Đề tài Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam trong quá trình hình thành và phát triển tập đoàn kinh tế nhà nước từ Trung Quốc

Bối cảnh quốc tế trong những thập kỷ cuối của thế kỷ 20 đã có nhiều thay đổi lớn lao. Sự cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt, việc toàn cầu hoá lĩnh vực tài chính và sự liên kết của các thị trường tài chính được tăng cường. Các thị trường riêng biệt và các nền kinh tế quốc gia ngày càng phụ thuộc lẫn nhau, cùng với cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đã trở thành những yếu tố đặc biệt quan trọng thúc đẩy sự hợp tác

doc67 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1383 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam trong quá trình hình thành và phát triển tập đoàn kinh tế nhà nước từ Trung Quốc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Bối cảnh quốc tế trong những thập kỷ cuối của thế kỷ 20 đã có nhiều thay đổi lớn lao. Sự cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt, việc toàn cầu hoá lĩnh vực tài chính và sự liên kết của các thị trường tài chính được tăng cường. Các thị trường riêng biệt và các nền kinh tế quốc gia ngày càng phụ thuộc lẫn nhau, cùng với cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đã trở thành những yếu tố đặc biệt quan trọng thúc đẩy sự hợp tác và liên minh chiến lược giữa các công ty, dẫn đến sự mở rộng và phát triển mạnh mẽ của các tập đoàn kinh tế. Tập đoàn kinh tế trở thành biểu tượng sức mạnh của một quốc gia, bảo vệ nền kinh tế trong nước trước sự thâm nhập của các nền kinh tế khác. Cũng như nhiều nước đang phát triển trên thế giới, Chính phủ Trung Quốc đã nhận thức rõ được tầm quan trọng của việc hình thành và phát triển các tập đoàn kinh tế nếu muốn cạnh tranh bình đẳng với các nước phát triển hơn. Với đặc điểm là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, Trung Quốc đã chọn cho mình hướng đi là thiết lập các tập đoàn kinh tế của nhà nước – một dạng đặc biệt của mô hình tập đoàn kinh tế – thông qua quá trình cải cách toàn diện doanh nghiệp nhà nước. Hướng đi này tuy còn có những hạn chế cần khắc phục nhưng bước đầu đã đem lại những kết quả khả quan. Việt Nam đang từng bước hội nhập kinh tế quốc tế, việc thành lập các tập đoàn kinh tế ngày càng trở thành yêu cầu bức thiết và với lợi thế là một nước đi sau chúng ta có thể học hỏi được những kinh nghiệm trong quá trình thành lập và phát triển các tập đoàn kinh tế từ nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là từ Trung Quốc – một đất nước có rất nhiều điểm tương đồng với nước ta trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội….Đây cũng là những nội dung chính được đề cập trong luận văn này. Luận văn bao gồm 3 chương: Chương 1: Khái quát chung về cải cách DNNN ở Trung Quốc từ 1978 đến nay. Chương 2: Mô hình tập đoàn kinh tế của Trung Quốc. Chương 3: Những bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam trong hình thành và phát triển các tập đoàn kinh tế nhà nước. Chương 1 kháI quát chung về cảI cách doanh nghiệp nhà nước ở trung quốc từ 1978 đến nay 1.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của cải cách doanh nghiệp nhà nước ở Trung Quốc. 1.1.1. Cơ sở lý luận. Trong quá trình xây dựng và phát triển về mặt lý luận cho công cuộc cải cách nền kinh tế nói chung và cải cách doanh nghiệp nhà nước (DNNN) nói riêng, Trung Quốc luôn kế thừa và phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin trong điều kiện lịch sử mới. * Về tính độc lập tự chủ của các chủ thể kinh tế. Khi nghiên cứu chủ nghĩa tư bản(CNTB) ở giai đoạn tự do cạnh tranh, Mác-Anghen đã đi đến nhận định khái quát rằng: nâng cao năng suất lao động, sản phẩm thặng dư là cái cần thiết cho sự phát triển của tất cả mọi xã hội. Để đạt mục đích này, sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa cần dựa trên tiền đề khách quan : “những lao động tư nhân tiến hành độc lập với nhau” và “tiến hành việc trao đổi hàng hoá giữa các chủ thể kinh tế”. Trong những điều kiện cạnh tranh tự do tư bản chủ nghĩa, tính độc lập tự chủ của các chủ thể kinh tế được thể hiện ở chỗ: Các chủ thể kinh tế tự do tiến hành sản xuất, kinh doanh hàng hoá và cạnh tranh với nhau. Thông qua việc áp dụng các hình thức cạnh tranh trong cùng ngành và cạnh tranh giữa các ngành sản xuất khác nhau, các chủ thể kinh tế tìm mọi biện pháp nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành, thu nhiều lợi nhuận. Thực tế kinh tế thế giới hiện đại cũng chứng minh rằng: càng tôn trọng tính độc lập, tự chủ cuả các chủ thể sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, các quốc gia càng có được những bước phát triển đáng kể về lực lượng sản xuất. * Về quyền sở hữu tách khỏi quyền sử dụng. Nghiên cứu loại hình tư bản trong giai đoạn tự do cạnh tranh của CNTB, Mác-Anghen đã cho ta biết: Tư bản công nghiệp không phải là loại hình tồn tại duy nhất của tư bản mà ở đó còn có tư bản cho vay…đó chính là do phân công lao động tạo thành. Tư bản cho vay có đặc trưng là quyền sở hữu tư bản tách rời quyền sử dụng tư bản. Thực chất của việc cho vay là nhường lại quyền sử dụng tư bản cho người khác. ở đây, cùng một tư bản nhưng đối với người đi vay thì nó là tư bản hoạt động, chức năng của nó là tạo ra lợi nhuận. Do đó, thực chất của lợi tức chỉ là một bộ phận của giá trị thặng dư mà nhà tư bản đi vay phải trả cho nhà tư bản cho vay. Việc tách tư bản tiền tệ ra khỏi tư bản sản xuất thành tư bản cho vay và phân biệt quyền sở hữu với quyền sử dụng tiền tệ thông qua hệ thống tín dụng, ngân hàng đã cho phép tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi cho các chủ thể kinh doanh hoạt động và từ đó tạo động lực mạnh mẽ phát triển nền kinh tế hàng hóa theo cơ chế thị trường. Chính khả năng cho phép “tách rời quyền sở hữu và quyền sử dụng” của lý luận Mácxít nêu trên đã và thực sự trở thành một trong những nguyên tắc, chìa khoá quan trọng nhất để định hướng tiến hành cải cách DNNN ở Trung Quốc nói riêng, chuyển đổi và phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường nói chung của Trung Quốc. * Về mô hình doanh nghiệp. Nghiên cứu CNTB, Mác- Anghen đã khẳng định sự cần thiết khách quan của hình thức tổ chức kinh tế phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Các nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mác đã sớm chỉ rõ vai trò và triển vọng to lớn của loại hình sở hữu và công ty cổ phần với tư cách là hình thức phát triển tột cùng của chế độ tư hữu, trong đó tính xã hội đã đạt tới mức cao nhất, và do đó, đây là phương thức kinh doanh chủ yếu của xã hội hiện đại… Hình thức sở hữu này đã thể hiện những tác động to lớn của nó đối với sự phát triển kinh tế. Vì : + Nó huy động tốt nhất các nguồn vốn xã hội. + Phân phối và lưu chuyển vốn hữu hiệu tới những nơi có hiệu quả cao + Đặt quá trình sử dụng và lưu chuyển vốn dưới sự kiểm soát rộng rãi và công khai của xã hội thông qua các thông tin công khai về hoạt động tài chính của các công ty cổ phần. + Giảm bớt sự đối kháng giữa chủ sỡ hữu và người lao động, do phần lớn số lao động trong công ty cổ phần cũng là cổ đông. Công ty cổ phần là tiền đề cho sự ra đời của của các ngành công nghiệp nặng và sự hình thành các tập đoàn tư bản tài chính. Cùng với sự xâm nhập cổ phần của tư bản ngân hàng vào các lĩnh vực sản xuất công nghiệp cũng là lúc báo hiệu tự do canh tranh của CNTB kết thúc, chuyển sang giai đoạn có đặc điểm kinh tế như Lênin đã chỉ ra: “…Những công ty độc quyền tư bản công nghiệp đã thay thế cho cạnh tranh tự do tư bản công nghiệp… ”. Lênin cũng chỉ rõ logic phát triển để nảy sinh các hình thức tổ chức công ty cổ phần ở giai đoạn độc quyền là : “Cạnh tranh tự do là đặc tính cơ bản của CNTB và của nền sản xuất hàng hoá nói chung. Độc quyền là cái ngược hẳn với cạnh tranh tự do. Nhưng chúng ta đã thấy cạnh tranh tự do biến thành độc quyền trong khi tạo ra nền sản xuất lớn, loại bỏ nền sản xuất nhỏ, thay thế nền sản xuất lớn bằng một nền sản xuất lớn hơn nữa, thúc đẩy sự tập trung sản xuất và tư bản đến một trình độ nhất định làm cho tổ chức độc quyền xuất hiện: Cartel, Syndicate, Trust...”. Các tổ chức độc quyền trên ra đời thâu tóm trong tay hầu hết các ngành kinh tế. Sự phát triển đó đòi hỏi nhà nước phải ngày càng tham gia vào các quá trình kinh tế bằng các đạo luật, thuế khoá, tiền tệ và lập ra khu vực kinh tế nhà nước, nhằm duy trì sự ổn định và tăng trưởng nền kinh tế, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế . 1.1.2. Thực tiễn hoạt động của doanh nghiệp nhà nước trước cải cách. DNNN ở Trung Quốc đã có một quá trình phát triển lâu dài và được hình thành, bổ sung từ nhiều nguồn khác nhau song hầu hết các doanh nghiệp nhà nước được hình thành do cải tạo công thương nghiệp đối với tư sản dân tộc (123.000 doanh nghiệp của tư sản dân tộc, hơn 4,02 triệu doanh nghiệp thương mại) hoặc do nhà nước đầu tư và xây dựng mới theo mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung của Liên Xô cũ. Trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế ở Trung Quốc, DNNN đã có một vai trò hết sức quan trọng, là lực lượng chính tạo nên sự thay đổi kết cấu kinh tế công nghiệp; năm 1949 công nghiệp chỉ chiếm 15% GDP, nông nghiệp chiếm 85% GDP. Đến năm 1991, trị giá sản lượng công nghiệp lên tới 77%, nông nghiệp là 22% GDP. Sự phát triển DNNN đã thu hút số lượng lao động lớn. Trong 40 năm (1950-1990) số người làm trong DNNN từ 5,1 triệu tăng lên 43,64 triệu. DNNN là nguồn cung cấp những sản phẩm chủ yếu cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu, đồng thời là nguồn thu chủ yếu cho ngân sách nhà nước Trung Quốc. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, các DNNN đã bộc lộ nhiều mặt yếu kém. Ngay từ đầu, việc quyết định đầu tư vào phát triển DNNN đã dựa vào ý chí chủ quan chứ không được kiểm định và điều chỉnh bởi thị trường, từ đó không đánh giá được nhu cầu xã hội về các loại hàng hoá….Khi thành lập rồi thì doanh nghiệp lại bị trói buộc trong cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung, chúng bị quản lý ở rất nhiều tầng nấc từ Quốc vụ viện đến phường xã. Lợi nhuận của doanh nghiệp làm ra hầu hết phải nộp vào ngân sách nhà nước theo kiểu “tát cạn ao để bắt cá”, “giết gà lấy trứng” làm cho doanh nghiệp luôn bị thiếu vốn, không thể tái đầu tư phát triển. Phân phối theo chế độ “bình quân và biên chế suốt đời” đã lọt được qua cổng là là người của doanh nghiệp, chỉ cần có đi làm là được hưởng tiền lương cố định, không kể làm tốt hay làm xấu. Quyền sở hữu tài sản DNNN thuộc về nhà nước, nhưng quan hệ về quyền tài sản không rõ ràng, chức năng của chính quyền và doanh nghiệp lẫn lộn, mọi người đều có phần nhưng không ai chịu trách nhiệm, quản lý lộn xộn, lãng phí nghiêm trọng, hiệu quả kém. Bảng 1 tình hình sản xuất tại các doanh nghiệp công nghiệp nhà nước trung quốc 1975-1978 Chỉ tiêu 1957 1978 - Giá trị tổng(triệuNDT-giá 1970) 53.075 327.559 - Tài sản cố định(triệu NDT) 33.660 319.340 - Vốn lưu động (triệu NDT giá hiện hành) 9.050 140.730 - Số CBCN bình quân hằng năm(nghìn người) 7.346 29.550 - Giá trị sản lượng/100 NDT vốn TSCĐ 158 103 - Giá trị sản lượng/100 NDT vốn lưu động 186 315 - Giá trị sản lượng/1 CBCNV 7225 11.085 Nguồn: Báo cáo Trung Quốc sau năm 1978 (Uỷ ban kế hoạch nhà nước Việt Nam 1988) Nhận xét: Giá trị tài sản cố định công nghiệp năm 1978 so với năm 1957 đã tăng lên 9 lần, nhưng sản lượng công nghiệp lại chỉ tăng lên 6 lần. Như vậy, hiệu quả đồng vốn đầu tư chỉ bằng 2/3 so với năm 1957. Cùng với thời điểm so sánh, số lượng lao động tăng gấp 4 lần, nhưng năng suất lao động lại chỉ được 50%. Sau một thời gian cải cách, mặc dù đã đạt được một số thành tựu nhất định, nhưng các xí nghiệp quốc doanh ở Trung Quốc vẫn ở tình trạng khốn đốn, vì thừa lao động, thiết bị lạc hậu, quản lý kém và nợ nần nghiêm trọng. Thể chế kế hoạch hoá tập trung ở Trung Quốc đã mất dần hiệu lực và nó không phù hợp với yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường, từ đó đẩy nền kinh tế Trung Quốc lâm vào tình trạng khủng hoảng. Cải cách tổng thể cơ chế nền kinh tế Trung Quốc nói chung và khu vực DNNN nói riêng được đặt ra như một tất yếu không thể trì hoãn… 1.2. Các giải pháp cải cách DNNN ở Trung Quốc. 1.2.1. Tách quyền sở hữu nhà nước và quyền kinh doanh của DNNN. Trong thời kì kinh tế kế hoạch hoá tập trung ở Trung Quốc nhà nước vừa là chủ sở hữu vừa là cơ quan lập kế hoạch sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp dẫn đến tình trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp không gắn với thị trường mà chỉ nhằm hoàn thành kế hoạch nhà nước đã đề ra, không tính đến hiệu quả kinh doanh. Cải cách DNNN ở Trung Quốc đã tập trung vào việc phân định rõ vai trò của nhà nước và vai trò của DNNN thông qua việc tách quyền sở hữu và quyền kinh doanh nhằm thực hiện quyền tự chủ kinh doanh của DNNN. Trong giai đoạn 1978 –1984, Trung Quốc tiến hành thí điểm mở rộng quyền tự chủ kinh doanh đối với 66.000 DNNN. Trung Quốc một mặt chuyển từ chế độ cấp phát vốn đầu tư và vốn lưu động cho các doanh nghiệp trước đây thành các hình thức vay ngân hàng, mặt khác, Trung Quốc còn đẩy mạnh cải cách ở các lĩnh vực khác như: Mở rộng quyền lập kế hoạch sản xuất, quyền mua bán sản phẩm, quyền định giá, quyền sử dụng vốn, quyền trả lương, quyền sử dụng lao động…xây dựng một số đặc khu kinh tế như Thâm Quyến, Chu Hải, Sán Dầu, Hạ Môn, đây là những môi trường để mở rộng quyền tự chủ cho DNNN. Trong giai đoạn cải cách tiếp theo từ 1984 – 1992, Trung Quốc thực hiện chủ trương tăng cường sức sống cho các DNNN bằng cách tích cực đẩy mạnh viêc giao quyền cho các doanh nghiệp, tách quyền sở hữu khỏi quyền kinh doanh, phân định rõ chức năng của chính quyền và doanh nghiệp, phát huy đúng chức năng quản lý kinh tế của bộ máy chính quyền. Chính quyền các cấp không được trực tiếp làm công việc kinh doanh. Các doanh nghiệp trở thành một thực thể tương đối độc lập: lãi ăn, lỗ chịu, có khả năng cạnh tranh, tự cải tạo để phát triển và có tư cách pháp nhân. Nhà nước cũng giao trách nhiệm cho các doanh nghiệp qua các chế độ khác như khoán kinh doanh, chế độ nộp thuế… Từ năm 1992 đến nay, Trung Quốc đã đi sâu vào cải cách toàn diện DNNN, nhằm thực hiện hàng loạt quyền lợi của DNNN đã được quy định trong “Luật doanh nghiệp công nghiệp thuộc sở hữu toàn dân của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa”. Những quyền lợi đó là thực hiện một cách triệt để việc tách bạch giữa quan hệ nhà nước với doanh nghiệp để nhà nước tập trung vào chức năng quản lý vĩ mô, còn chức năng kinh doanh thuộc về doanh nghiệp. Hơn nữa, việc tách bạch này còn được thể chế hoá trong văn bản mang tính cưỡng chế là Luật khiến cho cả cơ quan nhà nước, cơ quan kinh tế, tổ chức xã hội phải tuân theo, sức mạnh của nó mang tính tổng hợp. Việc Trung Quốc thực hiện tách quyền sở hữu và quyền kinh doanh của DNNN một cách triệt để đã đem lại nhiều hệ quả như: đa dạng hoá quyền sở hữu và tiêu biểu là sự phát triển của chế độ cổ phần, di chuyển hợp lý và phối hợp tối ưu các yếu tố sản xuất, thúc đẩy viêc tạo lập môi trường kinh doanh ngoài quốc doanh … nhanh chóng đưa DNNN hoạt động trong cơ chế thị trường. Trên cơ sở đó Trung Quốc xúc tiến việc đi sâu cải cách nội bộ doanh nghiệp, thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của doanh nghiệp trên nhiều phương diện. 1.2.2 Thực hiện sự tự chủ kinh doanh của DNNN. * Tự chủ về tài chính: Trong thể chế kế hoạch hoá tập trung ở Trung Quốc trước đây tài chính của doanh nghiệp được thực hiện theo cơ chế cấp phát, nếu doanh nghiệp bị thua lỗ thì nhà nước sẽ bù đắp, khi chuyển sang cơ chế thi thị trường, tự chủ về tài chính đối với doanh nghiệp là yêu cầu khách quan. Yêu cầu về tự chủ tài chính đòi hỏi DNNN phải thực hiện hoàn toàn kinh doanh theo nguyên tắc có lợi nhuận để tái sản xuất mở rộng. Doanh nghiệp có thể chủ động, tự chịu trách nhiệm trong việc huy động vốn từ nhiều nguồn để mở rộng quy mô sản xuất, đầu tư chiều sâu và tìm các biện pháp để sử dụng vốn có hiệu quả trong khuôn khổ pháp luật. DNNN phải biết tích tụ vốn biết vay, biết trả. Các chủ DNNN được phép linh hoạt về tài chính, chính phủ chỉ tiến hành kiểm tra, thanh tra khi phát hiện thấy doanh nghiệp có vấn đề. Sự can thiệp của chính phủ chủ yếu là việc tạo ra môi trường hành lang để hoạt động tài chính thuận lợi, phục vụ đắc lực và có hiệu quả cao nhất cho hoạt động sản xuất và trao đổi hàng hoá. Thực hiện chế độ quản lý vốn và tài sản trong các DNNN đã giúp cho các doanh nghiệp tăng cường quyền tự chủ tài chính, thông qua cơ chế vốn riêng của doanh nghiệp, từng bước đưa doanh nghiệp độc lập vào cạnh tranh thị trường, giảm bớt các chi phối về vốn của nhà nước, khuyến khích các doanh nghiệp tăng vốn, đó chính là nội dung cơ bản của tự chủ về tài chính của doanh nghiệp. Để ổn định tự chủ về tài chính, hoàn thiện quyền tự chủ kinh doanh, chương trình cải cách doanh nghiệp còn coi trọng việc cho phép các DNNN đó được tự chủ các mặt liên quan khác. * Tự chủ về lao động, tiền lương và phân phối thu nhập: Cải cách DNNN ở Trung Quốc đã coi trọng nội dung về tự chủ lao động. Năm 1979 Trung Quốc thực hiện thí điểm cải cách quản lý doanh nghiệp tại 8 doanh nghiệp tại 3 thành phố: Bắc Kinh, Thiên Tân, Thượng Hải, cho phép các doanh nghiệp lựa chọn, tuyển dụng nhân công và quyền khen thưởng, xử phạt, sa thải công nhân viên chức theo qui chế. Sau thời gian thực hiện nội dung này quyền tự chủ về lao động được mở rộng thêm. Doanh nghiệp có quyền tuyển chọn, sử dụng công nhân viên chức theo kế hoạch lao động của nhà nước, có quyền thưởng phạt dựa trên biểu hiện của các công nhân viên. Doanh nghiệp có quyền dựa vào nguyên tắc tinh giảm và nâng cao hiệu quả kinh tế, dựa trên nhu cầu thực tế để sắp xếp cơ cấu nhân sự và định mức biên chế của mình. Tự chủ về lao động theo yêu cầu cải cách DNNN ở Trung Quốc cũng đã đặt rõ yêu cầu làm chủ tiền lương và phân phối thu nhập. Trong thời kỳ 1978 –1984, Trung Quốc đã áp dụng văn bản “Quy định tạm thời về việc mở rộng tự chủ của doanh nghiệp công nghiệp nhà nước”, trong đó quy định doanh nghiệp có quyền dựa vào các chính sách hữu quan của nhà nước để xác định các hình thức tiền lương: lương theo thời gian, lương theo sản phẩm, phân phối tiền thưởng và sắp xếp phúc lợi…Giám đốc có quyền thưởng phạt đối với công nhân viên chức theo quy định của nhà nước. Từ năm 1992 đến nay, dựa trên cơ sở “ Luật doanh nghiệp công nghiệp thuộc sở hữu toàn dân của nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa”, nhiều doanh nghiệp thuộc các thành phố: Thiên Tân, Thượng Hải, Hắc Long Giang đã sôi nổi kết hợp chặt chẽ đồng bộ quyền làm chủ lao động, tiền lương, bảo hiểm, hợp đồng lao động, cùng với những kinh nghiệm quản lý của các doanh nghiệp chung vốn nước ngoài, khiến cho viêc tự chủ của doanh nghiệp không ngừng được mở rộng. * Tự chủ về kế hoạch và thị trưòng: Suốt 30 sau khi thành lập nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, nền kinh tế Trung Quốc vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá và tập trung cao độ, với chiến lươc ưu tiên phát triển công nghiệp nặng trong điều kiện khiên cưỡng, nhà nước phân bổ các nguồn lực một cách chủ quan, thực hiện hệ thống quản lý ngành theo chiều dọc và hệ thống hành chính theo chiều ngang ở địa phương, chức năng của hai hệ thống này không rõ ràng chồng chéo, gây ra tình trạng tranh giành quyền lực một cách phi kinh tế, làm triệt tiêu động lực phát triển của nền kinh tế, cơ chế thị trường bị thủ tiêu. Do đó một trong các nội dung qua trọng của cải cách DNNN ở Trung Quốc là từng bước thực hiện tự chủ kế hoạch và thị trường đối với các doanh nghiệp. Ngay từ khi bắt đầu cải cách mở cửa, Trung Quốc đã cho phép các doanh nghiệp có kế hoạch bổ sung dựa trên nhu cầu phát triển sản xuất và nhu cầu thị trường ngoài kế hoạch kinh tế mà nhà nước giao. Các doanh nghiệp có thể dựa vào chính sách giá cả do nhà nước quy định để tiêu thụ các sản phẩm sản xuất ngoài kế hoạch, hoặc có thể uỷ thác cho các ngành thương nghiệp, ngoại thương, vật tư tiêu thụ. Doanh nghiệp có quyền tham gia hoặc tổ chức hoạt động hợp tác kinh tế liên ngành, liên khu vực, có quyền chọn đối tác tổ chức hợp tác sản xuất hoặc mở rộng thị trường. 1.2.3. Đổi mới các hình thức tổ chức DNNN. * Công ty hoá: Cho rằng chế độ công ty là định hướng cần thiết cho cải cách DNNN, Trung Quốc tiến hành chuyển các DNNN đang hoạt động theo Luật xí nghiệp quốc hữu (ban hành năm 1998) đủ điều kiện theo quy định thành dạng công ty hoàn toàn vốn nhà nước hoạt động theo Luật công ty (ban hành năm 1993). + Về nguyên tắc Trung Quốc quy định rõ: - Công ty hoạt động độc lập. - Thực hiện dân chủ song trùng (dân chủ đối với người góp vốn, các cổ đông và công nhân viên chức) - Công khai hoá tài sản, thực hiện chế độ công khai định kỳ cho cá cổ đông về nợ đọng, vốn. - Trách nhiệm và quyền hạn rõ ràng. - Mở cửa để kết hợp kinh doanh. - Chuẩn mực hoá hành vi. - Nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật. + Về hình thức, Trung Quốc chủ yếu áp dụng hai hình thức công ty: Công ty trách nhiệm hữu hạn: Công ty trách nhiệm hữu hạn có hai người trở lên hoặc hai cổ đông trở lên tổ chức ra; mỗi người góp vốn hoặc mỗi cổ đông chịu trách nhiệm đối với công ty theo số vốn của họ, toàn bộ số vốn không chia thành cổ phần bằng nhau, không phát hành cổ phiếu, thường phát hành giấy chứng nhận cổ phần. Theo pháp luật của Trung Quốc, người góp vốn hoặc cổ đông, có thể góp bằng tiền và cũng có thể
Tài liệu liên quan