Năm 1881, lần đầu tiên Arnold phát hiện sự có mặt của enzyme trong sữa bò. Enzyme đầu tiên được tìm thấy trong sữa là lactoperoxydase. Đến nay hàng trăm nghiên cứu công bố hơn 60 enzyme khác nhau đã tìm thấy trong sữa. Chúng do tuyến vú tiết ra hoặc do các VSV trong sữa tổng hợp nên. Enzyme là những chất xúc tác phản ứng, có bản chất là protein.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 23 trang
23 trang | 
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1833 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Ảnh hưởng của áp suất cao (HPP) đến hệ enzyme trong sữa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 1 
1. Giới thiệu enzyme trong sữa: 
Năm 1881, lần đầu tiên Arnold phát hiện sự có mặt của enzyme trong sữa bò. 
Enzyme đầu tiên được tìm thấy trong sữa là lactoperoxydase. Đến nay hàng trăm 
nghiên cứu công bố hơn 60 enzyme khác nhau đã tìm thấy trong sữa. Chúng do tuyến 
vú tiết ra hoặc do các VSV trong sữa tổng hợp nên. Enzyme là những chất xúc tác 
phản ứng, có bản chất là protein. Sự có mặt của các enzyme trong sữa là nguyên nhân 
gây biến đổi thành phần hoá học của sữa trong quá trình bảo quản, từ đó làm giảm 
chất lượng hoặc làm hư hỏng sữa. Tuy nhiên, một số enzyme có trong sữa như 
lactoperoxydase, lysozyme có vai trò kháng khuẩn. Chúng tham gia vào việc ổn định 
chất lượng sữa tươi trong quá trinh bảo quản trước khi chế biến. 
Người ta sử dụng phương pháp định tính thông qua việc phát hiện sự có mặt 
một vài enzyme trong sữa và xem đó là một chỉ tiêu để đánh giá chất lượng sữa. Dưới 
đây , xin giới thiệu khái quát về một số enzyme quan trọng trong sữa bò. 
1.1.Lactoperoxydase: 
Enzyme này luôn có trong sữa động vật, nó do tuyến vú tiết ra. Tuy nhiên, vi 
khuẩn leucocyte cũng có thể tổng hợp được lactoperoxydase. Enzyme xúc tác phản ứng 
chuyển hoá oxy từ hydrogen peroxide (H2O2) đến các chất oxy hoá khác. Đây là một 
metallo enzyme, nó có chứa sắt (Fe) trong phân tử. Phân tử lượng enzyme là 82.000Da. 
Enzyme có pH tối thích là 6.8. Theo Luquet (1985), hàm lượng trung bình 
lactoperoxydase trong sữa là 30mg/l. Trong sữa non, hàm lượng enzyme thường cao 
hơn. Khi đun nóng sữa đến 80oC trong vài giây, lactoperoxydase sẽ bị vô hoạt. 
1.2.Lipase: 
Người ta tìm thấy một hệ enzyme lipase trong sữa bò. Chúng xúc tác thuỷ phân 
liên kết ester trong triglyceride và giải phóng ra các acid béo tự do. Trong sữa, một số 
lipase hấp phụ lên màng bao xung quanh các hạt cầu béo, một số khác được tìm thấy 
trong plasma, chúng liên kết với các micelle của casein. 
Enzyme lipase quan trọng nhất trong sữa được kí hiệu là mLPL (milk Lipo 
Protein Lipase), là một glycoprotein gồm hai tiểu phần. Phân tử lượng của tiểu phần là 
50.000Da. Enzyme có giá trị pH tối ưu là 8,9. Hàm lượng mLPL trong sữa chỉ khoảng 
1÷2mg/l , nó chỉ xúc tác thuỷ phân liên kết ester trong cơ chất glycerid ở dạng nhũ 
tương tại bề mặt tiếp xúc pha giữa chất béo và nước. Các enzyme lipase khác xúc tác 
thuỷ phân các ester hoà tan và không nhũ hoá. 
Sự thuỷ phân triglyceride làm tích luỹ các acid béo tự do trong sữa. Quá trình 
phân giải tiếp các acid béo này làm cho sữa có mùi ôi khét và mùi kim loại. 
1.3.Phosphatase: 
Các phosphatase tìm thấy trong sữa chủ yếu thuộc về nhóm 
phosphomonoesterase. Chúng xúc tác phản ứng thuỷ phân liên kết ester giữa acid 
phosphoric và glycerin. Một số nghiên cứu đã tìm thấy sự có mặt của ATPase và 
pyrophosphatase trong màng protein bao xung quanh các hạt cầu béo. Có 2 dạng 
phosphomonoesterase trong sữa: phophatase kiềm và phosphotase acid. 
 2 
1.3.1.Phosphatase kiềm: Enzyme có pH tối thích là 9,6. Enzyme này được 
hoạt hoá bởi Mg2+, Mn2+ và bị vô hoạt bởi Zn2+, Be2+, I2. Có khoảng 30÷40% lượng 
enzyme được phân bố trong các hạt cầu béo, phần còn lại ở dưới dạng lipoprotein. 
Một trong những tính chất đặc trưng của phosphatase kiềm là khả năng tái 
hoạt hoá của nó. Sau quá trình thanh trùng, nếu ta kiểm tra mẫu sữa thì không phát 
hiện thấy hoạt tính phosphatase kiềm. Tuy nhiên, sau thời gian bảo quản, trong sữa sẽ 
xuất hiện trở lại hoạt tính của enzyme này. Người ta gọi đây là hiện tượng tái hoạt hoá 
của phosphatase kiềm và đến nay vẫn chưa tìm được lời giải thích rõ ràng về hiện 
tượng này. Để tránh hiện tượng tái hoạt hoá cùa phosphatase kiềm, ta cần làm lạnh 
nhanh sữa sau quá trình thanh trùng và bảo quản sữa ở nhiệt độ thấp (2oC). Một 
nghiên cứu cho rằng, sự có mặt của ion Ca2+ và Mg2+ thúc đẩy quá trình tái hoạt hoá 
enzyme, và ngược lại, các ion cobalt, đồng và niken lại kiềm hãm hiện tượng này. 
1.3.2.Phosphatase acid: enzyme này có pH tối thích là 4,7 và là enzyme bền 
nhiệt nhất trong sữa đến 96oC và giữ ở nhiệt độ này trong thời gian tối thiểu là 5 phút 
. Phosphatase acid bị vô hoạt bởi NaF. 
Trong suốt chu kì tiết sữa ở bò, hoạt tính phosphatase acid trong sữa khá ổn 
định. Ngược lại, hoạt tính phosphatase kiềm tăng dần vào khoảng cuối chu kì tiết sữa. 
Để kiểm tra sữa có hoạt tính phosphatase hay không , người ta bổ sung ester 
của acid phosphoric và hoá chất đặc hiệu vào sữa. Nếu có enzyme, ester sẽ bị thuỷ 
phân, giải phóng ra rượi tự do. Sản phẩm này làm chuyển màu hoá chất đặc hiệu trên. 
1.4.Lysozyme: 
Đến nay, người ta đã trích ly và tinh sạch được lysozyme từ sữa. Đó là một 
glucosaminidase (hay muramidase) có phân tử lượng khoảng 14.000÷18.000Da và là 
một enzyme bền nhiệt . 
Lysozyme xúc tác phản ứng thuỷ phân liên kết β giữa acid muramic và 
glucosamine của mucopolysaccharide trong màng tế bào vi khuẩn, từ đó gây phân 
huỷ tế bào. Lysozyme trong sữa bò hoạt động ở pH tối thích là 7,9. Hàm lượng 
lysozyme trong sữa bò trung bình là 130µg/l, khoảng 3000 lần thấp hơn trong sữa 
người (400mg/l) . 
1.5.Protease: 
Nhiều nghiên cứu đã tìm thấy trong sữa có hoạt tính enzyme protease. Theo 
Humber và Alais (1979) thì có 2 loại enzyme: protease acid và protease kiềm được 
tiết ra từ tuyến vú . Chúng thường liên kết với casein và cũng bị kết tủa ở pH = 4,6. 
Một số nghiên cứu khác tìm thấy 2 loại enzyme trên có mặt trong màng bao xung 
quanh các hạt cầu béo trong sữa. 
Các enzyme protease xúc tác phản ứng thuỷ phân protein, tạo các sản phẩm 
như proteosepepton, peptid và các acid amin tự do. Có lẽ các κ-casein là ít bị tấn công 
nhất. Sản phẩm thuỷ phân là γ-casein và các phân đoạn proteose-pepton có phân tử 
lượng khác nhau. Các protease acid trong sữa có pH tối thích là 4,0 ,còn protease 
kiềm hoạt động mạnh nhất ở pH = 7,5÷8,0. Chúng bị vô hoạt hoàn toàn ở 80oC sau 10 
phút. 
 3 
1.6.Catalase: 
Enzyme được tìm thấy trong protein màng bao xung quanh các hạt cầu béo. 
Trong sản xuất phomai, khi các casein bị đông tụ, một số phân tử catalase cũng bị kết 
tủa theo. Enzyme này xúc tác phản ứng phân huỷ hydrogen peroxide thành nước và oxy 
tự do. Sữa từ những con vật khoẻ mạnh có lượng catalase rất thấp. Sữa nhiễm vi sinh 
vật thường có hoạt tính catalase rất cao.Catalase là một metallo enzyme (có chứa Fe 
trong phân tử).Phân tử lượng của enzyme là 240.000Da. Enzyme có pH tối thích là 6,8 
÷ 7,0. Vào cuối chu kì tiết sữa của con vật, hoạt tính enzyme trong sữa thường rất cao. 
Catalase bị vô hoạt ở 75oC sau thời gian 1 phút hoặc vô hoạt ở 65÷68oC sau 30 phút. 
2. Khảo sát ảnh hưởng của áp suất cao đến enzyme trong sữa: 
2.1.Lactoperoxydase: 
2.1.1.Sự thay đổi hoạt tính enzyme: 
Hoạt tính enzyme sau khi qua xử lý áp suất tại 73oC ở các áp suất khác nhau 
trong sữa tươi và trong whey loãng được trình bày trong hình 1. Từ đồ thị có thể nhân 
thấy là tại 73oC, sự vô hoạt lactoperoxidase tại áp suất khí quyển xảy ra rất nhanh, nếu 
sử dụng áp suất từ 150-700 MPa tại nhiệt độ này có thể ức chế hoàn toàn sự vô hoạt 
lactoperoxidase của nhiệt độ trong sữa. Như trên hình 1a, một tác động tương phản 
giữa áp suất cao và nhiệt độ đã được thể hiện. Tương tự, sự tác động tương phản này 
cũng xuất hiện trong nước whey. Tuy nhiên,trong nước whey, áp suất bằng hoặc cao 
hơn 700 MPa có thể làm vô hoạt lactoperoxidase nhưng tốc độ vô hoạt nhỏ hơn so với 
trường hợp tại áp suất khí quyển, nhiệt độ 73oC. Thậm chí, tại áp suất 150 MPa, hoạt 
tính của lactoperoxidase trong whey tăng nhưng không đáng kể. Điều này chứng tỏ sự 
ổn định áp suất của lactoperoxidase trong sữa cao hơn trong nước whey. 
 4 
Hình 1: Hoạt tính enzyme sau khi xử lý nhiệt độ 73oC tại các áp suất khác nhau 
(a) sữa tươi: 0.1(O), 150( ), 400( ), 700( ) và 750(x) MPa 
(b) whey loãng: 0.1(O), 150( ), 400( ), 700( ) và 750(x) MPa 
 5 
Hình 1 chỉ mô tả áp suất cao tại một nhiệt độ nhất định (73oC). Để hiểu rõ hơn, 
ta sẽ khảo sát thêm về sự ảnh hưởng ở các nhiệt độ khác nhau. Sự thay đổi hoạt tính 
enzyme qua xử lý áp suất cao (700MPa) tại các nhiệt độ khác nhau được trình bày 
trong hình 2. Ở áp suất 700 MPa, sự vô hoạt lactoperoxidase là không đáng kể, thậm 
chí ngay cả khi nhiệt độ là 65oC trong 140 phút (hình a). Trong nước whey, sự vô 
hoạt lactoperoxidase tại 65oC, 700 MPa và trong 140 phút cũng nhỏ. Nhìn chung, 
hoạt tính enzyme tại 700MPa ở các nhiệt độ khác nhau dao động không nhiều và 
không tuân theo quy luật nhất định nào cả. Sự ổn định áp suất của lactoperoxidase 
trong sữa cao hơn trong nước whey. 
 6 
Hình 2: Hoạt tính enzyme sau khi xử lý áp suất 700MPa tại các nhiệt độ khác nhau 
(a) sữa tươi: 15(O), 25( ), 35( ), 45( ) và 65(x) oC 
(b) whey loãng: 10(O), 40( ), 65( ) oC 
 7 
 Nhìn chung, ở nhiệt độ phòng, lactoperoxidase có khả năng chịu được áp suất 
rất cao. Các kết quả tương tự đã đạt được bởi Rademacher et al. (1998b), ông cũng 
báo cáo rằng hoạt tính lactoperoxidase còn lại hơn 50% sau khi xử lý tại áp suất 800 
MPa, nhiệt độ 25-60oC trong 4h. Còn Seyderhelm et al. (1996) đã phát hiện rằng nếu 
xử lý sữa tại áp suất 800 MPa, nhiệt độ 25-40oC trong 30 phút thì hoạt tính của nó 
giảm 20%. Trong dung dịch Tris tại pH 7, độ giảm là 70% trong điều kiện xử lý 
tương tự. 
2.1.2.Giải thích: 
 Giải thích cho sự ổn định áp suất cao của lactoperoxidase, các nhà khoa học 
cho rằng là do cấu trúc bậc cao của nó, chúng được ổn định bởi 8 liên kết disulfide và 
1 ion calcium. 
 Ngoài ra, Điều đáng chú ý nhất là tác động tương phản giữa áp suất và nhiệt 
độ cao. Ví dụ như tại 73oC ở áp suất khí quyển, sự vô hoạt enzyme xảy ra rất nhanh 
nhưng ở áp suất 700 MPa thì sự vô hoạt này bị ức chế hoàn toàn. Thực tế cho thấy áp 
suất làm chậm tốc độ vô hoạt trong suốt thời gian xử lý bằng nhiệt độ. Giải thích cho 
điều này, Suzuki (1960) Heremans (1982) cho rằng sự gia tăng áp suất tăng cường 
mức độ tổ chức của các phân tử protein. Còn tại nhiệt độ cao, sự hỗn loạn của phân tử 
protein hoặc sự duỗi ra của các chuỗi polypeptide xảy ra thông qua sự phá vỡ các liên 
kết bằng nhiệt. Sự hỗn loạn này được loại bỏ bởi áp suất. Cụ thể hơn ở đây, sự ổn 
định áp suất của enzyme chống lại sự biến tính hoặc vô hoạt bằng nhiệt xảy ra qua 
việc làm mất tác dụng giữa áp suất và nhiệt độ lên sự tạo thành hoặc phá vỡ các tương 
tác nội phân tử hoặc tương tác với dung môi. Ví dụ như: Sự hydrat hóa các nhóm 
chức của protein được gia tăng bởi áp suất nhưng tại nhiệt độ cao thì giảm. Các tương 
tác kị nước mạnh lên ở nhiệt độ trên 70oC nhưng yếu đi bởi áp suất là do kết quả của 
sự bộc lộ các amino acid không phân cực còn lại và sự tái tổ chức cấu trúc được bao 
bọc bởi nước. 
2.2.Lipase: 
2.2.1.Sự thay đổi hoạt tính enzyme: 
Hoạt tính của lipase ở các áp suất khác nhau được trình bày trong hình 3. Từ 
biểu đồ trên ta thấy tất cả các áp suất sử dụng đều làm gia tăng hoạt tính của lipase. 
Hoạt tính của lipase (tại thời điểm thời gian bằng 0) không bị ảnh hưởng tại 300 MPa 
trong khi lại gia tăng tại 350 MPa (133 %) và tại 400 MPa (100 %). Rõ ràng, sự thay 
đổi hoạt tính enzyme ở đây không theo quy luật nào cả. Hoạt tính của enzyme tại 300 
MPa tiếp tục gia tăng theo thời gian (25-80 phút). Tại 350 và 400 MPa, nhìn chung hoạt 
tính enzyme dao động trong khoảng từ 150-240 % so với hoạt tính ban đầu theo thời 
gian (60-80 phút). Từ các dữ liệu này, việc mô tả ảnh hưởng của áp suất theo các kiểu 
động học là không thể. Rõ ràng trong phạm vi xử lý này, lipase là một enzyme có hoạt 
tính còn lại rất cao. Không có nhiều tài liệu thông tin về ảnh hưởng của áp suất cao lên 
hoạt tính enzyme này. Theo kết quả nghiên cứu của Seyderhelm et al. (1996) thì hoạt 
tính của lipase có thể giảm 40% trong dung dịch Tris tại pH 7, áp suất 600 MPa trong 
10 phút ở nhiệt độ phòng. Nhiều nhà khoa học cũng khẳng định rằng khi tăng áp suất 
cao hơn nữa sẽ làm giảm thời gian vô hoạt enzyme. 
 8 
Hình 3: Ảnh hưởng của áp suất cao lên enzyme lipase 
2.2.2.Giải thích: 
Sự gia tăng hoạt tính của lipase ở áp suất cao vẫn chưa được hiểu rõ một cách 
cặn kẽ. Hiện tượng này có thể là do: 
-Sự thay đổi cấu tạo trong một giới hạn nào đó. 
 -Sự giải phóng của các enzyme hoạt động từ phức enzyme-micelle 
 -Sự giải phóng của các vị trí hoạt động trong enzyme qua sự thủy phân protein 
có giới hạn. 
 Ngược lại, khi áp suất quá cao, sự thay đổi cấu trúc enzyme xảy ra mãnh liệt 
khiến hoạt tính enzyme giảm dần. 
2.3.Phosphatase: 
2.3.1.Sự thay đổi hoạt tính enzyme: 
Enzyme được khảo sát ở đây là phosphatase kiềm. Hoạt tính enzyme này tại 
các áp suất khác nhau (từ 500-800MPa) được biểu diễn trên hình 4 với các bậc phản 
ứng khác nhau n= 0-2 và ở nhiệt độ 5oC. Hình trên cho thấy hoạt tính enzyme tương 
đối Ct/Co đã giảm khi tăng thời gian và áp suất. Tại các áp suất cao hơn, hoạt tính 
giảm nhiều hơn và nhanh hơn, để giảm hoạt tính triệt để hơn ví dụ như giảm 99% thì 
áp suất phải từ 650 MPa trở lên. 
 9 
Hình 4: Ảnh hưởng của áp suất cao lên enzyme phosphatase kiềm ở 5oC 
2.3.2.Giải thích: 
Hiện tại, cơ chế vô hoạt enzyme này vẫn chưa được hiểu rõ một cách cặn kẽ. 
Theo Kouassi và cộng sự (2007), nguyên nhân có thể là do sự thay đổi cấu trúc phân 
tử của enzyme mà cụ thể ở đây là cấu trúc bậc 2. Khi áp suất tăng cao, cấu trúc xoắn 
 giảm trong khi cấu trúc gấp nếp tăng, điều này cho thấy có thể có mối quan hệ 
giữa cấu trúc xoắn đến hoạt tính enzyme. Hay nói cách khác, cấu trúc bậc 2 có thể 
đóng vai trò quyết định đến hoạt tính enzyme. 
 10 
2.4.Lysozyme: 
2.4.1.Sự thay đổi hoạt tính enzyme: 
Ở đây, ta sẽ quan sát ở 2 môi trường khác nhau để đánh giá ảnh hưởng của áp 
suất cao lên lysozyme. 
 Trong canh trường Brain Heart Infusion: 
Sự ức chế L. monocytogenes trong canh trường (Brain Heart Infusion) sử dụng 
đồng hóa áp suất cao, nhiệt độ và lysozyme được trình bày trong bảng sau: 
Bảng 1: Ảnh hưởng của đồng hóa áp suất cao (100MPa) và nhiệt độ lên hoạt tính ức 
chế vi sinh vật (L. monocytogenes) của lysozyme 
 Cell load (log cfu mL-1) 
Immediately 
after 
inoculation 
Time of incubation 
24h(37oC) 48h(37oC) 48h(6oC) 96h(6oC) 
Samples without Ly 
Untreated (UT) cells 7.3 0.2 8.1 0.2 7.8 0.3 7.1 0.2 8.6 0.2 
HPH BHI 
7.3 0.1 8.1 0.2 6.0 0.3 7.5 0.4 8.7 0.1 
Samples with Ly 
UT cells + UT Ly 6.7 0.2 <2 <2 3.4 0.3 2.1 0.4 
UT cells + HT1a Ly 5.6 0.2 <2 <2 3.1 0.1 2.3 0.3 
UT cells + HT2b Ly 5.8 0.2 <2 <2 3.2 0.3 2.7 0.4 
UT cells + HT3c Ly 6.3 0.1 <2 <2 3.5 0.2 2.8 0.2 
UT cells + HPH Ly 5.0 0.2 <2 <2 3.3 0.3 2.0 0.3 
a Heat treatment at 70oC for 30s. 
b Heat treatment at 70oC for 5min. 
c Heat treatment at 100oC for 5min. 
Từ bảng trên, tất cả các mẫu có bổ sung lysozyme đều cho thấy khả năng ức 
chế vi sinh vật L. monocytogenes. Sự hiện diện của lysozyme qua đồng hóa áp suất 
cao đã làm cho tế bào vi sinh vật giảm khoảng 2 log(cfu/ml). Cường độ phá hủy thành 
tế bào và giải phóng các tế bào chất trong tế bào của mẫu có lysozyme qua đồng hóa 
áp suất cao và mẫu không có lysozyme được biểu diễn trong hình 5. 
 11 
Hình 5: Tế bào L. monocytogenes trong canh trường trước và sau khi bổ sung 
lysozyme qua xử lý áp suất cao 
 Sự khác nhau của các điều kiện xử lý nhiệt độ tại 70oC trong 30s, 70oC trong 5 
phút và 100oC trong 5 phút cũng có thể làm gia tăng hoạt tính ức chế vi sinh vật của 
lysozyme. Trong thực tế, ngay sau khi nuôi cấy thì độ giảm lần lượt là 1,7; 1,5; và 1 
log(cfu/ml) tương ứng với các nhiệt độ là 70oC trong 30s, 70oC trong 5 phút và 100oC 
trong 5 phút. Cuối cùng so sánh với các mẫu không có enzyme thì mẫu có enzyme có 
khả năng vô hoạt cao hơn một chút khi có độ giảm là 0,6 log(cfu/ml). Trong suốt thời 
gian nuôi cấy tại 6oC, sự khác nhau về khả năng ức chế vi sinh vật trong các điều kiện 
thí nghiệm được xét là không đáng kể. Thực tế, tất cả các mẫu có lysozyme sau khi 
nuôi cấy ở 6oC trong 96h thì lượng tế bào còn lại dao động trong khoảng 2-2,8 
log(cfu/ml). Tuy nhiên, lượng tế bào thấp nhất được ghi nhận ở mẫu có lysozyme qua 
đồng hóa áp suất cao. Khi nuôi cấy ở 37oC trong 24h và 48h, không phát hiện được sự 
 12 
khác nhau giữa các mẫu có lysozyme vì tất cả đều có lượng vi sinh vật còn lại nằm 
dưới ngưỡng phát hiện. 
 Trong sữa: 
Hình 6 mô tả sự vô hoạt tế bào trong sữa bò hoặc sữa cừu tương ứng với các 
phương pháp xử lý lysozyme khác nhau tại đồng hóa áp suất 100MPa hoặc 70oC 
trong 30s 
Hình 6: Sự ức chế tế bào L. monocytogenes trong sữa bò hoặc sữa cừu tương ứng với 
các phương pháp xử lý lysozyme khác nhau với (a) sữa bò và (b) sữa cừu 
 13 
 Sau 6h, mẫu sữa bò có lysozyme qua đồng hóa áp suất cao có độ giảm tế bào 
là 0,5 log(cfu/ml) khi so sánh với mẫu có lysozyme không qua xử lý. Mặt khác, độ 
chênh lệch về độ giảm tế bào giữa mẫu có enzyme qua đồng hóa áp suất cao và mẫu 
có enzyme qua xử lý nhiệt độ thì thấp hơn. Trong sữa cừu, mẫu có enzyme qua đồng 
hóa áp suất cao có thể làm giảm đáng kể lượng tế bào vi sinh vật. Điển hình là sau 6h 
nuôi cấy tại 37oC, mẫu có enzyme qua đồng hóa áp suất cao có lượng tế bào còn lại là 
5 log(cfu/ml). Ngoài ra, mẫu qua đồng hóa không bổ sung enzyme cũng cho thấy sự 
giảm tế bào vi sinh vật. Tuy nhiên, số tế bào trong sữa cừu có lysozyme qua xử lý áp 
suất cao có dấu hiệu tăng lên khi thời gian từ hơn 6h đến 10h, trong khi đối với sữa bò 
thì vẫn chưa có hiện tương này ứng với khoảng thời gian trên. 
2.4.2.Giải thích: 
Các số liệu ở trên cho thấy đồng hóa áp suất cao là một phương pháp hữu hiệu 
trong việc làm gia tăng hoạt tính ức chế vi sinh vật L. monocytogenes của lysozyme. 
Để giải thích cho điều này, Vannini et al. (2004) cho rằng sự gia tăng hoạt tính ức chế 
vi sinh vật của lysozyme có thể là do sự thay đổi cấu trúc phân tử của chúng. Thực tế, 
hoạt tính của lysozyme dựa trên cấu hình không gian ba chiều của chúng, một sự thay 
đổi nhỏ các vị trí hoạt động có thể làm gia tăng hoặc làm giảm hoạt tính của chúng. 
Mặt khác, Guerzoni et al. (1999) cho rằng sử dụng đồng hóa áp suất cao có thể làm 
bộc lộ các nhóm kị nước của protein, các vùng này gắn trên membrane của vi sinh 
vật, hậu quả là làm xác trộn chức năng của chúng nên làm gia tăng hoạt tính ức chế vi 
sinh vật của lysozyme. Nhưng theo thời gian, vi sinh vật có khả năng kháng lại 
enzyme này nên số lượng tế bào tăng lên. Thời điểm gia tăng phụ thuộc vào môi 
trường sống của chúng. 
2.5.Protease: 
2.5.1.Sự thay đổi hoạt tính enzyme: 
 Hoạt tính plasmin, dẫn xuất của plasminogen và chất hoạt hóa plasminogen 
trong sữa : 
Ảnh hưởng của áp suất cao lên hoạt tính plasmin, dẫn xuất của plasminogen và 
chất hoạt hóa plasminogen được trình bày trong bảng 3: 
 14 
Bảng 2: Ảnh hưởng của áp suất cao tại các nhiệt độ khác nhau lên plasmin 
cộng dẫn xuất của plasminogen (PL) và chất hoạt hóa plasminogen (PA) 
Pressur
e 
(MPa) 
Temper
ature 
(oC) 
Activity (units ml-1) 
PL PA 
Milk 
serum 
Casein Milk 
serum 
Casein 
0 Raw 
milk 
1.66a,b,c 0.49 11.03e 1.90 2.06a,b 0.52 12.48f 2.20 
200 
20 
40 
55 
2.15b,c 0.63 
2.22b,c 0.69 
2.14b,c 0.64 
9.96d,e 1.37 
10.03d,e 1.51 
9.99d,e 1.43 
2.67b 0.74 
2.65b 0.68 
2.71b 0.83 
11.31e,f 1.98 
11.42e,f 2.22 
11.36e,f 2.04 
450 
20 
40 
55 
2.59c 0.96 
1.69a,b,c 0.35 
1.13a 0.25 
8.35c,d 1.29 
5.86b 1.19 
3.85a 0.08 
3.16b 1.12 
2.05a,b 0.28 
1.29a 1.19 
9.58d,e,f 1.93 
6.68b,c 1.80 
4.43a,b 1.44 
650 
20 
40 
55 
2.52c 0.88 
1.52a,b 0.35 
0.98a 0.18 
8.38c,d 1.18 
6.63b,c 1.13 
3.61a 0.75 
2.93b 1.01 
2.11a,b 0.56 
1.33a 0.39 
8.80c,d,e 1.16 
6.81b,c,d 1.70 
3.87a 1.51 
Các số liệu trong bảng cho thấy hoạt tính của plasmin, dẫn xuất của 
plasminogen và chất hoạt hóa plasminogen giảm không đáng kể trong casein và tăng 
trong huyết thanh sữa khi xử lý ở 200 MPa. Nhưng ở 450 va 650 MPa, hoạt tính của 
plasmin, dẫn xuất của plasminogen và chất hoạt hóa plasminogen trong casein giảm 
đáng kể, còn ở huyết thanh sữa thì tăng ở 20oC nhưng lại giảm ở 40 và 55oC. Điều cần 
lưu ý ở đây là khi áp suất 450 và