PHẦN THỨ HAI: HỌC THUYẾT KINH TẾ CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ PHƯƠNG THỨC SẢN XUẤT TƯ BẢN CHỦ NGHĨA
CHƯƠNG I: HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ
I. Điều kiện ra đời, đặc trưng và ưu thế của sản xuất hàng hoá.
1. Điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hoá.
a. Khái niệm sản xuất hàng hoá
- Sản xuất hàng hoá là kiểu tổ chức kinh tế mà ở đó sản phẩm sản xuất ra để trao đổi hoặc mua bán trên thị trường.
Ví dụ: Nông dân trồng rau để bán
- Sản xuất hàng hoá ra đời là một bước ngoặt căn bản trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, đưa loài người thoát khỏi tình trạng mông muội, xoá bỏ nền kinh tế tự nhiên, đẩy nhanh sự phát triển lực lượng sản xuất.
b. Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hoá:
* Phân công lao động xã hội
- Khái niệm: Phân công lao động xã hội là sự chuyên môn hóa sản xuất, phân chia lao động xã hội vào các ngành, các lĩnh vực sản xuất khác nhau.
- Phân công lao động làm cho việc trao đổi sản phẩm trở nên tất yếu, bởi vì, mỗi ngành, mỗi người chỉ sản xuất một vài thứ, trong khi đó nhu cầu cuộc sống lại đòi có nhiều loại khác nhau. Vì vậy họ cần trao đổi với nhau.
*Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất
- Sự tách biệt về mặt kinh tế giữa những người sản xuất có nghĩa là những người sản xuất trở thành những chủ thể sản xuất, độc lập, đối lập với nhau, sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu của họ. Vì vậy, người này muốn tiêu dùng sản phẩm lao động của người khác phải thông qua trao đổi, mua bán hàng hoá.
69 trang |
Chia sẻ: anhquan78 | Lượt xem: 1017 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề cương bài giảng Học thuyết kinh tế của chủ nghĩa Mác - Lênin về phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN THỨ HAI: HỌC THUYẾT KINH TẾ CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ PHƯƠNG THỨC SẢN XUẤT TƯ BẢN CHỦ NGHĨA
CHƯƠNG I: HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ
Điều kiện ra đời, đặc trưng và ưu thế của sản xuất hàng hoá.
Điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hoá.
Khái niệm sản xuất hàng hoá
Sản xuất hàng hoá là kiểu tổ chức kinh tế mà ở đó sản phẩm sản xuất ra để trao đổi hoặc mua bán trên thị trường.
Ví dụ: Nông dân trồng rau để bán
Sản xuất hàng hoá ra đời là một bước ngoặt căn bản trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, đưa loài người thoát khỏi tình trạng mông muội, xoá bỏ nền kinh tế tự nhiên, đẩy nhanh sự phát triển lực lượng sản xuất.
Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hoá:
* Phân công lao động xã hội
- Khái niệm: Phân công lao động xã hội là sự chuyên môn hóa sản xuất, phân chia lao động xã hội vào các ngành, các lĩnh vực sản xuất khác nhau.
- Phân công lao động làm cho việc trao đổi sản phẩm trở nên tất yếu, bởi vì, mỗi ngành, mỗi người chỉ sản xuất một vài thứ, trong khi đó nhu cầu cuộc sống lại đòi có nhiều loại khác nhau. Vì vậy họ cần trao đổi với nhau.
*Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất
Sự tách biệt về mặt kinh tế giữa những người sản xuất có nghĩa là những người sản xuất trở thành những chủ thể sản xuất, độc lập, đối lập với nhau, sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu của họ. Vì vậy, người này muốn tiêu dùng sản phẩm lao động của người khác phải thông qua trao đổi, mua bán hàng hoá.
Sự tách biệt về kinh tế do chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất quy định. Vì chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất làm cho tư liệu sản xuất thuộc sở hữu cá nhân, sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu của họ. Họ có quyền quyết định đối với sản phẩm của mình.
Kết luận: Sản xuất hàng hoá chỉ ra đời khi có đồng thời hai điều kiện trên, nếu thiếu một trong hai điều kiện đó thì sẽ không có sản xuất hàng hóa.
2. Đặc trưng và ưu thế của sản xuất hàng hoá
a. Đặc trưng của sản xuất hàng hoá
- Thứ nhất, sản xuất hàng hóa là sản xuất để trao đổi mua bán.
Thứ hai, lao động của người sản xuất hàng hóa vừa mang tính tư nhân, vừa mang tính xã hội.
Thứ ba, mục đích của sản xuất hàng hoá là giá trị, là lợi nhuận chứ không phải là giá trị sử dụng.
Ưu thế của sản xuất hàng hoá
Sản xuất hàng hóa ra đời khi việc trao đổi hàng hóa trở nên thông dụng, phổ biến và có nhiều ưu thế hơn hẳn so với sản xuất tự cấp tự túc:
Một là, Sự phát triển của sản xuất hàng hoá làm cho phân công lao động xã hội ngày càng sâu sắc, chuyên môn hoá, hợp tác hoá ngày càng tăng, mối liên hệ giữa các ngành, các vùng ngày càng chặt chẽ.
Hai là, cạnh tranh ngày càng gay gắt, buộc người sản xuất hàng hoá phải năng động trong sản xuất, kinh doanh, thường xuyên cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, cải tiến quy trình, mẫu mã hàng hoá, tổ chức tốt quá trình tiêu thụnhằm thu được nhiều lợi nhuận, tăng năng suất lao động và thúc đẩy sản xuất phát triển.
Ba là, sản xuất hàng hoá quy mô lớn có ưu thế so với sản xuất tự cấp tự túc về quy mô, trình độ kỹ thuật, công nghệ, về khả năng thoả mãn nhu cầu Vì vậy, sản xuất hàng hoá quy mô lớn là hình thức tổ chức kinh tế - xã hội hiện đại phù hợp với xu thế thời đại ngày nay.
Bốn là, sản xuất hàng hoá là mô hình kinh tế mở, thúc đẩy giao lưu kinh tế, giao lưu văn hoá, tạo điều kiện nâng cao, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của xã hội.
II. Hàng hoá
Hàng hoá và hai thuộc tính của nó
Khái niệm hàng hoá
Hàng hoá là sản phẩm của lao động có thể thoả mãn nhu cầu nhất định nào đó của con người thông qua trao đổi mua bán
Hàng hoá có 3 đặc điểm:
+ Là sản phẩm của lao động
+ Thoả mãn nhu cầu nào đó của con người
+ Thông qua trao đổi, mua bán: Đây là đặc điểm quan trọng nhất, là cơ sở để phân biệt hàng hoá với sản phẩm của lao động
Khi nghiên cứu phương thức sản xuất TBCN, Mác bắt đầu bằng việc nghiên cứu hàng hoá, điều này bắt nguồn từ các lý do sau:
+ Hàng hoá là biểu hiện phổ biến nhất của cải trong xã hội tư bản
+ Hàng hoá là hình thái nguyên tố của của cải, là tế bào kinh tế trong đó chứa đựng mọi mầm mống mâu thuẫn của phương thức sản xuất TBCN
+ Phân tích hàng hoá nghĩa là phân tích giá trị - phân tích cái cơ sở của tất cả các phạm trù chính trị kinh tế học của phương thức sản xuất TBCN. Nếu không có sự phân tích này, sẽ không thể hiểu được, không thể phân tích được giá trị thặng dư là phạm trù cơ bản của CNTB.
Như vậy có thể khẳng định rằng hàng hoá là một phạm trù cơ bản của phương thức sản xuất TBCN.
b. Hai thuộc tính của hàng hoá
*Giá trị sử dụng của hàng hoá
Khái niệm: Giá trị sử dụng là công dụng của vật phẩm có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con người.
Ví dụ: Áo để mặc, gạo để ăn.
Đặc điểm của giá trị sử dụng
+ Số lượng giá trị sử dụng của một vật phẩm không phải ngay một lúc đã phát hiện ra được hết, mà nó được phát hiện dần dần trong quá trình phát triển của KH – KT
+ Giá trị sử dụng do thuộc tính tự nhiên của vật thể hàng hoá quy định, với ý nghĩa đó nó là một phạm trù vĩnh viễn
+ Giá trị sử dụng chỉ thể hiện khi con người sử dụng hay tiêu dùng hàng hoá đó
Tóm lại, một vật muốn trở thành hàng hoá trước hết phải có giá trị sử dụng, nhưng không phải bất cứ cái gì có giá trị sử dụng cũng trở thành hàng hoá
*Giá trị
Để hiểu được giá trị phải bắt đầu từ giá trị trao đổi
Phát vấn: Giá trị trao đổi là gì?
Giá trị trao đổi:
Khái niệm: Giá trị trao đổi là quan hệ về số lượng giữa những hàng hóa được trao đổi cho nhau.
Ví dụ: : 1m2 vải = 10 kg gạo
Tức là giá trị trao đổi của 1m2 vải bằng 10kg gạo hay 10kg gạo là giá trị trao đổi của 1m2 vải.
Khái niệm giá trị: Giá trị là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa.
Đặc điểm:
+ Giá trị của hàng hoá biểu hiện quan hệ giũa những người sản xuất hàng hoá với nhau.
+ Giá trị hàng hóa là một phạm trù lịch sử gắn liền với nền sản xuất hàng hoá.
+ Giá trị là nội dung, là cơ sở của giá trị trao đổi, còn giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện của giá trị.
+ Giá trị là thuộc tính xã hội của hàng hoá.
*Mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hóa
Trong hàng hóa, giá trị và giá trị sử dụng vừa thống nhất lại vừa mâu thuẫn với nhau.
Mặt thống nhất thể hiện ở chỗ: Cả hai thuộc tính này cùng đồng thời tồn tại trong một hàng hóa, và nhờ có hai thuộc tính này thì sản phẩm của lao động mới trở thành hàng hóa; thiếu một trong hai thuộc tính đó thì vật phẩm sẽ không thể trở thành hàng hóa.
Mặt mâu thuẫn thể hiện ở chỗ: Người làm ra hàng hoá đi bán chỉ quan tâm đến giá trị, còn người mua chỉ chú ý đến giá trị sử dụng của hàng hoá. Nhưng muốn tiêu dùng hàng hoá thì người mua phải trả giá trị cho người bán.
Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá.
Lao động cụ thể
Khái niệm: Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những ngành nghề chuyên môn nhất định.
Ví dụ: Lao động của người thợ may, lao động của người thợ dệt, lao động của người giáo viên
Mỗi lao động cụ thể có mục đích riêng, đối tượng riêng, phương tiện riêng, phương pháp riêng và kết quả riêng.
Lao động trừu tượng
Khái niệm: Lao động trừu tượng là lao động của người sản xuất hàng hoá khi đã gạt bỏ hình thức cụ thể của nó, hay nói cách khác, đó chính là sự tiêu hao sức lao động (tiêu hao sức bắp thịt, thần kinh) của người sản xuất hàng hoá nói chung.
Lao động trừu tượng bao giờ cũng là sự hao phí sức lực của con người xét về mặt sinh lý. Nhưng không phải sự hao phí sức lao động nào cũng là lao động trừu tượng. Lao động trừu tượng chỉ có trong nền sản xuất hàng hoá vì mục đích của sản xuất hàng hoá là để trao đổi. Vì vậy, cần phải quy các lao động cụ thể vốn rất khác nhau, không thể so sánh được với nhau thành một thứ lao động đồng chất có thể được trao đổi với nhau, tức là lao động trừu tượng.
Lao động trừu tượng tạo ra giá trị, làm cơ sở cho sự ngang giá trong trao đổi
Lao động trừu tượng là một phạm trù lịch sử riêng có của sản xuất hàng hoá
Như vậy, Mác là người đầu tiên phát hiện ra tính chất 2 mặt của lao động sản xuất hàng hoá. Việc phát hiện này có ý nghĩa to lớn về mặt lý luận, nó đem đến cho lý thuyết lao động sản xuất một cơ sở khoa học thực sự, giúp ta giải thích được hiện tượng phức tạp diễn ra trong thực tế, như sự vận động trái ngược khi khối lượng của cải vật chất ngày càng tăng lên, đi liền với khối lượng giá trị của nó giảm xuống hay không thay đổi.
3. Lượng giá trị hàng hoá và các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa
a. Thước đo lượng giá trị hàng hoá
Khái niệm : Lượng giá trị của hàng hóa là lượng thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hóa đó.
Lượng giá trị hàng hoá được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết.
Thời gian lao động xã hội cần thiết: là thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra một hàng hóa nào đó trong những điều kiện sản xuất bình thường của xã hội với một trình độ trang thiết bị trung bình, với một trình độ thành thạo trung bình và một cường độ lao động trung bình trong xã hội đó.
Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hoá
Năng suất lao động
+ Khái niệm: Năng suất lao động là năng lực sản xuất của người lao động, được đo bằng số lượng sản phẩm được sản xuất trong một đơn vị thời gian, hoặc số lượng thời gian hao phí để sản xuất một đơn vị sản phẩm.
+ Ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa: Trong điều kiện các nhân tố khác không đổi thì lượng giá trị của hàng hóa tỷ lệ nghịch với năng suất lao động. Năng suất lao động xã hội càng tăng thì thời gian lao động xã hội cần thiết càng giảm, lượng lao động kết tinh trong một đơn vị hàng hóa càng ít do đó giá trị hàng hóa càng nhỏ. Ngược lại, năng suất lao động xã hội càng giảm, thời gian lao động xã hội càng tăng lượng giá trị của một đơn vị sản phẩm càng nhiều.
+ Các nhân tố ảnh hưởng đến năng suất lao động
Trình độ khéo léo của người lao động.
Sự phát triển của KHKT và trình độ ứng dụng kỹ thuật vào sản xuất.
Trình độ tổ chức, quản lý lao động.
Quy mô và hiệu quả của tư liệu sản xuất.
Các điều kiện tự nhiên
Khi nghiên cứu năng suất lao động, chúng ta cần chú ý đến cường độ lao động. Bởi có rất nhiều người nhầm lẫn giữa NSLĐ và CĐLĐ, và cho rằng: Muốn tăng năng suất lao động phải tăng cường độ lao động. Vậy cường độ lao động là gì?
Cường độ lao động là khái niệm nói lên mức độ khẩn trương, là sự căng thẳng, mệt nhọc của người lao động.
Khi tăng cường độ lao động thì số lượng (khối lượng) hàng hoá sản xuất ra tăng lên, lượng lao động hao phí trong cùng một thời gian cũng tăng lên tương ứng và lượng giá trị của một sản phẩm thì không đổi. Tăng cường độ lao động cũng giống như kéo dài thời gian lao động.
Vậy, giữa NSLĐ và CĐLĐ có điểm gì giống và khác nhau?
Tăng cường độ lao động
Tăng năng suất lao động
Giống nhau
* Chúng đều thuộc “sức sản xuất của lao động”
* Đều dẫn tới số lượng (hoặc khối lượng) sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian tăng lên.
Khác nhau
* Ảnh hưởng đến lượng giá trị
Chỉ làm tăng số lượng (hoặc khối lượng) hàng hóa mà không ảnh hưởng đến giá trị của hàng hóa.
Vừa làm cho hàng hóa tăng lên về mặt lượng lại vừa kéo theo sự giảm giá trị của hàng hóa đó.
* Khả năng tăng lên
Phụ thuộc nhiều vào thể chất, tinh thần của người lao động nên nó có những giới hạn nhất định.
Năng suất lao động tăng lên không ngừng do nó phụ thuộc nhiều vào yếu tố máy móc kỹ thuật, một yếu tố có “sức sản xuất” vô hạn.
Mức độ phức tạp của lao động
Theo mức độ phức tạp của lao động, có thể chia lao động thành lao động giản đơn và lao động phức tạp.
+ Lao động giản đơn là lao động mà bất kỳ một người lao động bình thường nào không cần phải trải qua đào tạo cũng có thể thực hiện được.
Ví dụ: Giúp việc gia đình, lao công
+ Lao động phức tạp là lao động đòi hỏi phải được đào tạo, huấn luyện thành lao động chuyên môn lành nghề nhất định mới có thể tiến hành được
Ví dụ: Kế toán, giáo viên, kỹ sư nông học
+ Ảnh hưởng đến giá trị hàng hóa: Trong cùng một thời gian, lao động phức tạp tạo ra nhiều giá trị hơn lao động giản đơn.
Ví dụ: Lương của một giáo sư ở một trường đại học khoảng trên dưới 10 triệu/tháng. Còn lương của một anh bảo vệ là 4 triệu/tháng.
Tóm lại: Lượng giá trị hàng hoá chịu ảnh hưởng của hai nhân tố cơ bản: Năng suất lao động và mức độ phức tạp của lao động.
Cấu thành lượng giá trị hàng hoá
Để sản xuất ra hàng hoá phải chi phí ra một số lao động gồm
+ Lao động quá khứ tồn tại trong các yếu tố tư liệu sản xuất, ký hiệu là
+ Lao động sống, hay lao động trực tiếp, trong quá trình sản xuất tạo ra một giá trị mới bằng v = m
- Cấu thành lượng giá trị hàng hoá gồm hai bộ phận: giá trị cũ và giá trị mới.
W = c + v + m
Trong đó: c là giá trị cũ, còn v + m là giá trị mới.
Tiền tệ
Lịch sử ra đời và bản chất của tiền tệ.
Sự phát triển của các hình thái giá trị.
Sự phát triển các hình thái giá trị trong nền kinh tế hàng hoá thông qua 4 hình thái cụ thể sau:
Hình thái giá trị giản đơn hay ngẫu nhiên:
Đây là hình thái đầu tiên của giá trị, nó xuất hiện trong giai đoạn đầu của trao đổi hàng hoá. Tuy nhiên, do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất còn thấp, sự trao đổi hàng hoá còn ít nên sự trao đổi hàng hoá chỉ mang tính ngẫu nhiên và là trao đổi trực tiếp (H – H)
Ví dụ: 1m vải = 10kg thóc.
Hình thái giá trị đầy đủ hay mở rộng: Ở hình thái này một hàng hoá có thể trao đổi được với nhiều hàng hoá.
Ví dụ:
10kg thóc hoặc
1m vải = 2 con gà hoặc
5 kg chè hoặc
Như vậy, 1m vải được thể hiện giá trị ở nhiều hàng hoá khác nhau, nhưng sự thể hiện này không thuần nhất.
Hình thái chung của giá trị
10kg thóc
2 con gà = 1m vải
5 kg chè
Ở đây, 1m vải là vật ngang giá chung cho mọi hàng hoá và nó được xã hội thừa nhận. Nhưng nó lại gặp một khó khăn, đó là mỗi vùng lại có một vật ngang giá khác nhau. Do vậy, khi các vùng trao đổi hàng hoá với nhau, họ lại phải làm thêm một công đoạn nữa là phải đổi hàng hoá đó ra vật ngang giá của vùng này. Đây cũng là lý do cho sự ra đời của tiền tệ
- Hình thái tiền tệ
+ Khi lực lượng sản xuất phát triển, trao đổi hàng hoá mở rộng, thì tình trạng có nhiều vật ngang giá chung làm cho trao đổi giữa các địa phương gặp khó khăn, đòi hỏi phải có một vật ngang giá chung thống nhất. Khi vật ngang giá chung được cố định ở một vật độc tôn và phổ biến thì xuất hiện hình thái tiền tệ của giá trị.
+ Ví dụ:
10 kg thóc
5 kg chè = 0,1 gram vàng (vàng trở thành tiền tệ)
2 con cừu
b. Bản chất của tiền tệ
- Tiền tệ là một hàng hoá đặc biệt
- Tiền tệ là vật ngang giá chung
- Thể hiện mối quan hệ giữa những người sản xuất hàng hoá
Ví dụ: A có vải bán lấy tiền mua gạo Thể hiện MQH giữa những
B có gạo bán lấy tiền mua bàn ghế người SX HH với nhau.
c.Chức năng của tiền tệ
Thước đo giá trị:
+ Đây là chức năng cơ bản nhất của tiền tệ, dùng để đo lường giá trị của hàng hoá khác. Muốn đo lường được giá trị hàng hoá khác bản thân tiền phải có giá trị. Vì vậy, tiền tệ làm chức năng thước đo giá trị phải là tiền vàng.
Ví dụ: Ô tô = bao nhiêu chỉ vàng
+ Giá trị hàng hoá được biểu hiện bằng tiền gọi là giá cả hàng hoá. Giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị.
Phương tiện lưu thông: Tiền tệ làm môi giới trong lưu thông, trong trao đổi hàng hoá.
Khi tiền chưa xuất hiện: H – H
Khi tiền xuất hiện: H – T – H
+ Khi tiền làm môi giới trong trao đổi hàng hoá đã làm cho hành vi bán và hành vi mua có thể tách rời nhau cả về thời gian và không gian. Sự không nhất trí giữa mua và bán chứa đựng mầm mống của khủng hoảng kinh tế.
Phương tiện cất trữ:
+ Tiền sẽ được rút khỏi lưu thông và đi vào cất trữ.
+ Để làm chức năng phương tiện cất trữ, tiền phải có đủ giá trị, tức là tiền vàng, bạc.
Phương tiện thanh toán:
+ Khi sản xuất hàng hoá phát triển dẫn đến việc mua hàng hoá chịu của nhau, vì vậy tiền có thêm chức năng là phương tiện thanh toán.
+ Trong hình thức mua bán chịu, tiền tệ trước tiên làm chức năng thước đo giá trị. Nhưng vì mua bán chịu nên đến kỳ hạn trả tiền thì tiền mới làm chức năng phương tiện thanh toán.
Tiền tệ thế giới:
+ Phương tiện để mua hàng
+ Phương tiện thanh toán quốc tế
+ Di chuyển của cải từ nước này sang nước khác (vàng)
Tóm lại: Tiền tệ là một loại hàng hoá đặc biệt được tách ra khỏi hàng hoá và nó dùng để đo lường giá trị hàng hoá.
Quy luật lưu thông tiền tệ và lạm phát
Quy luật lưu thông tiền tệ
Nếu lượng tiền lưu thông > lượng tiền cần thiết thì sẽ dẫn đến lạm phát
Nếu lượng tiền lưu thông < lượng tiền cần thiết thì sẽ dẫn đến suy giảm kinh tế.
Lạm phát
Khi số lượng tiền giấy đưa vào lưu thông vượt quá số lượng tiền vàng hay bạc mà nó đại diện thì sẽ dẫn đến hiện tượng lạm phát.
Biểu hiện:
+ Tiền giấy mất giá
+ Các mặt hàng đồng loạt tăng giá
Phân loại: Có 3 loại lạm phát
+ Lạm phát vừa phải (trung bình): 1 con số (1% - 9%).
+ Lạm phát phi mã: lạm phát 2 hoặc 3 con số
+ Siêu lạm phát: lạm phát 4 con số. Lúc này tiền giấy đưa ra quá nhiều, giá cả tăng gấp nhiều lần trong vòng 1 tháng.
Nguyên nhân của lạm phát
+ Thâm hụt ngân sách: Nhà nước đưa một lượng tiền lớn vào lưu thông, nhưng sản xuất tăng chậm, dẫn đến T > H.
+ Do sản xuất tăng chậm, cầu tăng nhanh.
+ Do cầu kéo (nền kinh tế đã phát triển hết khả năng nhưng vẫn có nhu cầu phát triển tiếp, kéo theo giá tăng lên.
+ Do phí đẩy: Chi phí tăng dẫn đến giá các mặt hàng tăng dẫn đến lạm phát
Hậu quả của lạm phát:
+ Phân phối lại thu nhập (những người đi vay sẽ được lợi và những người cho vay sẽ thiệt hại)
+ Khuyến khích đầu cơ hàng hoá
Giải pháp: giảm lượng tiền, tăng lượng hàng hoá.
Quy luật giá trị
Nội dung và yêu cầu của quy luật giá trị
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất và trao đổi hàng hoá, ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hoá thì ở đó có sự tồn tại và phát huy tác dụng của quy luật giá trị.
Nội dung của quy luật giá trị: Việc sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết.
Yêu cầu của quy luật giá trị:
+ Trong sản xuất: Hao phí lao động cá biệt phù hợp với hao phí lao động xã hội cần thiết.
+ Trong trao đổi: Cũng phải dựa vào hao phí lao động xã hội cần thiết, nghĩa là, phải thực hiện theo nguyên tắc ngang giá.
Tóm lại: Sự vận động giá cả thị trường của hàng hoá xoay quanh trục giá trị của nó chính là cơ chế hoạt động của quy luật giá trị. Thông qua sự vận động của giá cả thị trường mà quy luật giá trị phát huy tác dụng.
2.Tác động của quy luật giá trị
Một là, điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa.
+ Điều tiết sản xuất: tức là điều hoà, phân bổ các yếu tố sản xuất giữa các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế.
+ Điều tiết lưu thông hàng hóa: thu hút hàng hóa từ nơi có giá cả thấp đến nơi có giá cả cao, do đó làm cho lưu thông hàng hoá thông suất.
Hai là, kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, tăng năng suất lao động, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Ba là, thực hiện sự lựa chọn tư nhiên và phân hóa những người sản xuất hàng hóa thành giàu, nghèo.
CHƯƠNG II: HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ
Sự chuyển hoá của tiền thành tư bản
Công thức chung của tư bản
Mọi tư bản đều biểu hiện dưới dạng tiền. Nhưng bản thân tiền không phải là tư bản. Tiền chỉ trở thành tư bản khi tiền đó dùng để bóc lột sức lao động.
Đã là tư bản thì phải vận động theo công thức: T – H – T’ ( T’ = T + m). Mác gọi đây là công thức chung của tư bản.
Hãy so sánh công thức H – T – H’ (1) và công thức T – H – T’ (2)
Giống nhau:
+ Đều có quá trình mua và bán
+ Đều có hai yếu tố vật chất là hàng và tiền
+ Đều có người mua và người bán.
Khác nhau:
+ Khác nhau về biểu hiện bên ngoài:
Trình tự mua bán: công thức 1 bán trước, mua sau; công thức 2 mua trước, bán sau.
Điểm xuất phát và điểm kết thúc của quá trình mua bán: Công thức 1, điểm xuất phát và kết thức đều là hàng, tiền giữ vai trò trung gian; công thức 2, điểm xuất phát và điểm kết thúc là tiền, hàng hoá giữ vai trò trung gian.
+ Khác nhau về bản chất bên trong:
Động cơ, mục đích của lưu thông: Công thức 1 là giá trị sử dụng; công thức 2 là giá trị và hơn nữa là giá trị tăng thêm
Giới hạn về sự vận động: công thức 1, khi đã có H (lần 2) là dừng; công thức 2, khi đã có T’ nhưng không dừng lại, mà T’ lại tiếp tục mua H để rồi bán thu về T’’, cứ như thế
T – H – T’ – H – T’’ – H – T’’’ – H – T’’