Khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO một cánh cửa mới
đã mở ra cho nền kinh tế Việt Nam, bắt đầu những nỗ lực lớn hơn và khó khăn nhiều hơn bội phần. Đặc biệt
là trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, các NHTM Việt Nam sẽ bước vào “sân chơi” hoàn toàn mới. Ở sân
chơi quốc tế với “luật chơi” công bằng hơn sẽ làm cho hệ thống NHTM Việt Nam đứng trước nhiều cơ hội
và thách thức lớn.
An ninh tài chính đối với hoạt động của các NHTM không phải là một khái niệm hoàn toàn mới, nhất là
an ninh tài chính trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập nền kinh tế quốc tế. Liệu rằng các NHTM Việt
Nam có giữ vững được an ninh tài chính đối với hoạt động của mình trong giai đoạn hội nhập hay
không ? Một vấn đề đặt ra cho toàn ngành ngân hàng Việt Nam. Mỗi chiến lược đảm bảo an ninh tài
chính phải thực sự là vấn đề sống còn của chính họ. Nó phải chặt chẽ, mang tính đặc thù và phải có tầm
nhìn chiến lược phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Có như vậy NHTM Việt Nam mới có thể tự
khẳng định được vị thế của mình trên trường quốc gia và quốc tế. Góp phần phát triển nền kinh tế đất nước
là mục tiêu xuyên suốt và lâu dài hiện nay.
50 trang |
Chia sẻ: maiphuong | Lượt xem: 1902 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài An ninh tài chính đối với hoạt động của ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn hội nhập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI ĐỀ TÀI
Khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO một cánh cửa mới
đã mở ra cho nền kinh tế Việt Nam, bắt đầu những nỗ lực lớn hơn và khó khăn nhiều hơn bội phần. Đặc biệt
là trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, các NHTM Việt Nam sẽ bước vào “sân chơi” hoàn toàn mới. Ở sân
chơi quốc tế với “luật chơi” công bằng hơn sẽ làm cho hệ thống NHTM Việt Nam đứng trước nhiều cơ hội
và thách thức lớn.
An ninh tài chính đối với hoạt động của các NHTM không phải là một khái niệm hoàn toàn mới, nhất là
an ninh tài chính trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập nền kinh tế quốc tế. Liệu rằng các NHTM Việt
Nam có giữ vững được an ninh tài chính đối với hoạt động của mình trong giai đoạn hội nhập hay
không ? Một vấn đề đặt ra cho toàn ngành ngân hàng Việt Nam. Mỗi chiến lược đảm bảo an ninh tài
chính phải thực sự là vấn đề sống còn của chính họ. Nó phải chặt chẽ, mang tính đặc thù và phải có tầm
nhìn chiến lược phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Có như vậy NHTM Việt Nam mới có thể tự
khẳng định được vị thế của mình trên trường quốc gia và quốc tế. Góp phần phát triển nền kinh tế đất nước
là mục tiêu xuyên suốt và lâu dài hiện nay.
Xuất phát từ những phân tích trên, đề tài: “An ninh tài chính đối với hoạt động của ngân hàng
thương mại Việt Nam trong giai đoạn hội nhập” sẽ giúp các NHTM Việt Nam tìm ra giải pháp cho NH
mình trong bối cảnh hội nhập. Chủ yếu là thực trạng huy động vốn và cho vay trước thềm hội nhập kinh tế
đồng thời đề ra các giải pháp cơ bản cho vấn đề này. Ngoài ra, đề tài còn có một số giải pháp khác để đảm
bảo an ninh tài chính cho hoạt động của NHTM Việt Nam trong giai đoạn hội nhập.
2. MỤC TIÊU VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Nghiên cứu và đề xuất các giải pháp đảm bảo an ninh tài chính đối với ngân hàng thương mại Việt Nam
trong tiến trình hội nhập quốc tế.
Đề tài đi vào nghiên cứu những vấn đề chung cơ bản của ngân hàng thương mại, các quy chế hoạt động
của NHTM để đi vào nghiên cứu những vấn đề có thể tác động đến an ninh tài chính của NHTM trong
tiến trình hội nhập từ đó đưa ra những giải pháp đảm bảo an ninh tài chính đối với các NHTM hiện nay.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để hoàn thành đề tài này, tác giả sử dụng phương pháp như phương pháp duy vật biện chứng, duy vật
lịch sử , phương pháp thống kê, phương pháp quan sát lịch sử .Phương pháp phân tích so sánh tổng hợp đi
từ trừu tượng đến cụ thể và kết hợp với kiến thức các môn học và số liệu từ NHTM , sử dụng kinh nghiệm
của các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực tiền tệ – ngân hàng , những tài liệu trong và ngoài nước đã giúp cho
đề tài được phong phú , mở rộng và thể hiện tính thiết thực hơn của đề tài.
2
PHẦN 1: LÝ LUẬN VỀ AN NINH TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. KHÁI NIỆM VỀ AN NINH TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI:
1.1.1. An ninh tài chính là gì?
An ninh tài chính là khái niệm cơ bản để chỉ một tình trạng tài chính ổn định, an toàn và vững mạnh.
Ổn định ở đây hiểu là duy trì hoạt động bình thường, không có những biến động đột ngột, thất
thường và sự ổn định trong sự vận động và phát triển .
An toàn là trạng thái không bị tác động nguy hiểm từ mọi phía, từ phía các tác động bên trong và
bên ngoài. Nếu ổn định là tiền đề có tính chất nền tảng thì an toàn là cốt lõi chi phối toàn bộ quá trình vận
động của tình trạng tài chính.
Vững mạnh là cơ sở cho sự ổn định và an toàn, một trạng thái tài chính yếu không thể giữ được ổn
định và đảm bảo an toàn .
Không có khủng hoảng là trạng thái không rơi vào tình trạng cực kỳ khó khăn không xoay sở được,
là trạng thái bế tắc của một vấn đề. Cũng có thể nói khủng hoảng là hệ quả xấu nhất của ba trạng thái trên và
hậu quả của nó là rất lớn.
Ba nội dung trên đồng thời là 3 nguyên tắc của đảm bảo an ninh tài chính.
Tính hệ thống của an ninh tài chính là an ninh của từng bộ phận gắn liền với an ninh của toàn hệ
thống , có mối quan hệ tương tác và phụ thuộc lẫn nhau về mặt tổ chức và địa lý , an ninh từng quốc gia
không tách rời an ninh khu vực và toàn cầu, đồng thời cả về mặt đối tượng và nội dung của an ninh như an
ninh kinh tế liên quan chặt chẽ với an ninh chính trị , an ninh xã hội , an ninh thông tin , an ninh tài chính…
1.1.2. Phân loại an ninh tài chính
Có nhiều cách thức để phân loại an ninh tài chính. Chúng ta có thể phân lọai an ninh tài chính theo
chức năng tài chính như sau:
An ninh tài chính trong huy động các nguồn lực tài chính.
An ninh tài chính trong phân bổ và sử dụng các nguồn lực tài chính.
1.1.3. Khái niệm an ninh tài chính đối với hoạt động ngân hàng
An ninh tài chính của ngân hàng là trạng thái các tài sản (tài sản nợ, tài sản có và tài sản ròng) ổn định,
an toàn, vững mạnh và không khủng hoảng; biểu hiện trạng thái bền vững và phát triển của các hoạt động
kinh doanh của ngân hàng. Bảo đảm an ninh tài chính đối với hoạt động của các ngân hàng thương mại
(NHTM) nói chung và của một ngân hàng nói riêng là việc sử dụng các biện pháp giữ cho các tài sản của
ngân hàng đó luôn luôn ổn định, an toàn, vững mạnh và không khủng hoảng. Thiết lập được mạng lưới an
ninh có khả năng phòng ngừa, ứng phó kịp thời, nhanh nhạy, hiệu quả đối với các loại hình tội phạm kinh tế
3
trong lĩnh vực ngân hàng ngày càng phát triển với hình thức ngày càng đa dạng, phức tạp, tính chất mức độ
vi phạm ngày càng tinh vi.
An ninh tài chính trong NHTM cũng mang đầy đủ những tính chất chung của an ninh tài chính gồm bốn
yếu tố : ổn định, an toàn, vững mạnh và không bị khủng hoảng. Đồng thời cũng mang những nét riêng đặc
trưng của lĩnh vực ngân hàng, một lĩnh vực mà hiện nay được nhận định là nền tảng cho sự phát triển của
nền kinh tế của một quốc gia và của tòan thế giới.
1.2. NỘI DUNG CỦA AN NINH TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI VÀ CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ
1.2.1 Ồn định hoạt động ngân hàng: thể hiện ở 2 bộ phận :
a. Ổn định huy động vốn (tiền gửi):
Tiền gửi là bộ phận quan trọng nhất trong tài sản nợ của từng ngân hàng thương mại cũng như toàn bộ
hệ thống ngân hàng .Sự ổn định của tiền gửi được biểu hiện ở tốc độ tăng tiền gửi , biến động của cơ cấu
tiền gửi ( tiền gửi kì hạn ,không kì hạn ,tiền gửi tiết kiệm ,tiền gửi bằng nội tệ, tiền gửi bằng ngoại tệ ..)
Tổng tiền gửi cuối năm – Tổng tiền gửi đầu năm
Tốc độ tăng tiền gửi = x 100%
hàng năm(%) Tổng tiền gửi đầu năm
Nhân tố quyết định đến ổn định tiền gửi là tỷ lệ tiết kiệm , niềm tin của người gửi và khả năng tiếp
cận dịch vụ ngân hàng và lợi nhuận thu được từ tiền gửi. Bên cạnh đó, tốc độ tăng tiền gửi còn bị chi phối
bởi khả năng lựa chọn của người gửi tiền và tập quán tiết kiệm trong dân cư. Các nước đang phát triển có thị
trường tài chính chậm phát triển, các công cụ tài chính còn ít, độ rủi ro cao, thêm vào đó là tâm lý tiết kiệm
chi tiêu để dành một khoản tiền cho những mua sắm lớn trong điều kiện thu nhập còn thấp nên tiền gửi ngân
hàng thường tăng ở mức độ cao.
b. Ổn định hoạt động cho vay:
Cho vay là một hoạt động cơ bản tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng, mặt khác là một trong những yếu
tố quyết định đầu tư và tăng trưởng kinh tế.
Ổn định hoạt động cho vay biểu hiện ở tốc độ tăng các khoản cho vay .
Tổng cho vay cuối năm – Tổng cho vay đầu năm
Tốc độ tăng cho vay = x 100%
hàng năm(%) Tổng cho vay đầu năm
Tốc độ tăng cho vay chủ yếu phụ thuộc vào tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Nền kinh tế có tốc độ
tăng trưởng càng cao thì nhu cầu vốn càng lớn, đặc biệt các doanh nghiệp ở những nước đang phát triển có
đặc điểm hoạt động dựa nhiều vào nguồn vốn vay từ ngân hàng. Ngoài ra, sự can thiệp của Chính phủ vào
hoạt động ngân hàng thường xuyên xảy ra ở các nước đang phát triển buộc NHTM phải cho tăng cường cho
4
vay theo các điều kiện ưu đãi dưới sự chỉ định hay bảo lãnh của Chính phủ cũng là nhân tố thúc đẩy tín
dụng cho vay tăng nhanh.
c. So sánh tốc độ tăng tiền gửi và tốc độ tăng cho vay:
Nếu tốc độ tăng tiền gửi nhanh hơn tốc độ tăng cho vay trong một thời gian dài có thể đẩy ngân hàng
vào tình thế tiến thoái lưỡng nan là dư thừa nguồn vốn không cho vay được trong khi vẫn phải trả chi
phí cho những khoản tiền gửi. Hệ quả là ngân hàng buộc phải giảm tốc độ tăng tiền gửi thông qua giảm
lãi suất hay tăng tín dụng thông qua nới lỏng các điều kiện cho vay. Cả hai biện pháp đều có khả năng
làm mất uy tín , niềm tin hay tăng rủi ro của ngân hàng.
Nếu tốc độ tăng tiền gửi thấp hơn nhiều tốc độ tăng cho vay thì ngân hàng dễ lâm vào tình trạng thiếu
vốn cho vay, buộc phải tăng lãi suất để thu hút tiền gửi song không phải là dễ dàng trong điều kiện tự do
hóa lãi suất như hiện nay và các khoản cho vay dễ bị mất an toàn hơn do có thể các điều kiện cho vay
quá dễ dãi.
Tốc độ tăng tiền gửi và cho vay đều đặn, không có đột biến và khoảng cách giữa hai tốc độ này không
quá lớn là đảm bảo cho sự ổn định của hoạt động ngân hàng. Nói cách khác là chênh lệch giữa hai tốc độ
này có thể quyết định động thái tiếp theo của ngân hàng.
1.2.2 An toàn hoạt động ngân hàng
An toàn tiền gửi là khả năng ngân hàng luôn luôn sẵn sàng đáp ứng nhu cầu rút tiền của người gửi mà
không rơi vào tình trạng nguy hiểm. Để đảm bảo trạng thái sẵn sàng chi trả này ngân hàng cần duy trì dự trữ
bắt buộc và cả dự trữ quá mức. Trong trường hợp dự trữ không đủ ngân hàng buộc phải bán các khoản cho
vay của mình.
An toàn cho vay thể hiện ở việc các khoản cho vay đã, đang và sẽ thường xuyên được hoàn trả đúng hạn
với lãi suất theo đúng hợp đồng tín dụng mà công cụ then chốt là quản lý rủi ro, đa dạng hóa và đảm bảo
tiền vay.
Để đo lường mức độ an toàn cho vay người ta áp dụng các biện pháp quản lý tài sản có trên cơ sở đánh
giá mức độ rủi ro của từng khoản vay, từ đó tổng hợp thành chỉ số rủi ro cho vay chung của ngân hàng hay
cả hệ thống. Việc cho vay luôn gắn liền với rủi ro .
Rủi ro tín dụng là khoản lỗ tiềm tàng vốn có được tạo ra khi ngân hàng cấp tín dụng và những thiệt
hại, mất mát mà NH phải gánh chịu do người vay vốn hay người sử dụng vốn không trả đúng hạn, không
thực hiện đúng nghĩa vụ cam kết trong hợp đồng TD vì bất kể lý do gì.
HỆ THỐNG RỦI RO
Rủi ro
tín
dụng
Rủi ro
về giá
Rủi ro
tính
thanh
khỏan
Rủi ro
hệ
thống
Rủi ro
đạo đức
5
Theo quyết định 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25/04/2007 của thống đốc ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Phân loại nợ và trích lập dự phòng như sau :
a) Nhóm 1(Nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng thu
hồi đầy đủ cả nợ gốc và lãi đúng hạn; trích lập dự phòng: 0%.
b) Nhóm 2 (Nợ cần chú ý) bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng thu hồi
đầy đủ cả nợ gốc và lãi nhưng có dấu hiệu khách hàng suy giảm khả năng trả nợ; trích lập dự phòng: 5%.
c) Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là không có khả
năng thu hồi nợ gốc và lãi khi đến hạn. Các khoản nợ này được tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng tổn
thất một phần nợ gốc và lãi; trích lập dự phòng : 20%.
d) Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là khả năng tổn thất
cao; trích lập dự phòng : 50%.
đ) Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là không
còn khả năng thu hồi, mất vốn; trích lập dự phòng : 100%.
Rủi ro về giá: nguy cơ bị lỗ do những thay đổi không lường được của giá cả, chẳng hạn thay đổi về lãi
suất hay tỷ giá hối đoái . Rủi ro về lãi suất có tầm quan trọng đặc biệt trong hoạt động ngân hàng.
Rủi ro về tính thanh khoản: nguy cơ không bán được tài sản nhanh chóng, trừ khi chịu chiết khấu lớn.
Rủi ro hệ thống : nguy cơ một hay một số khách hàng lớn không trả được nợ gây nguy hiểm cho toàn
bộ hệ thống tài chính . Rủi ro thanh toán hay rủi ro hệ thống thường liên quan tới các khoản thanh toán liên
ngân hàng có gía trị lớn và việc mất khả năng thanh toán của một ngân hàng thường lây lan ra toàn bộ hệ
thống theo con đường này.
Rủi ro đạo đức: là một khía cạnh quan trọng, rủi ro đạo đức xảy ra sau khi thực hiện giao dịch vốn.
Những hợp đồng vay nợ thường có đặc điểm là mức lãi suất cố định. Vì vậy khi vay được vốn các doanh
nghiệp lại có khuynh hướng sử dụng số vốn vay đầu tư vào những dự án có lãi suất cao hơn nhưng lại có
nhiều rủi ro tiềm năng. Trong khi đó, người cho vay không có đủ khả năng để giám sát những hoạt động của
người đi vay sau khi đã cung cấp vốn để đảm bảo rằng người đi vay không dùng số tiền vay đầu tư vào
những dự án có nhiều rủi ro.
1.2.3 Tính vững mạnh trong hoạt động của ngân hàng
Vững mạnh của ngân hàng một mặt thể hiện ở quy mô vốn của ngân hàng, từ đó quy định quy mô tài
sản có và tài sản nợ của một ngân hàng. Mặt khác phải thể hiện được tính hiệu quả quá trình kinh doanh,
đầu tư của ngân hàng đó thông qua các chỉ tiêu tài chính đặc biệt là các chỉ tiêu về lợi nhuận. .
Quy mô vốn ngân hàng phụ thuộc vào quy mô của nền kinh tế và chiến lược phát triển hệ thống ngân
hàng của mỗi quốc gia. Nhìn chung, ngân hàng ở các nước có quy mô nhỏ, chủ yếu hoạt động trong nước,
hoạt động quốc tế còn hạn chế. Nhiều nước đang phát triển chủ trương phát triển mạnh các ngân hàng nhỏ
và vừa phù hợp với quy mô của nền kinh tế, với trình độ quản lý còn hạn chế đồng thời tránh những đổ vỡ
6
quá lớn, tạo điều kiện cho các khách hàng tiếp cận dễ dàng hơn. Tuy nhiên, trước xu thế quốc tế hoá, toàn
cầu hóa, sự xâm nhập của các ngân hàng khổng lồ nước ngoài đang đe dọa khả năng cạnh tranh thậm chí
khả năng tồn tại của các ngân hàng nhỏ bé nội địa, Chính phủ các nước thường quy định mức vốn tối thiểu
của ngân hàng đồng thời khuyến khích các ngân hàng tăng vốn cổ phần thông qua phát hành cổ phiếu, sáp
nhập hợp nhất các ngân hàng với nhau .
Quy mô vốn tối thiểu = Quy định của Chính phủ
Tóm lại, muốn đảm bảo an ninh tài chính của các ngân hàng cần theo dõi sát sao các chỉ tiêu phản ánh
mức độ an ninh tài chính của từng ngân hàng và toàn bộ hệ thống ngân hàng, có những ứng phó kịp thời đối
với những thay đổi đe dọa làm mất an ninh tài chính nhằm giữ cho trạng thái tài chính của ngân hàng (hệ
thống ngân hàng) luôn luôn ổn định, an toàn và vững mạnh, ngăn ngừa có hiệu quả khủng hoảng tài chính –
tiền tệ.
Khi xây dựng chỉ tiêu đánh giá an ninh tài chính phải đảm bảo các yêu cầu mang tính chất: hệ thống,
toàn diện, điển hình, khả thi, đặc thù, phát triển.
PHẦN 2: ĐÁNH GIÁ VÀ NHẬN ĐỊNH VỀ
AN NINH TÀI CHÍNH TRONG HOẠT ĐỘNG
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
2.1 THỊ TRƯỜNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM SAU KHI GIA NHẬP WTO:
Từ tháng 7/2006 Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới
WTO, một sân chơi đầy cơ hội và thách thức đặt ra cho nền kinh tế Việt Nam. Bên cạnh đó, dòng vốn đầu
tư gián tiếp từ nước ngoài tràn vào Việt Nam một cách ồ ạt thông qua thị trường chứng khoán, lạm phát tăng
đáng kể trong thời gian gần đây tới mức sấp sĩ hai con số, tỷ số giá tiêu dùng đã tăng đến mức kỷ lục 12.3%,
tỷ giá hối đối tương đối ổn định, chỉ có tỷ giá USD/VND là giảm giá đáng kể trong thời gian gần đây từ cuối
năm 2007 đến thời điểm này, giá vàng, giá xăng dầu tăng đột biến; giá bất động sản biến động liên tục,
chính sách , chỉ thị của Nhà nước liên tục được ban hành để điều chỉnh và hướng dẫn…Tất cả những điều
đó đã làm cho nền kinh tế Việt Nam có sự bất ổn .
Một năm đã đi qua, từ khi Việt Nam là thành viên WTO, bên cạnh những thuận lợi và thời cơ, vẫn còn
nhiều khó khăn thách thức mà Việt Nam phải vượt qua để có thể sánh tầm với thế giới. Đối với hệ thống
ngân hàng của nước ta, mặc dù trong những năm qua đã có nhiều thành tựu quan trọng trong đổi mới, đã
trưởng thành và lớn mạnh hơn nhiều so với trước đây, nhưng so với thế giới, với đòi hỏi của thời đại và của
sự phát triển kinh tế đất nước thì vẫn còn nhỏ bé, khiêm tốn và bất cập.
Tình hình chung về sự phát triển của NHTM Việt Nam hậu WTO.
Năm 2007, cùng với sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế, ngành Ngân hàng cũng đã đạt được những
kết quả khả quan và có những đóng góp quan trọng vào phát triển và lớn mạnh của nền kinh tế. Tất cả các
7
khối tổ chức tín dụng đều có sự phát triển bền vững và hiệu quả, kinh doanh có lãi. Trong đó, khối
NHTMCP có tốc độ phát triển nhanh nhất. Vốn điều lệ, tổng tài sản, tổng nguồn vốn huy động, tổng dư nợ
cho vay và đầu tư, lợi nhuận trước thuế, mạng lưới giao dịch,… của khối này có tốc độ tăng bình quân
khoảng 70% so với năm trước, nhiều chỉ tiêu tăng gấp 2 lần. Nhiều NHTMCP mới chuyển từ nông thôn lên
thành thị có tốc độ tăng quy mô kinh doanh từ 200% đến hơn 700%, hay cao hơn nữa.
Khối NHTMNN có tốc độ tăng trưởng bình quân 20%; riêng Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam có tốc
độ tăng dư nợ cho vay và đầu tư lên tới trên 39% so với năm trước và lợi nhuận trước thuế đạt khoảng trên
3.000 tỷ đồng, cao nhất trong khối. Tuy nhiên, quy mô kinh doanh lớn nhất vẫn thuộc về NHNo&PTNT
Việt Nam, nguồn vốn huy động đạt 295.000 tỷ đồng, tăng 32% so với năm trước, dư nợ cho vay đạt 242.000
tỷ đồng, ước tính chiếm khoảng trên 1/4 thị phần cho vay của toàn bộ hệ thống NHTM Việt Nam.
Khối chi nhánh ngân hàng nước ngoài có kết quả kinh doanh cũng ấn tượng. Tính đến hết năm 2007, ở
nước ta có 28 ngân hàng nước ngoài với 39 chi nhánh, 5 ngân hàng liên doanh với nước ngoài, 4 Công ty
liên doanh cho thuê tài chính và 2 Công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài. Tổng tài sản của các
chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng có vốn đầu tư nước ngoài lên tới trên 215.000 tỷ đồng,
tổng thu nhập trước thuế của khối ngân hàng và tổ chức tín dụng có vốn đầu tư nước ngoài đạt trên 2.400 tỷ
đồng. Riêng hai chi nhánh của Tập đoàn Ngân hàng HSBC ở Việt Nam thời điểm đầu năm 2007 có 300 cán
bộ và nhân viên thì cuối năm 2007 đã tăng lên con số 800 người.
Khối ngân hàng liên doanh, quỹ tín dụng, công ty tài chính và công ty cho thuê tài chính có tốc độ tăng
trưởng khiêm tốn hơn.
Ngân hàng Chính sách xã hội đa dạng hoá hơn các chương trình, mục tiêu cho vay vốn. Đặc biệt, là triển
khai có hiệu quả, quy mô lớn chương trình cho học sinh, sinh viên vay vốn học tập.
Kết quả nói trên là tổng hợp của nhiều nguyên nhân. Đó là, môi trường cạnh tranh hoạt động ngân hàng
bình đẳng hơn. Các khối ngân hàng, đặc biệt là khối NHTMCP thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp nâng cao
năng lực cạnh tranh: nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, hiện đại hoá công nghệ, đa dạng hoá dịch vụ và
nâng cao chất lượng dịch vụ, đổi mới quản trị điều hành, đẩy mạnh quảng bá thương hiệu và marketing, mở
rộng mạng lưới, đổi mới phong cách giao dịch, năng động và phân quyền tự chủ trong kinh doanh rõ ràng
hơn.
2.2. THỰC TRẠNG VÀ ĐÁNH GIÁ AN NINH TÀI CHÍNH CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT
NAM HIỆN NAY :
2.2.1. Mức độ ổn định của hệ thống ngân hàng :
2.2.1.1 Ổn định về huy động vốn :
Những năm gần đây môi trường kinh tế cùng với nền chính trị ổn định, nền kinh tế phát triển một cách
mạnh mẽ nhưng vững chắc và có chuyển hướng theo chiều sâu. Thu nhập người dân Việt Nam ngày một
tăng lên, đời sống có chiều hướng được nâng cao, cộng với sự biến động của thị trường hiện nay quá mạnh
mẽ làm cho nguồn tiền của nhà đầu tư có nhiều rủi ro khi đem đi đầu tư trong khi lãi suất huy động vốn của
8
hệ thống Ngân hàng đang tăng cao ( có nơi lên đến 18.7%/ năm) kích thích tỷ lệ tiết kiệm có xu hướng gia
tăng. Đặc biệt quan trọng là thói quen của người dân tích trữ tài sản dưới dạng tiền mặt, vàng , ngoại tệ …
đã có những thay đổi lớn. Thay vào đó mọi người đã gửi tiền vào ngân hàng khi niềm tin vào hệ thống ngân
hàng đã được củng cố . Nhìn chung trong những năm qua tốc độ huy động vốn của các NHTM gia tăng
đáng kể , đáp ứng phần lớn nhu cầu của nền kinh tế.
Khi đánh giá thực trạng hoạt động của hệ thống NHTM Việt Nam trong 7 năm ( từ năm 2001-2007),
trước tiên phải kể đến những thà