập báo cáo, 
thực hiện các công việc quản lí cũng như các công trình về môi trường. 
Khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện các biện pháp cũng như xây dựng 
hệ thống sử lí nước thải, đổi mới công nghệ. 
 Song vấn đề đặt trong giai đoạn đầu của chương trình thu phí ô nhiễm 
đối với nước thải là có thể xác định phí nói trên với tất cả các cơ sở sản xuất 
gây ô nhiễm ở Hà Nội hay không? 
 12 
PHẦN II. HIỆN TRẠNG Ô NHIỄM 
I. Khái quát chung 
 I.1. Đặc điểm tự nhiên của thành phố Hà Nội 
 Hà nội nằm ở 20 độ 57 phút vĩ bắc và 105 độ 35 phút – 106 độ 25 phút 
độ kinh đông. Từ bắc xuống nam dài nhất khoảng 93 km, từ đông sang tây 
rộng nhất khoảng 30 km. 
 Hà Nội nằm trong vùng nhiệt đới gío mùa, độ ẩm trung bình trong năm 
là 81-82% tháng cao nhất vào khoảng 85-86%. Nhiệt độ trung bình có chiều 
hướng tăng, năm 1985 là 23,5 độ C, từ năm 1990-1995 nhiệt độ trung binh là 
24 độ C ( có năm lên tới 24,1 độ C ) hàng năm bình quân có từ 8-10 cơn bão 
và áp thấp nhiệt đới đi qua. Tổng lượng mưa trong năm, theo thống kê thì 
trong những năm gần đây có nhiều biến động, tuy nhiên trung bình hàng năm 
khoảng 1500 mm. Số ngày mưa từ 140-160 ngày trong năm. 
 Sông Tô Lịch thuộc nội thành Hà Nội, nó dài 13.5 km rộng từ 30-40m 
sâu khoảng từ 3-4 m. Đầu nguồn bắt đầu từ kênh đào cũ Thụy Khê thuộc khu 
vực Phan Đình Phùng. Nó qua Từ Liêm và dịa hạt quận Thanh Trì rồi cùng ba 
con sông khác chảy đổ vào sông Nhuệ qua Đầm Thanh Liệt. Sông được cải 
tạo bằng nguồn vốn vay ODA, hai bên bờ sông được thành phố cải tạo có xây 
kè đá và các hệ thống thoát nước thải trực tiếp vào trong lòng sông qua rất 
nhiều các ống cống lớn nhỏ của các hộ dân cư và các doanh nghiệp trên địa 
bàn. 
 Tình trạng ô nhiễm do nước thải của thành Phố Hà Nội. Nước thải của 
thành phố Hà Nội thải ra hệ thống thoát nước hàng ngày khoảng 500.00m3 
ngày/đêm trong đó có khoảng 100.000 m3 ngày/đêm là nước thải công nghiệp, 
của các cơ sở dịch vụ và bệnh viện 
 Thực trạng ô nhiễm tại sông Tô Lịch 
 Sông Tô Lịch là con sông lớn nhất trong bốn con sông và cũng là con 
song bị ô nhiễm nặng nhất, điều này được thể hiện thông qua nước thải đổ vào 
 13 
sông Tô Lịch mỗi ngày là 242.506m3 ngày/đêm. Trong đó nước thải công 
nghiệp của các nhà máy trên địa bàn Hà Nội là 68.206m3 ngày/đêm, ttổng 
lượng nước thải của khu cục công cộng và bệnh viện là 43.300 m3 ngày/dêm. 
 Do Hà Nội chưa có hệ thống xử lí nước thải, nên nước thải được đổ 
trực tiếp qua các con sông và qua các hồ. Mặc dù hệ thống này có khả ngăng 
tự làm sạch rất lớn, nhưng do mức độ ô nhiễm quá cao đẫn tới khả năng này 
hầu như không còn được phát huy được nữa mà một phần do tốc độ đô thị hoá 
quá nhanh. Năm 1996 sông Tô Lịch tiếp nhận chỉ khoảng 3000m3 nước thải 
từ 30.000 hộ gia đình và 22000m3 từ 33 nhà máy. 
 Nhìn vào bảng 1 về nồng độ một số chất ô nhiễm có trong nước thải 
Bảng 1. Tình trạng ô nhiễm sông Tô Lịch 
Các chỉ tiêu Vị trí Cầu Mới Vị trí Nghĩa đô 
Ph 7.7-8.2 7.5 
Chất rắn lơ lửng (mg/l) 230-570 211 
CDO (mg/l) 183-325 149 
BOD (mg/l) 21-120 40.2 
NO3 (mg/l) 0.39 0.61 
NH4 (mg/l) 5.3-17.1 9.6 
H2S (mg/l) 3.2 
Nguồn: Đinh Văn Sâm năm 1996 
 Sông Tô lịch có độ ô nhiễm cao như vậy có thể kể ra đây một số nguồn thải 
chính là: 
 Bệnh viện Lao. 
 Bệnh viện nhi Thuỵ Điển. 
 Bệnh viện phụ sản. 
 Bệnh biện giao thông. 
 Nhà máy giầy Thượng Đình. 
 Nhà máy cao su Sao Vàng 
 Nhà máy lever Haso 
 14 
 Nhà máy bóng đèn. 
 Nhà máy bia Hà Nội. 
 Nhà máy Trung Kính 
 Nhà máy nhựa Đại kim 
 Nhà máy Sơn tổng hợp. 
 Ngoài những bệnh viện đã thống kê ở trên sông còn tiếp nhận những 
nguồn nước thả từ sinh hoạt với khối lượng nước lớn và không kém phần độc 
hại. Phần lớn nước thải ra sông đều không qua sử lí và được thải trực tiếp 
hoặc gián tiếp gây làm tăng nồng độ các chất dinh dưỡng, nghiêm trọng nhất 
là nước thải của các bệnh viện, nhà máy. Đây là nguồn gây ra ô nhiễm 
chínhchô nươớc sông, làm cho quá trình xử lí sinh học bị giới hạn hoặc bị quá 
tải và có thể bị huỷ hoại hoàn toàn do các chất hữu cơ và các chất thải công 
nghiệp độc hại. Các chất hữu cơ như phốtpho và nitơ là lí do chủ yếu là cho 
nước sông phì dinh dưỡng. 
 Sự quá tải của rác thải là nguyên nhân chính gây ra ngăn cản dòng 
sông, làm cho lòng sông bị thu hẹp đáng kể, tăng khả năng ngập úng, tăng 
lươợng bùn đáy sông. Mặc dù sông đã được cải tạo bằng việc xây dựng kè đá 
hai bên bờ sông nhằm làm giảm lượng rác thải xuống sông cũng như các loại 
đất đá và tạo một cảnh quan mới cho phù hợp với sự phát triển của thành phố. 
Thành phố sử dụng nguồn vốn vay ODA của Nhật Bản song vẫn chưa thấy có 
dấu hiệu khả quan nào đối với môi trường tại sông Tô Lịch, đặc biệt khi sông 
nằm trong lòng thủ Đô Hà Nội và nó sẽ gây ảnh hưởng đến hình ảnh một thủ 
đô tươi đẹp của nước ta, hướng tới văn minh hiện đại. Việc ô nhiễm của sông 
Tô Lịch gây ảnh hưởng nghiêm trọng không chỉ tới dân cư sống hai bên bờ 
sông mà con gây ảnh hưởng tới các khu vực xung quanh, khi mà ỏ hai bên bờ 
sông có nhều trưòng học và một số bệnh viện và đây cũng là một điểm có 
giao thông đi lại với cường độ lớn của thành phố. 
 15 
Bảng 2: Tình trạng ô nhiễm sông tô lịch năm 1999-2000 tại Cầu Mới 
Chỉ tiêu đơn vị 1999 2000 
TCVN5942-
1995B 
DO mg/l 1.78 0.4 >=2 
BOD5 mg/l 18.5 27 <25 
COD mg/l 36.8 89 <35 
SS mg/l 47 36.8 80 
NH4+ mg/l - 27 1 
Coli-form PC/100ml - 49.105 10000 
 Do đặc điểm khí hậu miền Bắc là nhiệt đới gió mùa một năm chia làm 
hai mù