Đề tài Ảnh hưởng xuất nhập khẩu Việt Nam đến FDI

Đứng trên góc độ phân tích về mặt lí thuyết có thể thấy giữa ngoại thương va đầu tư trực tiếp nước ngoài có mối quan hề tương hỗ lẫn nhau.Nếu như hoạt động xuất nhập khẩu của một đất nước hoạt động tốt thì đây cũng là một chỉ tiêu quan trọng để các nhà đầu tư nước ngoài nền nhìn vào nền kinh tế đó, quyết định vốn đầu tư của mình. Mặt khác khi hoạt động khi đầu tư trực tiếp nước ngoài được đẩy mạnh đặc biệt trong lĩnh vực trong lĩnh vực xuất nhập khẩu với thì năng lực sản xuất của nước sở tại tăng lên và hàng hoá ản xuất ra có chất lượng tốt hơn, giá thành rẻ hơn, do đó sẽ thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu. Vậy mội quan hệ giữa ngoại thương và đầu tư trực tiếp nước ngoài được biểu hiện như thế nào? Trước tiên, chúng ta cần tìm hiểu xem vì sao các hoạt động của các doanh nghiệp FDI trong thời gian vừa qua lại đầu tư vào lĩnh vực xuất nhập khẩu của Việt Nam nhanh và nhiều như vậy.

doc19 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1373 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Ảnh hưởng xuất nhập khẩu Việt Nam đến FDI, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. Ảnh hưởng xuất nhập khẩu Việt Nam đến FDI Đứng trên góc độ phân tích về mặt lí thuyết có thể thấy giữa ngoại thương va đầu tư trực tiếp nước ngoài có mối quan hề tương hỗ lẫn nhau.Nếu như hoạt động xuất nhập khẩu của một đất nước hoạt động tốt thì đây cũng là một chỉ tiêu quan trọng để các nhà đầu tư nước ngoài nền nhìn vào nền kinh tế đó, quyết định vốn đầu tư của mình. Mặt khác khi hoạt động khi đầu tư trực tiếp nước ngoài được đẩy mạnh đặc biệt trong lĩnh vực trong lĩnh vực xuất nhập khẩu với thì năng lực sản xuất của nước sở tại tăng lên và hàng hoá ản xuất ra có chất lượng tốt hơn, giá thành rẻ hơn, do đó sẽ thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu. Vậy mội quan hệ giữa ngoại thương và đầu tư trực tiếp nước ngoài được biểu hiện như thế nào? Trước tiên, chúng ta cần tìm hiểu xem vì sao các hoạt động của các doanh nghiệp FDI trong thời gian vừa qua lại đầu tư vào lĩnh vực xuất nhập khẩu của Việt Nam nhanh và nhiều như vậy. 1.Trong cuộc hành trình 20 năm trở lại đây, Việt Nam đã có bước tiến nhảy vọt trong việc mở cửa giao lưu với các nền kinh tế nước bạn. Sự ra đời của những chính sách thân thiện trong thương mại cũng như chính sách đầu tư trực tiếp từ nước ngoài chính là yếu tố quan trọng nhất đem lại thành công trong việc tạo lập môi trường cho các công ty FDI đầu tư vào ngành xuất nhập khẩu tai Việt nam. Tổng xuất khẩu và nhập khẩu bằng 160% GDP đã biến nền kinh tế Việt Nam trở thành một trong những nền kinh tế có độ mở lớn nhất thế giới. Từ năm 1980 tới nay, bắt đầu với Nghị định 40- 7/2/1980 và tới nay là Nghị định 57CP- 31/7/1998, Nhà nước đã xoá bỏ hoàn toàn điều kiện , các doanh nghiệp có quyền tham gia các hoạt đông ngoại thương mà không cân cần cố điều kiện gì, chỉ cần có mã số thuế ở Cục Thuế. Ta có thể nhận thấy ró sự thay đổi về kim ngạch xuất nhập khẩu trong 10 năm gần đây là tù 1997 tới 2007: Tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam tăng liên tục trong suốt thời gian 10 năm từ 1997 đến 2007. Sau thời kì khủng hoảng kinh tế 1997, cán cân thương mại có nhiều xáo trộn. Năm 2001 là giới hạn của thời kì này. Tất cả các chỉ số của năm này đều thay đổi rất ít so với năm 2000. Tiếp sau đó là một thời kì tăng trưởng khá năng động của xuất nhập khẩu với tỉ lê tăng trưởng trung bình lên đến hơn 20%. Thâm hụt thương mại theo đó cũng tăng lên một cách đáng kể từ 1,2 tỷ năm 2001 lên tới 5,1 tỷ năm 2006. Điều này chứng tỏ rằng Việt Nam đang hội nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế thế giới. Trong vòng 9 năm nhập khẩu tăng lên khoảng 3,8 lần. Trong khi đó nhập khẩu tăng 4,3 lần. Đó là một xu thế tốt và có thể nói là thành công bước đầu của Việt Nam trong quá trình hội nhập nói chung và thể hiện một môi trường tốt cho các doanh nghiệp FDI đầu tư vào Việt Nam, góp phần tăng tỉ trọng xuất nhập khẩu nói riêng. 2. Thêm nữa, đó là do chính sách của nhà nước ta đối với các doanh nghiệp FDI về vấn đề XNK ngày càng được nới rộng.Chúng ta có thể nhìn thấy rõ điều đó Nhằm khuyến khích, tạo môi trường thuận lợi cho việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài, nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư nước ngoài, năm 1998, Chính phủ đưa ra Nghị định số 10/1998/NĐ-CP về một số biện pháp khuyến khích và bảo đảm hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam trong đó điểm khác biệt rõ nét. Điểm dễ nhận thấy là nhà nước khuyển khích đầu tư bằng cách điều chỉnh thuế suất thuế lợi tức ưu đãi và thời hạn miễn, giảm thuế lợi tức theo các tiêu chuẩn khuyến khích đầu tư ( Điều 8, 9 10, 11/ chương III). Nếu trước đây các doanh nghiệp FDI phải uỷ thác vốn cho công ty Việt Nam thi theo Nghị định 10, các doanh nghiệp FDI được quyền thu mua sản phẩm. Nhưng hạn chế của Nghị định là chỉ được nhập khẩu các yểu tố đầu vào cho sản xuất, không được kinh doanh xuất nhập khẩu. Đến năm 2001, theo Nghị định 44 ban hành 2/8/2001, thương nhân theo quy định của pháp luật được quyền xuất khẩu tất cả các loại hàng hóa, không phụ thuộc ngành nghề, ngành hàng ghi trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, trừ hàng hoá thuộc Danh mục hàng hoá cấm xuất khẩu; được nhập khẩu hàng hóa theo ngành nghề, ngành hàng ghi trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh(điều 8). Tới năm 2006, nhà nước ta thực hiện cam kết khi gia nhập WTO trong đó cho phép các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần ngành nghề được xuất nhập khẩu.các doanh nghiệp FDI “ được quyền tạm nhập hàng hóa mà thương nhân đã xuất khẩu để tái chế, bảo hành theo yêu cầu của thương nhân nước ngoài và tái xuất khẩu trả lại thương nhân nước ngoài. Thủ tục tạm nhập tái xuất giải quyết tại Hải quan cửa khẩu”(điều 13). Đồng thời cho các doanh nghiệp FDI đứng tên mở tờ khai thuế nhập khẩu và đóng thuế. Tới năm 2007, theo Nghi định 23 NĐ-CP, các doanh nghiệp FDI được quyền xuất nhập khẩu trực tiếp mọi hàng hoá ; được quyền phân phối các hoạt động bán buôn, bán lẻ, đại lý mua bán hàng hoá và nhượng quyền thương mại theo quy định của pháp luật Việt Nam.(điều 3 Vào ngày 1/1/2008, theo Nghị quyết số 19/2008/NQ-QH12, nhà nước cho phép các liên doanh nước ngoài góp vốn không hạn chế trong lĩnh vực hoạt động phân phối Phải nói rằng sau khoảng 10 năm mở rộng, nhưng sự thay đổi chính sách kịp thời của Nhà nước ta đã có những hiệu quả to lớn .Có thể nhận thấy chính sách của nhà nước ta càng ngày càng thông thoáng hơn đối với các doanh nghiệp FDI. II. Ảnh hưởng của FDI đến xuất nhập khẩu Việt Nam 1. FDI thúc đẩy ngoại thương phát triển – cải thiện cán cân thương mại Ông Lê Văn Được, Vụ trưởng Vụ đầu tư nước ngoài (Bộ Công Thương) cho biết, nguồn vốn lớn mạnh FDI đã tác động rất lớn đến cán cân xuất nhập khẩu. Năm 2006, kim ngạch xuất khẩu (KNXK) của cả nước đạt xấp xỉ 40 tỷ USD (39,6 tỷ), tăng 22,1% so với năm 2005,  vượt 4,9% chỉ tiêu kế hoạch của Chính phủ đặt ra từ đầu năm (37,75 tỷ USD). Đặc biệt, khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục chứng tỏ vị trí chủ lực của mình với kim ngạch chiếm 57,7% kim ngạch xuất khẩu của cả nước, tăng 23% so với năm 2005; còn khu vực doanh nhiệp 100% vốn trong nước tăng 20,5% so với năm 2005. Năm 2007, xuất khẩu tăng ở hầu hết các mặt hàng, trong đó có những mặt hàng có kim ngạch tăng khá cao: dệt may, điện tử máy tính, hàng thủ công mỹ nghệ, dây điện và cáp điện, sản phẩm nhựa, gỗ, cà phê, hạt tiêu, hạt điều. Đã có 9 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD là dầu thô, dệt may, giày dép, thuỷ sản, sản phẩm gỗ, điện tử máy tính, cà phê, gạo và cao su với kim ngạch đạt 33 tỷ USD, chiếm 68,2% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Theo đó, kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam đến năm 2007 đã đạt khoảng 107 tỷ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt 48 tỷ USD mà tỷ trọng của khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm gần 57%. Theo báo cáo của Vụ Kế hoạch, Bộ Công Thương, tổng kim ngạch xuất khẩu 6 tháng đầu năm nay đạt 29,69 tỉ đô la Mỹ, tăng 31,8% so với cùng kỳ năm trước và đây là mức tăng cao nhất so với cùng kỳ nhiều năm gần đây (6 tháng 2007 tăng 19,4%; 6 tháng 2006 tăng 25,7%; 6 tháng 2005 năm tăng 17,4%). Trong đó, xuất khẩu của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) đạt 16,92 tỉ đô la Mỹ, chiếm 57% tổng kim ngạch cả nước, tăng 34% so với cùng kỳ. Khu vực FDI đã góp phần nâng cao trình độ công nghệ của nền kinh tế. Thông qua đầu tư nước ngoài, nhiều công nghệ mới được nhập vào Việt Nam như thiết kế, chế tạo máy biến thế; dây chuyền tự động lắp ráp hàng điện tử, mạch điện tử, lắp ráp tổng đài điện thoại tự động kỹ thuật số, công nghệ sản xuất cáp điện, cáp thông tin… Nhìn chung, phần lớn các trong thiết bị là đồng bộ, có trình độ bằng hoặc cao hơn các thiết bị tiên tiến đã có trong nước và thuộc loại phổ cập ở các nước công nghiệp trong khu vực. Các doanh nghiệp FDI đã tạo ra nhiều sản phẩm mới, kiểu dáng đẹp, chất lượng đạt tiêu chuẩn Việt Nam, một số đạt tiêu chuẩn quốc tế; đồng thời cũng đem lại những mô hình quản lý tiến tiến cùng phương thức kinh doanh hiện đại, điều này đã thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo sự cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp. Sự tham gia của các dự án FDI vào ngành công nghiệp đã tạo ra một môi trường kinh doanh cạnh tranh, góp phần đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu, đổi mới và sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước. Các dự án FDI trong lĩnh vực công nghiệp không chỉ khai thác thị trường trong nước mà còn góp phần làm tăng kim ngạch thương mại, đẩy mạnh xuất khẩu. Điển hình như ngành công nghiệp điện tử, mặc dù kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm điện tử năm 2005 chỉ chiếm 4% tổng kim ngạch thương mại, song đã đạt tốc độ tăng tới 34,4%. Trong thời gian tới, khi một số dự án của các tập đoàn lớn được đưa vào hoạt động, góp phần thúc đẩy hơn nữa xuất khẩu của nước ta. Trong điều kiện sản xuất nông lâm nghiệp còn thiếu vốn đầu tư thì đầu tư trực tiếp nước ngoài đã và đang tăng cường nguồn vốn quan trọng để nâng cao năng lực sản xuất, trang bị thêm công nghệ mới như dây chuyền sản xuất các loại rau quả hộp, nước trái cây, một số liên doanh đã được thành lập ở Việt Nam để xuất khẩu một phần hoặc toàn bộ sản phẩm Bên cạnh đó, các dự án FDI đã chuyển giao nhiều giống cây, con và các sản phẩm khác đạt tiêu chuẩn quốc tế. Một số giống cây mới đã được đưa vào Việt Nam cho năng suất cao như giống dứa Cayen, giống mía ấn Độ, Đài Loan, châu Mỹ La tinh. Nhiều loại thiết bị chế biến đã được đưa vào Việt Nam thuộc loại tiên tiến và hiện đại bậc nhất thế giới như dây chuyền xay xát gạo Satake của Nhật Bản, dây chuyền sản xuất bột mỳ của Singapo, Inđônêxia, các dây chuyền chế biến rau quả của ý, Hà Lan, các dây chuyền chế biến thịt của úc, các dây chuyền chế biến thức ăn gia súc của Mỹ, Pháp, Hà Lan, các dây chuyền chế biến chè của Nhật, Bỉ, Đài Loan, các nhà máy đường của Anh, Pháp, ấn Độ, úc, Nhật, Đài Loan, liên doanh chế biến sữa và các sản phẩm sữa, liên doanh sản xuất bia, nước giải khát, liên doanh chế biến hải sản... Các công nghệ mới này góp phần thúc đẩy đa dạng hóa các sản phẩm nông lâm nghiệp, tạo ra một khối lượng hàng nông sản xuất khẩu lớn, chất lượng cao và giá thành hạ, có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. Điều này đã được khẳng định rõ trong văn kiện đại hội IX Đảng cộng sản Việt Nam: “Trong nông nghiệp, đã ứng dụng một số thành tựu của công nghệ sinh học; đưa một số giống mới vào sản xuất đại trà trên cơ sở áp dụng các kết quả nghiên cứu, tuyển chọn, lai tạo giống cây trồng, vật nuôi bằng công nghệ mới và công nghệ cao”. Tóm lại, có thể thấy FDI đầu tư vào lĩnh vực xuất nhập khẩu đã góp phần làm tăng tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước, thúc đẩy ngoại thương phát triển, cải thiện cán cân thương mại của Việt Nam. 2. FDI và bài toán nhập siêu “Việt Nam đang chịu mức thâm hụt thương mại lớn và phải phụ thuộc rất nhiều vào FDI để bổ sung cho thâm hụt thương mại đó. Nhưng nếu chỉ dựa vào FDI thì Việt Nam vẫn sẽ tiếp tục phải chịu sự thâm hụt thương mại” Chuyên gia hàng đầu về kinh tế Việt Nam của Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc (UNDP), ông Jonathan Pincus, đã phát biểu như vậy trong hội thảo tiểu vùng “Chia sẻ kinh nghiệm về việc gia nhập và thực thi các cam kết WTO”, được tổ chức mới đây tại Hà Nội. 1.2.1. Các doanh nghiệp FDI vẫn nhập nhiều hơn là xuất “Dòng vốn FDI rất quan trọng để các nước đang phát triển có được công nghệ mới cho tiếp cận thị trường cũng như tăng cường năng lực quản lí trong nước. Tuy nhiên, FDI không thể giúp Việt Nam bù đắp được thâm hụt thương mại”, ông Jonathan Pincus nhấn mạnh. Lí do được ông Jonathan Pincus đưa ra rất đơn giản: “Những công ty nước ngoài tạo ra xuất khẩu nhưng cũng tạo ra nhập khẩu. Trong trường hợp họ tạo ra nhập khẩu lượng hàng hoá lớn hơn xuất khẩu thì Việt Nam sẽ phải chịu thâm hụt thương mại. Thực tế, điều này đang xảy ra ở Việt Nam.” Cục Đầu tư nước ngoài công bố: trong 6 tháng đầu năm 2008, giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI ước đạt 11,3 tỉ USD, tăng 28% so với cùng kỳ; nhập khẩu ước đạt 13,9 tỉ USD, tăng 42,7% so với cùng kỳ năm trước. Căn cứ vào số liệu trên có thể thấy mức thâm hụt thương mại mà các doanh nghiệp FDI tạo ra trong 6 tháng đầu năm khoảng 2,6 tỉ USD. Giải thích cụ thể hơn, ông Jonathan Pincus cho rằng: “Dòng vốn FDI chiếm phần lớn trong khu vực công nghiệp. Đó là lí do tại sao Việt Nam phải chịu thâm hụt thương mại”. Trên thực tế, việc đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp đòi hỏi nhiều máy móc thiết bị và nguyên vật liệu, phần lớn chỉ dựa vào nhập khẩu để đáp ứng nhu cầu. Trong quá trình này, khi giá trị xuất khẩu thấp hơn so với giá trị nhập khẩu, trong chừng mực nhất định, đã chứng tỏ nguồn vốn FDI không thể nào là “cứu tinh” cho tình trạng thâm hụt thương mại hiện nay của Việt Nam. 1.2.2. Do lạm phát tăng cao Theo một góc nhìn nhận khác, TS. Phan Minh Ngọc, Phó chủ tịch nghiên cứu kinh doanh của tập đoàn ngân hàng Sumitomo Mitsui, cho rằng trong bối cảnh lạm phát tăng cao, những doanh nghiệp FDI có chiến lược sản xuất tại Việt Nam để xuất khẩu sẽ phải chùn bước vì giá thành sản phẩm trở nên kém cạnh tranh. Chỉ những dự án đầu tư để tiêu thụ sản phẩm ngay tại Việt Nam là vẫn muốn duy trì và mở rộng sản xuất tại Việt Nam. “Như vậy, có thể nói lạm phát tăng cao sẽ làm thay đổi cơ cấu dòng FDI vào Việt Nam theo hướng khá bất lợi cho Việt Nam”, ông Ngọc nói. Trong khi đó, thống kê của Tổng cục Thống kê, nhập siêu hàng hoá 6 tháng đầu năm 2008 ước tính là 14,8 tỉ USD, bằng 49,8% kim ngạch xuất khẩu, tăng 184,6% so với cùng kỳ năm trước và cao hơn 0,7 tỷ USD so với mức nhập siêu của cả năm 2007. Nhập siêu chủ yếu là nhập nguyên, nhiên vật liệu từ thị trường các nước trong khu vực. Như vậy, thâm hụt thương mại từ các doanh nghiệp FDI chiếm gần 18% trong tổng thâm hụt của cả nước trong 6 tháng đầu năm. Bên cạnh đó, khu vực doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam rất lớn nhưng sản xuất hầu hết phục vụ nhu cầu trong nước. Trong khi khu vực tư nhân rất nhỏ bé, phần lớn là các doanh nghiệp nhỏ. Sức cạnh tranh của các doanh nghiệp này tương đối yếu, những sản phẩm xuất khẩu có giá trị gia tăng cao rất ít. Tổng hoà của 3 khu vực này, theo ông Jonathan Pincus, đã khiến cho Việt Nam phải chịu thâm hụt thương mại. 1.2.3. Doanh nghiệp FDI được quyền nhập khẩu hàng hóa Trong văn bản cam kết gia nhập WTO, Việt Nam đồng ‎ý cho doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài được quyền xuất nhập khẩu hàng hoá như người trong nước kể từ khi gia nhập. Nghị định 23/2007/NĐ-CP được ban hành ngày 12/02/2007 chính là bước cụ thể hoá cam kết này. Nghị định 23 “quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng hoá và các hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hoá của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam” là một trong hai nghị định Việt Nam phải ban hành trong vòng 30 ngày sau khi ký Nghị định thư gia nhập WTO. Nghị định còn lại là nghị định “về hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu của thương nhân nước ngoài không có hiện diện tại Việt Nam”. Trước đây, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chỉ được phép trực tiếp nhập khẩu thiết bị, máy móc, vật tư, nguyên liệu và hàng hoá cho hoạt động đầu tư; trực tiếp xuất khẩu và tiêu thụ sản phẩm ở nước ngoài. Nay với Nghị định 23 này, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được quyền xuất nhập khẩu trực tiếp mọi hàng hoá (trừ năm nhóm hàng hoá dành riêng cho doanh nghiệp thương mại nhà nước gồm xăng dầu, thuốc lá điếu, xì gà, băng đĩa hình, báo chí và một số mặt hàng nhạy cảm khác mà Việt Nam chỉ cho phép sau một thời gian chuyển đổi như gạo và dược phẩm). Tuy nhiên, quyền xuất nhập khẩu trực tiếp này không đồng nghĩa với quyền phân phối hàng hoá. Doanh nghiệp được cấp phép sẽ có quyền xuất nhập khẩu để bán sản phẩm nhập khẩu cho cá nhân hay doanh nghiệp có quyền phân phối sản phẩm đó tại Việt Nam. Cụ thể, điều 3 của nghị định giải thích: “Quyền xuất khẩu không bao gồm quyền tổ chức mạng lưới mua gom hàng hoá tại Việt Nam để xuất khẩu” và “Quyền nhập khẩu không bao gồm quyền tổ chức hoặc tham gia hệ thống phân phối hàng hóa tại Việt Nam”. Từ ngày 01/01/2008, nước ngoài mới được liên doanh không hạn chế tỷ lệ góp vốn của nước ngoài trong dịch vụ phân phối (đại lý hoa hồng, bán buôn, bán lẻ, nhượng quyền thương mại); và từ 01/01/2009 nước ngoài mới được phép thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài trong dịch vị phân phối. Theo Nghị định 23, UBND cấp tỉnh chịu trách nhiệm cấp giấy phép kinh doanh để hoạt động mua bán hàng hoá và các hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hoá cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã được cấp giấy chứng nhận đầu tư hoặc giấy phép đầu tư sau khi có ý kiến chấp thuận bằng văn bản của bộ Thương Mại. Tất cả những nguyên nhân cho thấy hiên tại khu vực FDI vẫn không khiến chúng ta có thể giảm lượng nhập khẩu, giải quyết bài toán nhập siêu. Xem xét 1 số ví dụ : Một số DN ôtô có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) mới đây đã xin được giấy phép nhập khẩu ôtô nguyên chiếc, báo hiệu sự cạnh tranh khốc liệt trên thị trường ôtô thời gian tới. Ngày 28/12/2007, Toyota Việt Nam là DN đầu tiên được cấp phép nhập khẩu xe nguyên chiếc. Đến nay đã có thêm Mercedes-Benz Việt Nam và một số DN khác như Ford Việt Nam, Honda Việt Nam, GM- Daewoo... cũng đang xin giấy phép này. Nhận xét về việc các DN FDI được nhập khẩu xe nguyên chiếc, tất cả các ý kiến đều thừa nhận chẳng khác nào "rồng được chắp cánh". Các DN FDI ôtô Việt Nam vốn là những đại gia, họ chiếm giữ phần lớn thị trường xe trong nước, nay lại tiếp tục mở rộng sang thị phần xe nhập khẩu thì đã mạnh lại càng mạnh hơn. Khi các DN FDI được nhập khẩu xe nguyên chiếc thì điều chắc chắn là sẽ có nhiều mẫu xe mới với nhiều thương hiệu nổi tiếng được đưa vào Việt Nam. Tại lễ ra mắt mẫu xe MPV Chevrolet Vivant ngày 25/1/2008, Tổng giám đốc Công ty Ôtô GM-Daewoo Việt Nam Jung-In Kim cho biết, nếu GM Daewoo được nhập khẩu thì có thể sẽ đưa về Việt Nam cả 13 thương hiệu của Tập đoàn General Motor như:  Opel, Chevrolet, Cadillac, GMC, Hummer, Saab, Saturn…  Ford hay Toyota Việt Nam cũng  vậy, họ hoàn toàn có thể nhập khẩu  rất nhiều mẫu xe với các nhãn hiệu xe như Jaguar, Aston Martin, Land Rover, Lincoln, Mercury, Volvo (Ford); Lexus, Scion (Toyota). Điều  này sẽ làm cho thị trường xe nhập khẩu trở nên phong phú và tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ với xe nhập khẩu của các nhà nhập khẩu Việt Nam cũng như với xe sản xuất lắp ráp trong nước. Tuy nhiên, theo lộ trình thực hiện cam kết gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), kể từ ngày 1/1/2009 các doanh nghiệp FDI mới được phép phân phối xe nguyên chiếc. Những DN đã có giấy phép nhập khẩu hiện chỉ giới hạn được phân phối xe nhập thông qua 1 đại lý. Điều này đã hạn chế phần nào "sức mạnh" của họ, nhưng cũng chỉ còn 4 tháng nữa là "cuộc chơi" bắt đầu. Các DN như Ford Việt Nam, Honda Việt Nam, GM - Daewoo... cho biết chắc chắn 2009 họ sẽ vào cuộc. Các phân tích cho thấy, DN FDI chắc chắn sẽ có nguồn nhập khẩu xe dồi dào bởi được tiếp sức từ các công ty mẹ. Không những thế giá cả cũng có nhiều lợi thế và họ có tiềm lực để nhập khẩu xe với số lượng lớn. Bên cạnh đó, các DN FDI cũng có lợi thế lớn với hệ thống bán hàng và dịch vụ chuyên nghiệp rộng khắp đã được xây dựng từ lâu, nên những khách hàng mua xe sẽ được hưởng lợi. Những lợi thế mà các DN FDI có lại là những hạn chế của các DN nhập khẩu ôtô của Việt Nam. Hiện nay các DN nhập khẩu ôtô Việt Nam chủ yếu phải nhập xe qua trung gian, yếu tố giá cả không có nhiều thuận lợi, vốn lại ít, nguồn xe nhập cũng không khai thác được nhiều và  thiếu hệ thống bán hàng, dịch vụ chuyên nghiệp. Nhiều nhà nhập khẩu của Việt Nam hiện chỉ bán xe cho khách hàng xong là hết trách nhiệm, việc bảo hành bảo dưỡng tự khách hàng lo. Nếu khách hàng đưa xe vào những cơ sở bảo hành của các DN FDI  thì phải chịu 1 cái giá khác, cao hơn so với khách hàng mua xe từ DN FDI. Doanh nghiệp trong nước sẽ làm gì ? Để cạnh tranh, các nhà nhập khẩu ôtô Việt Nam cho biết họ đang lên kế hoạch chuẩn bị như đẩy mạnh tìm kiếm khai thác nguồn hàng với giá hợp lý, mẫu mã phong phú, hỗ trợ khách hàng dịch vụ sau bán hàng và thành lập Hiệp hội các nhà nhập khẩu ôtô... Theo ông Tâm sắp tới thị trường ôtô nhập khẩu sẽ bước vào "cuộc chơi"  khốc liệt, nhưng giá xe sẽ hợp lý hơn, người tiêu dùng sẽ được hưởng lợi nhiều từ cạnh tranh này. Đối với xe sản xuất lắp ráp trong nước, các DN FDI khẳng định việc
Tài liệu liên quan