Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, nền kinh tế Việt Nam đang khởi sắc, vững bước đi lên sánh vai cùng các nước, cùng hoà vào xu thế hội nhập chung của thế giới. Hơn 20 năm mở cửa, hội nhập và phát triển kinh tế đất nước tuy là quãng đường không dài nhưng nó đánh dấu bước ngoặt trọng đại, những biến chuyển, đổi thay sắc nét. Mục tiêu phát triển kinh tế của chúng ta là tốc độ cao và ổn định. Để làm được điều này cần phải có một lượng vốn tương đối lớn đảm bảo cho quá trình trên được thực hiện một cách thông suốt, chính vì lẽ đó mà thị trường chứng khoán ra đời như một tất yếu khách quan. Xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán là mục tiêu đã được Đảng và chính phủ Việt Nam định hướng từ những năm đầu thập kỷ 90 - thế kỷ 20 nhằm huy động một kênh dẫn vốn mới cho đầu tư và phát triển, tạo ra một bước phát triển mới cho thị trường tài chính Việt Nam nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói riêng.
Việc khai trương đưa Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh đi vào hoạt động (từ tháng 7/2000) và Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội (tháng 3 năm 2005) đã đánh dấu một bước tiến trong quá trình cải cách kinh tế ở Việt Nam, khẳng định quyết tâm phát triển kinh tế thị trường của Đảng và Chính phủ trong tiến trình đổi mới. Sau 7 năm đưa thị trường chứng khoán Việt Nam vào hoạt động, với mục tiêu ban đầu là đưa vào vận hành một trung tâm chứng khoán tập trung với qui mô thích hợp, phát triển từ thấp đến cao và không gây mất ổn định kinh tế xã hội, thị trường chứng khoán Việt Nam đã bắt đầu thể hiện vai trò của mình.
Trong quản trị tài chính hiện đại, nghiệp vụ quản lý rủi ro giữ một vị trí trung tâm, nó là bộ phận không thể thiếu trong hoạt động đầu tư tại các tổ chức tài chính. Tuy vậy, lĩnh vực này chỉ mới thực sự phát triển từ thập kỷ 90 trở lại đây nhờ sự phát triển vượt bậc của công nghệ - kỹ thuật, đặc biệt là sự xuất hiện của các công cụ tính toán với tốc độ cao đã cho phép giải quyết các bài toán đầu tư và tính toán rủi ro phức tạp. Cùng với xu thế toàn cầu hoá, cơ hội đầu tư được mở rộng song rủi ro và thách thức đi kèm cũng không nhỏ. Đã có không ít vụ đổ bể tài chính của các ngân hàng, các tập đoàn kinh tế lớn diễn ra tại nhiều quốc gia trên thế giới từ các nước có nền kinh tế phát triển như Mỹ, Nhật, Anh, Đức đến các nước đang phát triển như Thái Lan, Malaysia, Hàn quốc. Thực trạng này đã khiến các nhà hoạch định chính sách quốc gia và các tổ chức tài chính quan tâm đặc biệt đến quản lý rủi ro. Trong quản lý rủi ro tài chính hiện đại nếu chỉ đơn thuần dựa vào các chính sách định tính thì chưa đủ mà quan trọng hơn là phải hình thành và phát triển một hệ thống các phương pháp khoa học nhằm lượng hoá mức độ rủi ro và tổn thất tài chính có thể xảy ra trong những điều kiện nhất định của thị trường và của nền kinh tế để từ đó đưa ra các giải pháp quản lý rủi ro hữu hiệu.
Lý thuyết và thực tiễn của nghiệp vụ quản lý rủi ro đã được đúc kết qua nhiều năm phát triển của thị trường chứng khoán tại nhiều nước. Việc nghiên cứu, khai thác những kiến thức này nhằm áp dụng có chọn lọc vào thị trường chứng khoán non trẻ của Việt Nam sẽ bước đầu giúp ích cho việc đẩy mạnh phát triển loại nghiệp vụ này, góp phần vào sự phát triển một thị trường chứng khoán Việt Nam ổn định và hiệu quả. Đó cũng là lý do để tôi lựa chọn đề tài: “Áp dụng các công cụ toán tài chính vào quản lý rủi ro và ứng dụng cho thị trường chứng khoán Việt Nam”.
89 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1291 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Áp dụng các công cụ toán tài chính vào quản lý rủi ro và ứng dụng cho thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU
Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, nền kinh tế Việt Nam đang khởi sắc, vững bước đi lên sánh vai cùng các nước, cùng hoà vào xu thế hội nhập chung của thế giới. Hơn 20 năm mở cửa, hội nhập và phát triển kinh tế đất nước tuy là quãng đường không dài nhưng nó đánh dấu bước ngoặt trọng đại, những biến chuyển, đổi thay sắc nét. Mục tiêu phát triển kinh tế của chúng ta là tốc độ cao và ổn định. Để làm được điều này cần phải có một lượng vốn tương đối lớn đảm bảo cho quá trình trên được thực hiện một cách thông suốt, chính vì lẽ đó mà thị trường chứng khoán ra đời như một tất yếu khách quan. Xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán là mục tiêu đã được Đảng và chính phủ Việt Nam định hướng từ những năm đầu thập kỷ 90 - thế kỷ 20 nhằm huy động một kênh dẫn vốn mới cho đầu tư và phát triển, tạo ra một bước phát triển mới cho thị trường tài chính Việt Nam nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói riêng.
Việc khai trương đưa Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh đi vào hoạt động (từ tháng 7/2000) và Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội (tháng 3 năm 2005) đã đánh dấu một bước tiến trong quá trình cải cách kinh tế ở Việt Nam, khẳng định quyết tâm phát triển kinh tế thị trường của Đảng và Chính phủ trong tiến trình đổi mới. Sau 7 năm đưa thị trường chứng khoán Việt Nam vào hoạt động, với mục tiêu ban đầu là đưa vào vận hành một trung tâm chứng khoán tập trung với qui mô thích hợp, phát triển từ thấp đến cao và không gây mất ổn định kinh tế xã hội, thị trường chứng khoán Việt Nam đã bắt đầu thể hiện vai trò của mình.
Trong quản trị tài chính hiện đại, nghiệp vụ quản lý rủi ro giữ một vị trí trung tâm, nó là bộ phận không thể thiếu trong hoạt động đầu tư tại các tổ chức tài chính. Tuy vậy, lĩnh vực này chỉ mới thực sự phát triển từ thập kỷ 90 trở lại đây nhờ sự phát triển vượt bậc của công nghệ - kỹ thuật, đặc biệt là sự xuất hiện của các công cụ tính toán với tốc độ cao đã cho phép giải quyết các bài toán đầu tư và tính toán rủi ro phức tạp. Cùng với xu thế toàn cầu hoá, cơ hội đầu tư được mở rộng song rủi ro và thách thức đi kèm cũng không nhỏ. Đã có không ít vụ đổ bể tài chính của các ngân hàng, các tập đoàn kinh tế lớn diễn ra tại nhiều quốc gia trên thế giới từ các nước có nền kinh tế phát triển như Mỹ, Nhật, Anh, Đức… đến các nước đang phát triển như Thái Lan, Malaysia, Hàn quốc. Thực trạng này đã khiến các nhà hoạch định chính sách quốc gia và các tổ chức tài chính quan tâm đặc biệt đến quản lý rủi ro. Trong quản lý rủi ro tài chính hiện đại nếu chỉ đơn thuần dựa vào các chính sách định tính thì chưa đủ mà quan trọng hơn là phải hình thành và phát triển một hệ thống các phương pháp khoa học nhằm lượng hoá mức độ rủi ro và tổn thất tài chính có thể xảy ra trong những điều kiện nhất định của thị trường và của nền kinh tế để từ đó đưa ra các giải pháp quản lý rủi ro hữu hiệu.
Lý thuyết và thực tiễn của nghiệp vụ quản lý rủi ro đã được đúc kết qua nhiều năm phát triển của thị trường chứng khoán tại nhiều nước. Việc nghiên cứu, khai thác những kiến thức này nhằm áp dụng có chọn lọc vào thị trường chứng khoán non trẻ của Việt Nam sẽ bước đầu giúp ích cho việc đẩy mạnh phát triển loại nghiệp vụ này, góp phần vào sự phát triển một thị trường chứng khoán Việt Nam ổn định và hiệu quả. Đó cũng là lý do để tôi lựa chọn đề tài: “Áp dụng các công cụ toán tài chính vào quản lý rủi ro và ứng dụng cho thị trường chứng khoán Việt Nam”.
Trong quá trình học tập tại trường kết hợp với thời gian thực tập tại công ty TNHH Chứng khoán NHNO&PTNT (Agriseco), được sự giúp đỡ hết sức tận tình của các thầy cô và của công ty nói chung, Bộ phận kinh doanh cổ phiếu nói riêng em đã hoàn thành chuyên đề thực tập tốt nghiệp này.
Em xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc công ty cùng tập thể cán bộ, nhân viên toàn Công ty và đặc biệt cảm ơn các cán bộ Bộ phận kinh doanh cổ phiếu đã tạo điều kiện thuận lợi cho em trong quá trình thực tập, để em có thể tìm hiểu về các nghiệp vụ của Công ty, được tiếp cận với thực tế của thị trường chứng khoán Việt Nam.
Em cũng xin chân thành cảm ơn PGS. TS. Nguyễn Quang Dong – Khoa Toán Kinh Tế trường đại học Kinh Tế Quốc Dân đã hướng dẫn, chỉ bảo tận tình giúp em hoàn thành chuyên đề này!
CHƯƠNG 1:TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VÀ NGHIỆP VỤ QUẢN LÝ RỦI RO
1.1 VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
1.1.1 Những lý luận chung
Trong nền kinh tế, nhu cầu về vốn để tiến hành đầu tư và các nguồn tiết kiệm có thể phát sinh từ các chủ thể khác nhau. Trong đó, thường xảy ra tình huống: những người có cơ hội đầu tư sinh lời thì thiếu vốn, trái lại những người có vốn nhàn rỗi thì lại không có cơ hội đầu tư hoặc không biết đầu tư vào đâu. Từ đó hình thành nên một cơ chế chuyển đổi từ tiết kiệm sang đầu tư. Cơ chế đó được thực hiện và điều chỉnh trong khuôn khổ một thị trường đó là thị trường tài chính. Trên thị trường tài chính, những người thiếu vốn huy động vốn bằng cách phát hành ra các công cụ tài chính như cổ phiếu, trái phiếu…. Những người có vốn dư thừa, thay vì trực tiếp đầu tư vào máy móc thiết bị, nhà xưởng để sản xuất hàng hoá hay cung cấp dịch vụ, sẽ đầu tư (mua) các công cụ tài chính được phát hành bởi những người cần huy động vốn.
Vậy, thị trường tài chính là nơi diễn ra sự chuyển vốn từ những người dư thừa vốn tới những người thiếu vốn. Thị trường tài chính cũng có thể được định nghĩa là nơi phát hành, mua bán, trao đổi và chuyển nhượng các công cụ tài chính theo các quy tắc, luật lệ đã được ấn định.
Trong nền kinh tế thị trường, sự tồn tại và phát triển của thị trường tài chính là một tất yếu khách quan. Thông qua việc dẫn chuyển vốn, thị trường tài chính có vai trò quan trọng trong việc tích tụ, tập trung và phân phối vốn trong nền kinh tế, trên cơ sở đó làm tăng năng suất và hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế. Thị trường tài chính trực tiếp cải thiện mức sống cho cả những người có vốn và những người cần vốn. Hoạt động trên thị trường tài chính có những tác động, hiệu ứng trực tiếp tới hiệu quả đầu tư của các cá nhân, của các doanh nghiệp, ảnh hưởng tới hành vi của người tiêu dùng, và tới động thái chung của toàn bộ nền kinh tế.
Là một bộ phận cấu thành của thị trường tài chính, thị trường chứng khoán (TTCK) được hiểu một cách chung nhất là nơi diễn ra các giao dịch mua bán, trao đổi các chứng khoán – các hàng hoá và dịch vụ tài chính giữa các chủ thể tham gia. Việc trao đổi mua bán này được thực hiện theo những quy tắc ấn định trước.
Hình thức sơ khai của TTCK đã xuất hiện cách đây hàng trăm năm. Vào khoảng thế kỷ 15, ở các thành phố trung tâm thương mại của các nước phương Tây, trong các chợ phiên hay hội chợ, các thương gia thường tụ tập tại các quán cà phê để thương lượng mua bán, trao đổi hàng hoá. Đặc điểm của hoạt động này là các thương gia chỉ trao đổi với nhau bằng lời nói về các hợp đồng mua bán mà không có sự xuất hiện của bất cứ hàng hoá hay giấy tờ nào. Đến cuối thế kỷ 15, “khu chợ riêng” đã trở thành thị trường hoạt động thường xuyên với những quy ước xác định cho các cuộc thương lượng. Những quy ước này dần trở thành các quy tắc có tính chất bắt buộc đối với các thành viên tham gia.
Sở giao dịch chứng khoán đầu tiên trên thế giới được thành lập năm 1531 tại thành phố Anvers (thuộc nước Bỉ). Toà nhà của Sở giao dịch Anvers có ghi dòng chữ rất ấn tượng “Phục vụ khách hàng thuộc mọi dân tộc và tiếng nói khác nhau”. Có thể coi đó là lời tuyên ngôn đầu tiên của sự ra đời và phát triển của TTCK trên thế giới với nội dung hàm chứa như sau: mọi người đều có thể tham gia vào TTCK với những cách thức, toan tính khác nhau và thị trường này hoạt động không chỉ bó hẹp trong phạm vi một quốc gia mà có tính chất quốc tế.
Từ thời điểm lịch sử đó, TTCK lần lượt được thiết lập ở các nước Châu Âu như: Hà Lan, Anh, Đức, Pháp và mãi đến thế kỷ 19 thị trường chứng khoán mới ra đời ở Mỹ với sự khai trương của Sở giao dịch chứng khoán NewYork (Sở giao dịch chứng khoán lớn nhất thế giới hiện nay với chỉ số Dow – Jone nổi tiếng). Đến nay, TTCK đã được thiết lập ở hầu hết các nước có nền kinh tế thị trường và có thể nói sự phát triển của TTCK gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Không có một nước nào có nền kinh tế phát triển mà không có sự hoạt động của TTCK. Thị trường này được xem là đặc trưng cơ bản, là biểu tượng của nền kinh tế hiện đại. Người ta có thể đo lường và dự tính sự phát triển kinh tế qua diễn biến trên TTCK. Ngày nay, vai trò của thị trường này ngày càng thể hiện rõ nét trong sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.
Hiện nay tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về thị trường chứng khoán, tuy nhiên quan niệm đầy đủ và rõ ràng, phù hợp với sự phát triển chung của TTCK hiện nay, đó là:
“Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các giao dịch mua bán, trao đổi các loại chứng khoán”.
Chứng khoán được hiểu là các loại giấy tờ có giá và có khả năng chuyển nhượng hay bút toán ghi sổ, xác định số vốn đầu tư (tư bản đầu tư). Nó cho phép chủ sở hữu có quyền yêu cầu về thu nhập và tài sản của tổ chức phát hành hoặc quyền sở hữu trong một thời hạn nào đó. Các quyền yêu cầu này có sự khác nhau giữa các loại chứng khoán và tuỳ theo tính chất sở hữu của chúng. Các giao dịch mua bán, trao đổi chứng khoán có thể diễn ra ở thị trường sơ cấp (Primary Market) hay thị trường thứ cấp (Secondary Market), tại Sở giao dịch (Stock Exchange) hay thị trường chứng khoán phi tập trung (Over – The Counter Market), ở thị trường giao ngay (Spot Market) hay thị trường có kỳ hạn (Future Market). Các quan hệ mua bán trao đổi này làm thay đổi chủ sở hữu của chứng khoán, và như vậy, thực chất đây chính là quá trình vận động của tư bản, chuyển từ tư bản sở hữu sang tư bản kinh doanh.
Thị trường chứng khoán không giống với thị trường các hàng hóa thông thường khác vì hàng hoá của thị trường chứng khoán là một loại hàng hoá đặc biệt, là quyền sở hữu về tư bản. Loại hàng hoá này cũng có giá trị và giá trị sử dụng. Như vậy, có thể nói, bản chất của thị trường chứng khoán là thị trường thể hiện mối quan hệ giữa cung và cầu của vốn đầu tư mà ở đó giá cả của chứng khoán chứa đựng thông tin về chi phí vốn hay giá cả của vốn đầu tư. Thị trường chứng khoán là hình thức phát triển bậc cao của nền sản xuất và lưu thông hàng hoá.
Các loại hàng hoá trên thị trường chứng khoán cũng rất đa dạng như: cổ phiếu, trái phiếu (trái phiếu công ty và trái phiếu Chính phủ), các loại chứng khoán phái sinh.
- Cổ phiếu:
Cổ phiếu là một loại chứng khoán vốn được phát hành dưới dạng chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp đối với tài sản hoặc vốn của một công ty cổ phần. Cổ phiếu là công cụ tài chính có thời hạn thanh toán là vô hạn.
Khi một công ty gọi vốn (lúc thành lập hoặc phát triển kinh doanh) thì số vốn cần gọi đó được chia ra thành nhiều phần nhỏ bằng nhau, gọi là cổ phần. Người mua cổ phần được gọi là cổ đông, là người góp vốn vào công ty. Giấy chứng nhận về việc sở hữu cổ phần đó được cấp cho cổ đông được gọi là cổ phiếu. Như vậy, cổ phiếu là chứng khoán vốn được sinh ra từ công ty cổ phần và chỉ có công ty cổ phần mới có cổ phiếu.
Cổ phiếu thể hiện quan hệ đồng sở hữu giữa người phát hành và khách hàng. Giá trị ban đầu ghi trên cổ phiếu được gọi là mệnh giá. Mệnh giá của cổ phiếu chỉ là giá trị danh nghĩa. Tuỳ theo tình hình sản xuất kinh doanh, triển vọng lợi nhuận và chính sách phân phối lợi nhuận mà giá cổ phiếu của công ty được tăng lên hay giảm xuống, dần dần rời xa mệnh giá.
Với tư cách là người sở hữu một phần công ty, cổ đông được hưởng các quyền đối với công ty với mức độ tương ứng tỷ lệ cổ phiếu nắm giữ, đồng thời khi công ty làm ăn thất bại cổ đông cũng phải gánh chịu thiệt hại với một tỷ lệ tương ứng. Cổ đông có thể tiến hành mua bán, chuyển nhượng các cổ phiếu trên thị trường thứ cấp theo quy định của pháp luật.
Cổ phiếu là loại tài sản được đầu tư phổ biến nhất cho các nhà đầu tư, tổ chức trên thế giới. Tuy nhiên do biến động cao về thu nhập và giá nên rủi ro của đầu tư cổ phiếu cũng cao.
Theo tính chất của các quyền lợi mà cổ phiếu mang lại cho cổ đông, có hai loại cổ phiếu cơ bản: cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi.
+ Cổ phiếu thường (hay cổ phiếu phổ thông, cổ phiếu thông thường):
Cổ phiếu thường là loại cổ phiếu có thu nhập không cố định, thu nhập do việc sở hữu cổ phiếu mang lại gọi là cổ tức (hay lợi tức cổ phần). Cổ tức biến động tuỳ theo sự biến động lợi nhuận và chính sách phân phối lợi nhuận của công ty. Tuy nhiên, thị giá cổ phiếu lại rất nhạy cảm trên thị trường, không chỉ phụ thuộc vào lợi nhuận công ty mà còn rất nhiều nhân tố khác như: môi trường kinh tế, thay đổi lãi suất, hay nói cách khác tuân theo quy luật cung cầu. Cụ thể hơn nữa, thị giá cổ phiếu thông thường phụ thuộc vào tăng trưởng kinh tế nói chung và biến động theo chiều ngược lại với biến động lãi suất trái phiếu chính phủ, các công cụ vay nợ dài hạn lãi suất cố định và lãi suất huy động tiền gửi của ngân hàng.
Khi công ty bị phá sản hoặc giải thể phải thanh lý tài sản, cổ đông nắm giữ cổ phiếu thường chỉ được nhận những gì còn lại sau khi công ty trang trải xong tất cả các nghĩa vụ như thuế, nợ và cổ phiếu ưu đãi. Tuy nhiên, cổ phiếu thường được hưởng quyền mua cổ phiếu mới và quyền bỏ phiếu.
Lợi ích của đầu tư cổ phiếu thông thường bao gồm: Thanh khoản cao, tăng trưởng dài hạn, lợi ích về thuế. Rủi ro bao gồm: biến động giá, không ổn định về thu nhập cổ tức, rủi ro phá sản và rủi ro kinh tế khác, các rủi ro ngoại hối và thanh toán khác nếu cổ phiếu là bằng ngoại tệ.
+ Cổ phiếu ưu đãi: Cổ phiếu ưu đãi được phân thành cổ phiếu ưu đãi biểu quyết và cổ phiếu ưu đãi tài chính.
Cổ phiếu ưu đãi biểu quyết là các cổ phiếu dành cho các cổ đông sáng lập, tuỳ theo công ty có thể quy định 1 cổ phiếu ưu đãi biểu quyết có quyền biểu quyết bằng bao nhiêu lần một cổ phiếu thường trong Đại hội cổ đông hay quyết định những vấn đề quan trọng của công ty. Tuy nhiên cổ đông có cổ phiếu ưu đãi biểu quyết phải nắm giữ cổ phiếu này trong một thời gian nhất định, không được chuyển nhượng, trao đổi.
Cổ phiếu ưu đãi tài chính tương tự như cổ phiếu thường nhưng có một số hạn chế như cổ đông sở hữu cổ phiếu này không được tham gia bầu cử, ứng cử vào Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát của công ty. Nhưng bù lại, họ được hưởng ưu đãi về tài chính theo một mức cổ tức riêng biệt có tính cố định hàng năm, được ưu tiên chia cổ tức và được ưu tiên phân chia tài sản còn lại của công ty sau khi thanh lý, giải thể trước cổ phiếu thường.
Thị giá của cổ phiếu ưu đãi phụ thuộc vào sự thay đổi lãi suất trái phiếu kho bạc và tình hình tài chính của công ty.
Việc đầu tư vào cổ phiếu không chỉ đơn giản là nhận được cổ tức mà quan trọng hơn chính là chênh lệch giá cổ phiếu trên thị trường (lãi vốn). Khi cổ phiếu của công ty được nhiều người mua chứng tỏ thị trường tin tưởng vào hiện tại và khả năng phát triển của công ty trong tương lai và ngược lại.
- Trái phiếu công ty:
Trái phiếu là loại chứng khoán quy định nghĩa vụ của người phát hành phải trả cho người nắm giữ chứng khoán đó một khoản tiền xác định, vào những thời hạn cụ thể và theo những điều kiện nhất định. Trái phiếu là chứng khoán nợ, người mua trái phiếu là trái chủ, là chủ nợ của các tổ chức phát hành, có quyền đòi các khoản thanh toán theo cam kết về khối lượng và thời hạn, song không có quyền tham gia vào hoạt động của tổ chức phát hành. Trái phiếu có thể phát hành dưới dạng chứng chỉ vật chất hoặc bút toán ghi sổ.
Trái phiếu công ty là những trái phiếu do các công ty phát hành để vay vốn trung và dài hạn. Khi công ty bán trái phiếu thì công ty là người đi vay và người mua trái phiếu là chủ nợ (trái chủ). Công ty phải cam kết thanh toán cả gốc lẫn lãi cho trái chủ theo những quy định đã nêu trong hợp đồng phát hành trái phiếu. Khi công ty giải thể hoặc phá sản thì trái phiếu được ưu tiên thanh toán trước các cổ phiếu. Lãi suất của trái phiếu công ty thường khá cao, giúp công ty huy động khối lượng vốn lớn trong một thời gian ngắn
Trái phiếu công ty có thể có nhiều loại: Trái phiếu có đảm bảo (được đảm bảo bằng các tài sản của công ty), Trái phiếu không có đảm bảo, Trái phiếu có thể mua lại (người phát hành có thể mua lại trước khi đáo hạn), Trái phiếu có thể bán lại (trái chủ có thể bán lại trước khi đáo hạn), Trái phiếu có thể chuyển đổi thành cổ phiếu thường…
- Các loại chứng khoán Chính phủ:
Là các công cụ vay nợ do Chính Phủ hoặc những ngành đặc biệt như ngành giao thông, bưu điện, xi măng, điện lực được Chính Phủ uỷ quyền phát hành. Nó bao gồm: Trái phiếu Chính Phủ, Tín phiếu kho bạc, Công trái quốc gia…. Những loại chứng khoán này được phát hành nhằm bù đắp sự thiếu hụt Ngân sách Nhà nước, để xây dựng các công trình giao thông công cộng hoặc để giải quyết những khó khăn về tài chính. Đặc điểm chung của các loại chứng khoán này là rủi ro rất nhỏ, coi như không có rủi ro.
- Các loại chứng khoán phái sinh (derivatives):
Chứng khoán phái sinh là các công cụ tài chính có nguồn gốc từ chứng khoán và có quan hệ chặt chẽ với các chứng khoán gốc. Các chứng khoán phái sinh được hình thành do nhu cầu giao dịch của người mua và người bán. Nó phát triển phụ thuộc vào mức độ phát triển của thị trường chứng khoán. Có thể phân loại chứng khoán phái sinh thành các loại như sau: Quyền mua trước, chứng khế, hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai, quyền chọn…
Trước yêu cầu đổi mới và phát triển kinh tế, phù hợp với các điều kiện kinh tế - chính trị, xã hội trong nước và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, trên cơ sở tham khảo có chọn lọc các kinh nghiệm và mô hình thị trường chứng khoán trên thế giới, Việt Nam đã quyết định thành lập TTCK với những đặc thù riêng biệt. Sự ra đời của TTCK Việt Nam được đánh dấu bằng việc đưa vào vận hành Trung tâm Giao dịch Chứng khoán tại thành phố Hồ Chí Minh (HoSTC) ngày 20/07/2000, và thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/07/2000. Năm năm sau đó sàn giao dịch chứng khoán Hà Nội (HaSTC) cũng đi vào hoạt động đánh dấu bước phát triển mới của TTCK Việt Nam.
1.1.2 Lý thuyết thị trường hiệu quả
Khi nói đến thị trường chứng khoán chúng ta không thế không nhắc đến Lý thuyết thị trường hiệu quả bởi đây là lý thuyết cốt lõi của thị trường này. Giả thiết giá chứng khoán phản ánh các triển vọng của công ty thì những biến động có chu kỳ của nền kinh tế sẽ có thể được thể hiện trong các biến động của giá cả chứng khoán đó. Nhận định này đã được Maurice Kendall kiểm tra trong năm 1953. Ông đã phát hiện một điều ngạc nhiên là không thể dự đoán được biến động của giá chứng khoán. Giá cả thay đổi ngẫu nhiên, giá cả có thể lên xuống bất kỳ trong bất kỳ ngày giao dịch nào. Sau nhiều tranh cãi về sự diễn giải kết quả nghiên cứu này trên thị trường chứng khoán, người ta thấy rằng sự biến động ngẫu nhiên của giá chứng khoán chính là bằng chứng của một thị trường hoạt động tốt, hiệu quả, chứ không phải là hiện tượng bất thường của chứng khoán.
Giá chứng khoán biến động dựa vào các thông tin mới (không dự đoán được) cũng biến động theo chiều hướng không dự đoán được. Đây chính là cốt lõi của lập luận rằng giá chứng khoán là một chuỗi ngẫu nhiên không thể dự đoán trước. Nếu giá chứng khoán có thể được dự đoán, đó là bằng chứng của một thị trường không hiệu quả, vì khả năng dự đoán cho thấy rằng không phải tất cả các thông tin trên thị trường đã được phản ánh trong giá chứng khoán. Trên cơ sở này, nhận định giá chứng khoán đã phản ánh toàn bộ thông tin trên thị trường gọi là Giả thuyết thị trường hiệu quả (Efficient Market Hypothesis – EMH).
Thông thường, dựa trên sự khác nhau của khái niệm “tất cả thông tin” trên thị trường được phản ánh vào giá chứng khoán, người ta phân ra ba cấp độ của EMH.
EMH cấp thấp: giả định giá cả chứng khoán đã phản ánh các thông tin có thể thu thập thông qua nghiên cứu số liệu giao dịch như biến động giá, khối lượng, lãi suất trong quá khứ. EMH cấp độ này cho thấy việc phân tích xu hướng là không có giá trị gì. Số liệu chứng khoán trong quá khứ được công bố rộng rãi và không mất tiền mua. Nếu những số liệu này có thể đưa ra các dấu hiệu tin cậy về xu thế giá chứng khoán trong tương lai thì tất cả các nhà đầu tư đã sử dụng dấu hiệu này. Cuối cùng, các dấu hiệu này sẽ mất giá trị vì chúng đã được phổ biến trên toàn t