Ngành nuôi trồng thủy sản của nướ c ta đang ngày càng phát triển mạnh và trở thành một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của quốc gia, ngành không chỉ mang lại nguồn thu ngoại lệ lớn cho đất nước nhờ xuất khẩu mà còn góp phần đáng kể vào công tác xóa đói giảm nghèo, làm thay đổi đời sống và điều kiện kinh tế của cộng đồng dân cư các vùng miền núi và ven biển.
56 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2892 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Ảnh hưởng của mật độ và độ mặn đến thời gian biến thái và tỷ lệ sống của ấu trùng tôm thẻ chân trắng (Penaeus vannamei) ở giai đoạn Zoea và giai đoạn Mysis, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
Ngành nuôi trồng thủy sản của nướ c ta đang ngày càng phát triển mạnh và trở thành một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của quốc gia, ngành không chỉ mang lại nguồn thu ngoại lệ lớn cho đất nước nhờ xuất khẩu mà còn góp phần đáng kể vào công tác xóa đói giảm nghèo, làm thay đổi đời sống và điều kiện kinh tế của cộng đồng dân cư các vùng miền núi và ven biển.
Thời gian gần đây, với lợi nhuận mà nghề nuôi tôm mang lại đã thực sự thúc đẩy nhiều người mạnh dạn đầu tư công nghiệp với quy mô lớn trên đối tượng tôm thẻ chân trắng (Penaeus vannamei). Tuy nhiên một thực tế không mong muốn đó là việc quy hoạch và quản lý không đồng bộ với sự phát triển của nghề nuôi mà chất lượng và sản lượng tôm nuôi không đạt yêu cầu, bên cạnh đó còn xảy ra hiện tượng dịch bệnh và ô nhiễm môi trường. Đồng thời, vấn đề thị trường với những rào cản trong xuất khiến việc tiêu thụ sản phẩm trở nên khó khăn hơn nhiều so với những năm trước. Chính vì vậy, yêu cầu đặt ra cho nghề nuôi tôm nước ta là phải sản xuất được những con giống có chất lượng tốt, chủ động được số lượng đáp ứng nhu cầu của các ao nuôi tôm.
Trong đó, tôm thẻ chân trắng là đối tượng giáp xác hiện nay đang được nuôi rất nhiều nơi ở nước ta và nó đã mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người nuôi tôm, vì vậy mà nguồn giống tôm thẻ đang là vấn đề không chỉ những người sản xuất giống tôm thường xuyên quan tâm, mà người nuôi tôm thương phẩm cũng hết sức quan tâm đến vấn đề này.
Trong sản xuất giống tôm thẻ chân trắng, để tạo ra con giống tốt, đạt tỷ lệ sống cao, hạn chế xảy ra dịch bệnh thì việc nghiên cứu tìm ra mật độ và độ mặn thích hợp để ương ấu trùng là một trong những khâu quan trọng quyết định sự thành bại của sản xuất. Vì vậy tôi đã triển khai đề tài khóa luận: “Ảnh hưởng của mật độ và độ mặn đến thời gian biến thái và tỷ lệ sống của ấu trùng tôm thẻ chân trắng (Penaeus vannamei) ở giai đoạn Zoea và giai đoạn Mysis”
Mục tiêu nghiên cứu:
Xác định được mật độ và độ mặn phù hợp trong quá trình ương nuôi tôm thẻ chân trắng tại công ty cổ phần chăn nuôi C.P Việt Nam-An Hải-Ninh Phước-Ninh Thuận.
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Một số đặc điểm đối tượng nghiên cứu
1.1.1. Hệ thống phân loại
Ngành: Arthropoda
Lớp: Crustacea
Bộ: Decapoda
Họ: Penaeidea
Giống: Penaeus
Loài: Penaeus vannamei (Boone, 1931)
Tên khoa học: Penaeus vannamei.
Tên tiếng Anh: White Leg shrimp.
Tên Việt Nam: Tôm he chân trắng, tôm thẻ chân trắng.
1.1.2. Đặc điểm hình thái
Hình 1.1. Tôm thẻ chân trắng (Penaeus vannamei)
Cấu tạo ngoài tôm chân trắng giống với tôm he Trung Quốc (Penaeus chinensis) và tôm bạc (Penaeus merguiensis)
Tôm có màu lam, trên thân không có đốm vằn, chân bò có màu trắng vàng, các vành chân đuôi có màu đỏ nhạt và xanh.
Vỏ tôm mỏng, có thể nhìn thấy đường ruột rất rỏ. Râu tôm có màu đỏ và dài gấp 1,5 chiều dài thân. Tôm cái có thelycum hở. Cá thể lớn nhất có chiều dài thân đạt tới 23 cm [10].
1.1.3. Đặc điểm phân bố
Tôm he chân trắng phân bố chủ yếu ở khu vực phía Tây Thái Bình Dương và châu Mỹ, từ ven biển Sonora - Mexico đến miền Trung Peru.
Tôm sống ở các vùng biển đáy cát có độ sâu từ 0-72 m, nhiệt độ nước tương đối ổn định: 25-32oC, độ mặn 28-34‰. Tôm he chân trắng có sự thích nghi rất tốt đối với những thay đổi đột ngột của môi trường sống, lên khỏi mặt nước khá lâu vẫn không chết [4].
Một số nghiên cứu cho thấy: Nhu cầu oxy hóa tối thiểu của tôm he chân trắng cỡ 4 cm là 2 mgO2. Tôm lớn có sức chịu đựng tốt hơn tôm nhỏ [4].
Trong tự nhiên, tôm he chân trắng sinh trưởng, thành thục sinh dục, giao vĩ và đẻ trứng ở những vùng biển có độ sâu 70 m với nhiệt độ khoảng 26-28oC, độ mặn khá cao (35‰). Trứng nở ra ấu trùng và vẫn sống ở khu vực này. Ở giai đoạn Post-larvae, chúng bơi vào gần bờ và sinh sống ở đáy những vùng cửa sông cạn. Điều kiện môi trường ở đây khác biệt hơn: thức ăn nhiều hơn, độ mặn thấp hơn, nhiệt độ cao hơn, . . .. Sau một vài tháng tôm ấu niên trưởng thành bơi ngược ra biển và tiếp tục vòng đời [4].
1.1.4. Tập tính sống và tính thích ứng
Tôm he chân trắng thích ứng mạnh với sự thay đổi đột ngột của môi trường sống.
- Trong vùng biển tự nhiên tôm he chân trắng sống ở đáy cát có độ sâu từ 0,5-72 m, nhiệt độ nước ổn định từ 25-32oC, độ mặn từ 28-33‰, pH:7,7-8,3. Tôm trưởng thành phần lớn sống ở ven biển gần bờ, tôm ưa sống ở vùng cửa sông giàu chất dinh dưỡng. Ban ngày tôm vùi mình trong bùn, ban đêm mới mò đi kiếm ăn.
- Về oxy hòa tan: tôm he chân trắng tăng trưởng thích hợp nhất ở nồng độ oxy hòa tan >5 ppm. Ngưỡng an toàn thấp nhất là 2,5-3 ppm. Nếu thấp hơn 1,9 ppm tôm sẽ chết.
- Về độ mặn: cỡ tôm 1-6 cm đang ở độ mặn 20‰ khi chuyển ra ao thì chúng có thể sống ở độ mặn 5-50‰, khoảng thích ứng nhất là 10-32‰
- Về nhiệt độ: Ở tự nhiên chúng ở nhiệt độ nước từ 25-32oC nhưng thích nghi được khi nhiệt độ thay đổi lớn.
1.1.5. Thức ăn và tập tính ăn
Tôm thẻ chân trắng là loài ăn tạp, có thể ăn nhiều loại thức ăn có nguồn gốc từ động thực vật. Trong nuôi thâm canh, có thể sử dụng các loại thức ăn công nghiệp. Tôm he chân trắng có nhu cầu về đạm thấp hơn (20-35%) so với tôm sú (38-40%), hệ số thức ăn (FCR) thấp với khoảng 0,9-1,2 so với tôm sú là 1,5.
Khả năng chuyển hóa thức ăn của của tôm he chân trắng rất cao. Trong điều kiện nuôi thương phẩm bình thường, tỷ lệ cho ăn chỉ cần 5% khối lượng cơ thể của tôm. Tuy nhiên, trong thời kỳ sinh sản, đặc biệt là giữa và cuối giai đoạn phát dục của buồng trứng, nhu cầu về lượng thức ăn hàng ngày của tôm tăng lên 3-5 lần. Mực tươi là loại thức ăn ưa thích của tôm he chân trắng bố mẹ trong khi nuôi vỗ. (The Oceanic Insitue Hawaii,1985, litopenaeus vannamei, boone, 1931)
1.1.6. Tập tính sinh sản
* Mùa vụ sinh sản:
Tùy vào nhiệt độ nước mà mùa vụ sinh sản của tôm cũng thay đổi tùy theo từng khu vực. Ở Bắc Ecuador, tôm he chân trắng sinh sản từ tháng 3 đến tháng 8, tập trung vào tháng 4 và tháng 5. Ở Peru, tôm sinh sản chủ yếu từ tháng 12 đến tháng 4 [4].
* Hoạt động giao vĩ và đẻ trứng:
Tôm he chân trắng là loài có Thelycum hở. Sự giao vĩ chủ yếu xảy ra vào ban đêm. Ban đầu một hoặc nhiều con đực cùng theo đuổi con cái ở phía sau, con đực dùng chủy và râu đẩy nhẹ dưới đuôi con cái. Sau đó tôm đực lật ngửa thân và ôm con cái theo hướng đầu nối đầu, đuôi nối đuôi hoặc xoay 180o và giao vĩ ở tư thế đầu nôi đuôi. Thời gian giao vĩ xảy ra tương đối nhanh (khoảng 3-7 phút) [2].
Tôm cái được gắn túi tinh trước khi đẻ vài giờ hoặc có thể trước đó vài ngày (Lột xác - thành thục - giao vĩ - đẻ trứng). Túi tinh được đính vào Thelycum của con cái, không được bảo vệ chắc chắn nên dễ bị rơi rớt và tôm có thể giao vĩ trở lại [2].
Buồng trứng tôm cái thành thục có màu hồng. Tôm thường đẻ trứng vào ban đêm, từ 21 đến 3 giờ sáng, trứng sau khi đẻ có màu vỏ đậu xanh với đường kính trung bình khoảng 0,22-0,28 mm. Thời gian giữa hai lần đẻ cách nhau khoảng 2-3 ngày và thông thường sau khi đẻ 3-4 lần thì có 1 lần lột vỏ [4].
* Sức sinh sản:
- Sức sinh sản tuyệt đối: tôm mẹ có kích thước khoảng 14 cm có sức sinh sản tuyệt đối khoảng 10-15 vạn trứng [4].
- Sức sinh sản hữu hiệu của tôm he chân trắng dao động trong khoảng 5-15 vạn trứng/tôm mẹ [4].
1.1.7. Đặc điểm các giai đoạn phát triển của ấu trùng tôm thẻ chân trắng
Cũng như các loài khác trong họ tôm he, ấu trùng tôm he chân trắng trải qua nhiều lần lột xác và biến thái hoàn toàn từ ấu trùng Nauplius sang Zoea, Mysis.
Hết giai đoạn ấu trùng sang hậu ấu trùng Post-larvae (PL). Thời gian Post-larvae không được các nhà khoa học định rõ mà chỉ gọi là PL1, PL2, PL3, . . . mỗi giai đoạn như vậy kéo dài một ngày. Sau đó, PL chuyển sang giai đoạn tôm ấu niên và phát triển thành tôm trưởng thành [4].
Bảng 1.1.Các giai đoạn ấu trùng tôm he chân trắng [10].
Giai đoạn
Nauplius
Zoea
Mysis
Số lần biến
6
3
3
Thời gian (ngày)
1,5
5
3
* Giai đoạn Nauplius
Sau khi trứng thụ tinh khoảng 14-16 giờ, nếu điều kiện môi trường và nhiệt độ phù hợp thì trứng sẽ nở thành ấu trùng Nauplius.
Ấu trùng Nauplius của tôm he chân trắng trải qua 6 lần lột xác và có 6 giai đoạn phụ. Ở giai đoạn này chúng bơi lội bằng 3 đôi phần phụ, vận động theo kiểu zic zắc, không định hướng và không liên tục. Chúng chưa ăn thức ăn ngoài mà dinh dưỡng bằng noãn hoàng dự trữ.
* Giai đoạn Zoea
Sau khi kết thúc giai đoạn Nauplius, ấu trùng chuyển sang giai đoạn Zoea. Ấu trùng Zoea bơi liên tục trong nước và bắt đầu ăn thức ăn ngoài. Thức ăn trong giai đoạn này chủ yếu là các loài tảo, đặc biệt là tảo khuê (Chaetoceros sp, Skeletonema costatum, . . .). Giai đoạn Zoea kéo dài khoảng 5 ngày và được chia làm 3 giai đoạn phụ là Z1, Z2, Z3 [4].
* Giai đoạn Mysis
Hết giai đoạn Zoea, ấu trùng biến thái thành Mysis, Mysis ít bị lôi cuốn bởi ánh sáng như các thời kỳ Nauplius và Zoea. Ấu trùng Zoea có khuynh hướng bơi gần mặt nước và phân bố nhiều ở tầng mặt, còn Mysis thì phân bố nhiều ở tầng giữa và tầng đáy, có đặc tính treo mình trong nước, chúc đầu xuống dưới, đuôi hướng lên trên và bơi lội theo kiểu búng ngược.
Bảng 1.2. Đặc điểm phân biệt các giai đoạn phụ ấu trùng Zoea [10].
Đặc điểm
Zoea 1
Zoea 2
Zoea 3
Chủy đầu
Không
Có
Có
Cuống mắt
Không
Có
Có
Mầm chân đuôi
Không
Không
Có
Trong khi ấu trùng Zoea chỉ ăn thực vật phù du thì Mysis ăn cả thực vật phù du lẫn động vật phù du. Trong lúc bơi ngược đầu, Mysis bắt mồi chủ động bằng cách dùng phần phụ ngực (5 cặp chân bò) khuấy đảo liên tục để tạo thành dòng chảy đẩy khuê tảo và động vật phù du vào miệng. Giai đoạn Mysis 1 và Mysis 2 vẫn có khả năng ăn lọc, đến Mysis 3 thì ấu trùng có thể ăn được Artemia “bung dù”.
Giai đoạn Mysis cũng gồm 3 giai đoạn phụ và kéo dài khoảng 3 ngày, sau đó ấu trùng Mysis biến thái thành hậu ấu trùng Post-larvae.
* Giai đoạn Post-larvae (PL)
Đến giai đoạn PL thì tôm có thể bơi thẳng tới phía trước được, cơ thể đã có đầy đủ các bộ phận. Post-larvae có hình dạng gần giống như hình dạng của tôm trưởng thành nhưng chưa hoàn thiện sắc tố [4].
1.2. Tình hình nghiên cứu và sản xuất tôm giống tôm thẻ chân trắng trên thế giới và tại Việt Nam
1.2.1. Tình hình nghiên cứu và sản xuất tôm giống tôm thẻ chân trắng trên thế giới
* Nghiên cứu về sản xuất giống
Tôm cái đẻ trứng chủ yếu vào khoảng thời gian từ 21-3 giờ sáng. Thời gian bắt đầu đẻ trứng đến lúc đẻ xong chỉ khoảng 1-2 phút.
Trứng thụ tinh sau 14-16 giờ nở ra Nauplius, quá trình biến thái của ấu trùng cũng trải qua 6 giai đoạn Nauplius, 3 giai đoạn Zoea, 3 giai đoạn Mysis và đến Post-larvae. Post-lavae sống ở vùng cửa sông có độ mặn thấp, nhiệt độ cao, sau vài tháng tôm con trưởng thành bơi ra biển giao vĩ và tiến hành đẻ trứng. Trong tự nhiên tôm mẹ thường đẻ ở độ sâu 70 m nước, nhiệt độ 26-28oC.
Nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ nước lên số lượng và tỷ lệ dị hình của tinh trùng trong điều kiện nuôi nhốt 42 ngày, Pazez và CTV nhận thấy ở 26oC thì chất lượng tinh trùng tốt hơn hẳn so với 29oC và 32oC. Cụ thể ở 26oC số lượng tinh trùng là 18,6 triệu tế bào, tỷ lệ dị hình 36,7%, ở 29oC số lượng tinh trùng là 0,1 triệu tế bào, tỷ lệ dị hình là 99,7%, còn ở 32oC không thấy xuất hiện tinh trùng.
Ngoài việc cắt một bên mắt để kích thích sự thành thục và khả năng đẻ, Vaca và ctv còn dùng kích dục tố setrotonin (5 - hydroxytrytamine), ở nồng độ 15 và 50 µg/g trọng lượng cơ thể để kích thích tôm đẻ lần thứ hai, tuy nhiên sự thành thục và tỷ lệ đẻ của tôm cắt mắt cao hơn nhiều so với liệu pháp dùng kích dục tố.
* Nghiên cứu về phòng trị bệnh
Hiện nay một trong những nguyên nhân chính làm giảm sút sản lượng tôm trên thế giới đó là dịch bệnh. Theo thống kê sơ bộ, dịch bệnh đốm trắng xảy ra vào 2 năm 1999-2000 đã làm sản lượng tôm he chân trắng giảm sút chỉ còn chiếm 11% tổng sản lượng tôm trên thế giới, sau một thập kỷ phát triên nghề nuôi tôm he chân trắng lại trở về thời kỳ ban đầu với mức sản lượng 90.000 tấn/năm. Công tác phòng trị bệnh có ý nghĩa rất quan trọng, nó quyết định sự thành bại của quy trình sản xuất.
Theo Lighner và Bell (1984-1987), Wyban và Swany (1991) ấu trùng tôm he chân trắng rất dễ bị cảm nhiễm vibrio, vi khuẩn dạng sợi và các bệnh do nguyên sinh động vật. Để phòng trị bệnh này ngoài việc thay nước, điều chỉnh chế độ cho ăn, dùng các loại hóa chất, cần phải tính đến việc chuẩn bị một nguồn nước sạch trước khi đưa vào ương nuôi. Tôm he chân trắng dễ bị cảm nhiễm bởi loài nấm sirolpidium sp, bệnh này có thể gây chết ấu trùng 100%. Một số báo cáo cho biết có thể dùng Treflan ở nồng độ 0,1 ppm để phòng trị. Ngoài việc bệnh do virus gây ra ở tôm he chân trắng chủ yếu như IHHNV, BP, REO, đặc biệt bệnh đốm trắng gặp ở cả giai đoạn hậu ấu trùng và nuôi thương phẩm mà đến nay vẫn chưa có cách phòng trị.
Ngoài ra, còn có bệnh do dinh dưỡng, độc tố và môi trường. Tôm có thể chịu ảnh hưởng do khẩu phần thức ăn không hợp lý, do chất độc hoặc do các tác nhân gây ô nhiễm trong nước nuôi, cũng như các tác nhân môi trường như nhiệt độ quá cao (quá thấp), thiếu oxi, . . . dưới tác dụng của các tác nhân này tôm có thể có các triệu chứng khác nhau, nếu ở mức nhẹ là thay đổi thể trọng đến mức nặng là chết rải rác đến hàng loạt trong vòng vài giờ. Việc tích tụ các chất thải hữu cơ và khí độc do nuôi tôm quá dài, cho ăn quá nhiều cộng với công tác vệ sinh kém, chất lượng nước nuôi tôm xấu góp phần làm cho tôm chết trong các bể ương (Villaluz, 1975), cụ thể một số bệnh như: Bệnh mềm vỏ, bệnh đóng rong, bệnh đỏ, nhiễm mỡ gan tụy.
* Nghiên cứu tạo đàn tôm sạch bệnh và cải thiện chất lượng di truyền
Nhằm duy trì và phát triển ngành công nghiệp nuôi tôm chân trắng, các quốc gia châu Mỹ đã có nhiều nghiên cứu có quy mô để ngăn chặn có hiệu quả các đợt dịch bệnh và bước đầu thu được những thành tựu đáng kể. Thành công nhất là chương trình nuôi tôm biển của Hoa Kỳ với dự án nghiên cứu đàn tôm sạch bệnh, kết quả dự án đã phát triển mạng lưới ra các nước.
Vùng Thái Bình Dương - nơi có nghề tôm biên phát triển. Một số quốc gia ven biển Tây Thái Bình Dương như Ecuador, Mexico, Colombia, . . ..
Cũng có những chương trình cải thiện chất lượng di truyền đàn tôm he chân trắng, kết quả bước đầu cho thấy có hy vọng tạo được một thế hệ con có sức sống và sức đề kháng hơn hẳn đàn bố mẹ.
1.2.2. Tình hình nghiên cứu và sản xuất tôm giống tôm thẻ chân trắng tại Việt Nam
Do rất thận trọng với đối tượng nhập nội nuôi mới, nước ta cho dù đã đưa tôm he chân trắng vào nuôi từ năm 1997 ở Bạc Liêu (Công Ty TNHH Duyên Hải), sau đó ở Phú Yên (Công ty Asia Hawaii Ventures), ở Ninh Thuận (Công ty TNHH Anh Việt) và Hà Tĩnh (Công ty Công nghệ Việt Mỹ); việc sản xuất giống tôm he chân trắng chỉ dừng lại ở mức độ tự cung tự cấp trong diện tích của các đơn vị nói trên, và nhìn chung tỷ lệ sống trung bình từ Nauplius đến Post-lavae chỉ dừng lại ở mức <30%.
Từ năm 2002, các nhà khoa học Việt Nam đã bắt đầu đặt vấn đề nghiên cứu quy trình sản xuất giống tôm he chân trắng như Viện Hải Dương Học Nha Trang (nguồn tôm mẹ do công ty Việt Linh cung cấp từ Hawaii); Trung tâm nghiên cứu thủy sản III Nha Trang (nguồn tôm mẹ từ Công ty Asia Hawaii Ventures Phú Yên); Viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản I Hà Bắc (nguồn tôm mẹ do công ty Việt Đức cung cấp), . . ..
Năm 2003, trại tôm giống Hạnh Phúc Phú Yên hợp đồng với chuyên gia Thái Lan sản xuất giống tôm sú sạch kết hợp sản xuất thử nghiệm Post-lavae từ Nauplius tôm he chân trắng của công ty Asia Hawaii Ventures đạt tỷ lệ sống bình quân khoảng 30%.
Hiện nay, Viện nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản III đã tạo ra được đàn tôm bố mẹ (F1) có nguồn gốc từ Hawaii và đã tạo ra được đàn giống tôm thẻ chân trắng có chất lượng cao với tên gọi F1-V3-VN. Qua thời gian nghiên cứu đặc tính sinh sản của đàn tôm bố mẹ mới này, cho thấy chúng có một số đặc điểm nổi trội như khả năng sinh sản tương đối ổn định và số lượng trứng cũng nhiều hơn so với đàn tôm bố mẹ nguyên thủy nhập từ Hawaii (tôm bố mẹ giống mới mỗi lần đẻ từ 200.000-230.000 trứng so với 170.000-190.000 trứng do tôm Hawaii đẻ). So với các lô đối chứng, tỷ lệ nở và tỷ lệ thụ tinh của tôm F1-V3-VN cao hơn. Hơn nửa, thời gian từ lúc cắt mắt (kích thích tôm đẻ) đến khi tôm đẻ cũng ngắn hơn.
Đến nay, toàn bộ diện tích tôm F1-V3-VN nuôi thử nghiệm đều thu hoạch. Qua theo dõi trong thời gian nuôi thành thục và cho đẻ của tôm thì tỷ lệ sống đạt gần 94%. Đặc biệt, kết quả kiểm dịch các mẫu giống tôm F1-V3-VN đều dương tính (không mang mầm bệnh) với 6 loại bệnh phổ biến hiện nay trên tôm như: TSV, WSSV, MBV, IHV, BP, IHBMV. Trong khi đó, giá thành của tôm giống F1-V3-VN chỉ bằng 50% so với tôm nhập từ Thái Lan và bằng 30% so với tôm giống được sản xuất từ tôm bố mẹ được nhập trực tiếp từ Hawaii.
Chương 2
VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng, thời gian và địa điểm nghiên cứu
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu
Ấu trùng tôm thẻ chân trắng.
2.1.2. Thời gian nghiên cứu
Từ ngày 01/03/2011 đến ngày 30/06/2011.
2.1.3. Địa điểm nghiên cứu
Công ty CP chăn nuôi C.P Việt Nam - An Hải, Ninh Phước-Ninh Thuận
2.2. Vật liệu và thiết bị dụng cụ dung trong nghiên cứu
- Thức ăn sử dụng
+ Thức ăn tươi sống: Tảo Thalassiosira sp, Chaetoceros sp và Artemia,
+ Thức ăn khô: Thức ăn tổng hợp gồm: TNT1, TNT2, TNT3,TNT4,
+ Vitamin C.
Trang thiết bị và dụng cụ sử dụng trong quá trình nghiên cứu
+ Thùng nhựa có thể tích 50 lít,
+ Hệ thống sục khí, máy đo độ mặn, pH, độ kiềm,
+ Máy ảnh kỹ thuật số,
+ Buồng đếm tảo,
+ Kính hiển vi,
+ Cân,
+ Nhiệt kế,
+ Nguồn nước và một số dụng cụ khác.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Bố trí thí nghiệm
- Điều kiện nghiên cứu
Nhiệt độ: 28-32oC
Độ mặn: 28-35‰
pH : 7.5-8.5
+ Thể tích thùng thí nghiệm: Thí nghiệm được tiến hành trong các thùng đều có thể tích 50 lít, được đặt trong nhà nuôi và có chế độ sục khí 24/24 h.
Thiết kế thí nghiệm ở mức 2 nhân tố, bố trí theo kiểu ngẫu nhiên hoàn toàn và được lặp lại 3 lần.
- Sơ đồ bố trí thí nghiệm
Quản lý các yếu tố môi trường
Xác định thời gian biến thái
Xác định tỷ lệ sống
28‰
Ấu trùng tôm thẻ chân trắng
MĐ1 100con/L
MĐ2 200con/L
200con/L
MĐ3 300con/L
300con/L
35‰
32‰
35‰
32‰
32 ‰
35‰
CT 3
CT 4
CT 5
CT 6
CT 2
CT 1
32‰
28‰
28‰
CT 7
CT 8
CT 9
Kết luận và đề xuất ý kiến
Hình 2. Sơ đồ bố trí thí nghiệm
Hình 2.1. Sơ đồ bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm ương nuôi ấu trùng tôm thẻ chân trắng giai đoạn Zoea và giai đoạn Mysis với các mật độ khác nhau (MĐ1, MĐ2, MĐ3) khi được nuôi ở các độ mặn khác nhau.
- Các mật độ khác nhau:
MĐ1: 100 con/L. MĐ2: 200 con/L. MĐ3: 300 con/L.
- Các độ mặn khác nhau:
ĐM1: 28‰. ĐM2: 32‰. ĐM3: 35‰
2.3.2. Phương pháp xác định các chỉ tiêu nghiên cứu
2.3.2.1. Phương pháp xác định các yếu tố môi trường
Bảng 2.1. Phương pháp xác định các yếu tố môi trường
Yếu tố
Thời điểm đo
Thời gian đo
Dụng cụ đo
Nhiệt độ
7h và 16h
2 lần/ngày
Nhiệt kế thuỷ ngân
Độ Ph
7h
1 lần/ngày
Máy đo pH
Khí NH3/NH4
7h
1 ngày/lần
Test so màu
Độ kiềm
7h
1 ngày/lần
Test so màu
2.3.2.2. Phương pháp xác định thời gian biến thái của ấu trùng tôm thẻ chân trắng
- Xác định thời gian biến thái của ấu trùng: Theo dõi và xác định thời điểm xuất hiện ấu trùng giai đoạn trước đến thời điểm xuất hiện ấu trùng ở giai đoạn sau, từ đó tính được tổng thời gian chuyển giai đoạn.
Quy ước: Ước lượng khoảng 50% ấu trùng trong thùng chuyển giai đoạn thì lấy thời điểm đó tính thời gian biến thái của ấu trùng. Tính theo công thức:
T = T2 - T1
Trong đó: T: Thời gian biến thái của ấu trùng (giờ)
T1: Thời điểm ấu trùng chuyển giai đoạn trước (giờ)
T2: Thời điểm ấu trùng chuyển giai đoạn kế tiếp (giờ)
2.3.2.3. Theo dõi sức khoẻ và xác định tỷ lệ sống của ấu trùng trong quá trình ương nuôi
- Quan sát các chỉ tiêu đánh giá chất lượng ấu trùng trực tiếp: Hoạt động, màu sắc, khả năng bắt mồi.
- Theo dõi tình hình bệnh của ấu trùng trong quá trình ương nuôi thí nghiệm.
- Tỷ lệ sống các giai đoạn
Xác định tỷ lệ sống bằng cách định lượng ấu trùng sau mỗi lần chuyển giai đoạn bằng phương pháp thể tích. Theo công thức:
TLS =
As
×100
Ae
Trong đó:
TLS: Tỷ lệ sống của ấu trùng trong thùng ương (%)
As: Tổng số ấu trùng trong thùng lúc đầu (con)
Ae: Tổng số ấu trùng trong thùng ở thời điểm xác định tỷ lệ sống (con)
+ Cách thu mẫu: Dù