Những nội dung chính
1. Phương pháp tiếp cận từ dân tộc
chí, dân tộc học, nhân học
2. Tiếp cận từ Tâm lý học trong
nghiên cứu văn hóa
3. Phân tâm học trong nghiên cứu văn
hóa
4. Tiếp cận từ Xã hội học văn hóa
5. Phương pháp nghiên cứu liên
ngành trong văn hóa học
20 trang |
Chia sẻ: anhquan78 | Lượt xem: 995 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề cương bài giảng văn hóa học những phương pháp tiếp cận cơ bản, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG
VĂN HÓA HỌC
NHỮNG PHƯƠNG PHÁP
TIẾP CẬN CƠ BẢN
T.S. Phan Quốc Anh
Những nội dung chính
1. Phương pháp tiếp cận từ dân tộc
chí, dân tộc học, nhân học
2. Tiếp cận từ Tâm lý học trong
nghiên cứu văn hóa
3. Phân tâm học trong nghiên cứu văn
hóa
4. Tiếp cận từ Xã hội học văn hóa
5. Phương pháp nghiên cứu liên
ngành trong văn hóa học
1. Phương pháp tiếp cận từ dân tộc chí,
dân tộc học, nhân học
1.1. Phương pháp tiếp cận dân tộc chí
(Ethnoraphy)
- Phương pháp tiếp cận dân tộc chí là phương pháp
miêu tả xã hội và các nền văn hóa riêng biệt.
- Đây là phương pháp khảo cứu những biểu thị vật
chất trong các hoạt động của con người như sự ăn,
ở, mặc, trang sức, phương tiện đi lại, vũ khí, dụng
cụ, công cụ lao động,sự trao đổi, lễ hội, tôn giáo,
nghệ thuật v.vtất thảy những gì trong sự sinh tồn
vật chất của cá nhân, gia đình và xã hội, từ đó tìm ra
những nét đặc biệt
- Hạn chế của phương pháp này là chỉ dừng lại ở sự
miêu tả, chưa đi đến sự phân tích, tổng hợp, giải mã
để đi đến những kết luận có tính khái quát cao
1.2. Phương pháp tiếp cận dân tộc học (Ethnology)
Là phương pháp khoa học nghiên cứu văn hóa và xã
hội các tộc người. Đây là sự phát triển của phương
pháp dân tộc chí. Tác phẩm “Văn hóa nguyên
thủy” của Edward Burnett Tylor là một tác phẩm
mẫu mực của phương pháp dân tộc học gắn với
tiến hóa luận.
• Các nhà nghiên cứu dân tộc học thường nghiêng
về xu hướng nghiên cứu loài người theo những
tiêu chí chủng tộc mà đối tượng của nó là những
dân tộc sơ khai, thường phải sử dụng đến thành
tựu của khảo cổ học. Nhưng phương pháp này có
hạn chế là nghiên cứu về chủng tộc không phải là
vô hạn. Đến lúc không còn những giống người
khác lạ để nghiên cứu nữa. Chính vì vậy, nhân học
ra đời
A.A. Belik
Dân tộc học (khoa học về sự phát tán của loài người
trên trái đất, hành vi và các phong tục của họ);
Xã hội học (khoa học nghiên cứu mối quan hệ giữa
con người với nhau);
Nhân khẩu học (đưa ra số liệu thống kê về thành
phần và sự phân bố các cộng đồng dân số).
Địa lý học xã hội (nghiên cứu tác động của khí hậu và
môi trường tự nhiên đến con người);
• 1.3. Tiếp cận từ chuyên ngành Nhân học
(Anthropology):
• Là ngành khoa học của sự giao thoa giữa hai ngành
dân tộc học và xã hội học, là giai đoạn phát triển cao
nhất của dân tộc chí và dân tộc học, thể hiện ở
phương pháp nghiên cứu tổng hợp và khái quát cao.
Nhân học sử dụng những thành tựu của dân tộc chí
và dân tộc học để phân tích, tổng hợp, khái quát và
kết luận theo chiều không gian, thời gian và hệ
thống
• Phương pháp luận nghiên cứu của nhân học là xem
xét các sự kiện xã hội và văn hóa trong mối tương
quan với chủ thể của chúng, sử dụng phương pháp
tham dự và tái dựng mô hình.
Nhân học có thể được định nghĩa là một
ngành học về bản chất con người, xã hội
con người, và quá khứ con người (xem
Greenwood và Stini 1977). Đây là một
ngành học có mục đích miêu tả thế nào là
con người theo một nghĩa rộng nhất có
thể có được.
• Về cơ bản nhân học bao gồm: khảo cổ học, dân
tộc chí, dân tộc học, văn học dân gian, ngôn ngữ
học, nhân học hình thể và nhân học xã hội.
• Nhân học văn hóa là lĩnh vực nghiên cứu khoa
học đặc biệt, tập trung chú ý đến quá trình tác
động qua lại giữa con người và văn hóa.
2. Tiếp cận từ Tâm lý học trong nghiên
cứu văn hóa
Là xu hướng nghiên cứu văn hóa dựa vào
thành tựu của tâm lý học, là phương pháp
nghiên cứu tâm lý của một tộc người trên
cơ sở nghiên cứu những điều kiện lịch sử,
văn hóa của họ chứ không phải chỉ nghiên
cứu chủng tộc, sinh lý tộc người.
• Phương pháp tiếp cận tâm lý học trong
nghiên cứu văn hóa đi tìm bản chất tâm
lý của tinh thần dân tộc để khám phá
những qui luật chi phối hoạt động tinh
thần dân tộc, để tìm những cơ sở xuất
hiện, phát triển và biến mất những đặc
điểm tiêu biểu của dân tộc.
3. Phân tâm học trong nghiên cứu văn hóa
• Đây là một bộ môn khoa học mới xuất
hiện vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX,
gắn với tên tuổi của bác sĩ, nhà khoa học
vĩ đại người Áo, Sigmund Freud (1856 –
1939).
• Xuất phát từ việc điều trị bệnh nhiễu tâm
và ixteria – ectasy, Freud đã phát hiện ra
vai trò của cái vô thức, sau này trở thành
một khái niệm căn bản của phân tâm học.
• Phân tâm học đã đươc Freud xây
dựng thành lý thuyết tâm lý học dựa
trên hệ khái niệm vô thức, nêu lên
những khái niệm có liên quan đến
giả thuyết của ông về “năng lượng
của đời sống tâm thần” và “Cấu trúc
của đời sống tâm thần”, những khái
niệm libido và những lực siêu hình
tâm lý khác.
• Nhà khoa học thứ hai gắn tên tuổi
mình với phân tâm học là Carl
Gustav Jung (1875- 1961). Ông đã
giải quyết mối quan hệ giữa cái xã
hội và cái cá nhân, giữa cái ý thức
và cái vô thức một cách biện
chứng
3.1. Những hướng nghiên của phân tâm học:
Nghiên cứu các hình thái tôn giáo:
- Freud trong tác phẩm “vật tổ và cấm kỵ” đã
dùng phân tâm học đê diễn giải hiện tượng
totem ở các xã hội nguyên thủy: sự hình
thành tâm lý các tộc người, luân lý tôn giáo,
sự cấm đoán, kiêng kỵ, sự hối hận.
- Tác phẩm “Tâm lý học tôn giáo” của Jung
phân tích sự hình thành những hiện tượng
thần thoại và biểu tượng trong tiềm thức
như biểu tượng giấc mơ, biểu tượng tôn
giáo v.v
• Nghiên cứu các giấc mơ
Giấc mơ luôn là một dấu hỏi đối với khả năng
nhận thức của con người
- Có phải là sự gặp gỡ, đối thoại với thế giới
bên kia không (thuyết hồn linh)
- Freud tìm ra khái niệm vô thức để diễn giải
một cách khoa học, phân loại giấc mơ thành
hai loại: mộng thường và mộng lớn, tìm
hiểu hệ thống hóa ngôn ngữ biểu tượng của
các giấc mơ và thực hành lý giải chúng
• Nghiên cứu nghệ thuật
Những nghiên cứu nghệ thuật dưới góc
độ phân tâm học đã mang lại nhiều
thành tựu, tìm ra những cái sâu xa, kín
đáo nhất của cái vô thức thường bị cái
ý thức che đậy, lấn át.
• Những xung đột nội tâm
Đó là xung đột giữa ý thức và vô
thức. Ví dụ, con người thường có
khuynh hướng muốn được thỏa
mãn những bản năng thầm kín có
khuynh hướng tiêu cực bằng cách
ôn hòa. Vai trò của nghệ thuật ở
đây như là những phương tiện giải
thoát. Có nghĩa là nghệ thuật là lối
giải thoát theo kiểu mơ mộng trong
lúc tỉnh.
• Đồng nhất hóa và sự thăng hoa
Freud cho rằng chính nghệ thuật khi sáng tạo
hay thưởng thức nghệ thuật như muốn nhập
mình vào với những sự vật trong tác phẩm
nghệ thuật, nhờ đó mà con người ta giải tỏa
được những gì dồn nén bởi cuộc sống
thường ngày.
Nhờ có trạng thái estasy, libido, ức chế hay
thăng hoa mà các nghệ sĩ sáng tác và thể
hiện được những tác phẩm nghệ thuật tuyệt
tác.
• Mặc cảm tội lỗi:
Thông qua phân tích một số tác phẩm nghệ
thuật, các nhà phân tâm học cho rằng các
nhân vật đều có những mặc cảm tội lỗi
4. Tiếp cận từ Xã hội học văn hóa
Xã hội học văn hóa có nguồn gốc từ triết học
xã hội, xuất hiện vào nửa sau thế kỷ XIX.
Giai đoạn này khoa học tự nhiên phát triển
mạnh, vì vậy, các nhà khoa học xã hội cho
rằng nghiên cứu xã hội cũng phải bằng
những phương pháp như khoa học tự
nhiên (thực chứng, thực nghiệm, định
lượng)
Xã hội học là khoa học nghiên cứu về đời
sống của các xã hội, về những sự kiện cấu
trúc và những sự kiện chung sống
Những vấn đề đã giải quyết
1. Phương pháp tiếp cận từ dân tộc
chí, dân tộc học, nhân học
2. Tiếp cận từ Tâm lý học trong
nghiên cứu văn hóa
3. Phân tâm học trong nghiên cứu
văn hóa
4. Tiếp cận từ Xã hội học văn hóa