Đề tài Bản chất, vai trò, chức năng của khâu Tài chính doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Các bạn hãy cho biết: đâu là điểm yếu nhất của doanh nghiệp Việt Nam trong nền kinh tế hội nhập và nêu các giải pháp khắc phục

Chủ tịch Hội Đồng Cố Vấn Hội Nghị Thượng Đỉnh “Asian Banker 2008” diễn ra tại Hà Nội cho biết hiện nay nhiều doanh nghiệp từ các quốc gia trên thế giới đang có xu hướng đầu tư vào Việt Nam,đặc biệt là thị trường tài chính. Tuy nhiên ông cho rằng cần phải có thời gian để nền kinh tế Việt Nam thích nghi với các thay đổi trong thời kỳ hội nhập quốc tế và áp dụng kinh nghiệm của các nước trong lĩnh vực tài chính

doc34 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1518 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Bản chất, vai trò, chức năng của khâu Tài chính doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Các bạn hãy cho biết: đâu là điểm yếu nhất của doanh nghiệp Việt Nam trong nền kinh tế hội nhập và nêu các giải pháp khắc phục, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Chủ tịch Hội Đồng Cố Vấn Hội Nghị Thượng Đỉnh “Asian Banker 2008” diễn ra tại Hà Nội cho biết hiện nay nhiều doanh nghiệp từ các quốc gia trên thế giới đang có xu hướng đầu tư vào Việt Nam,đặc biệt là thị trường tài chính. Tuy nhiên ông cho rằng cần phải có thời gian để nền kinh tế Việt Nam thích nghi với các thay đổi trong thời kỳ hội nhập quốc tế và áp dụng kinh nghiệm của các nước trong lĩnh vực tài chính Tài chính doanh nghiệp là khâu cơ sở của cả hệ thống tài chính vì đây là khâu sáng tạo ra giá trị mới, sáng tạo ra thu nhập cho xã hội, tạo ra nguồn thu chủ yếu của Nhà nước làm cơ sở phát triển kinh tế cho đất nước. Tài chính doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả thì hệ thống tài chính quốc gia mới có nền móng vững chắc để phát triển. Từ những lý do trên, nhóm chúng tôi quyết định chọn đề tài: “Bản chất, vai trò, chức năng của khâu Tài chính doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Các bạn hãy cho biết: đâu là điểm yếu nhất của doanh nghiệp Việt Nam trong nền kinh tế hội nhập và nêu các giải pháp khắc phục”. Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong quá trình nghiên cứu, tìm hiểu đề tài nhưng nhóm chúng tôi không tránh khỏi sai sót, rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của cô và các bạn. Xin chân thành cảm ơn ! I. CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN 1. Bản chất của tài chính doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường Quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp là quá trình tuần hoàn và luân chuyển vốn và nó được mô tả qua sơ đồ sau: Hàng hoá và dịch vụ đầu vào Tiền tệ Tư liệu SX Sức lao động Sản xuất và chuyển hoá Hàng hoá và dịch vụ đầu ra Tiền tệ Giai đọan 1 Giai đọan 2 Giai đọan 3 Vốn KD Vốn DH (TLLĐ) Vốn NH (ĐTLĐ) Vốn CSH Vốn vay T H H’ T’ Sản phẩm mới T’>T Hình 1.1. Quá trình tuần hoàn và luân chuyển vốn trong doanh nghiệp Giai đoạn 1: Để khởi đầu hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải có vốn bằng tiền. Vốn này được tạo lập từ nhiều nguồn nhưng chủ yếu là từ hai nguồn chính: nợ phải trả và nguồn vốn chủ sở hữu. Doanh nghiệp sử dụng vốn tiền tệ trên để mua các yếu tố đầu vào, bao gồm: tư liệu lao động, đối tượng lao động, sức lao động. Số vốn dùng để mua tư liệu lao động (đất đai, máy móc, thiết bị..) hình thành vốn dài hạn, số vốn dùng để mua đối tượng lao động (nguyên vật liệu, nhiên liệu, trả lương cho lao động..) hình thành vốn ngắn hạn. Ở giai đoạn này vốn chuyển từ hình thái tiền tệ sang hình thái hàng hóa: T- H. Giai đoạn 2: Là giai đoạn sản xuất và chuyển hoá các yếu tố sản xuất được kết hợp lại với nhau để tạo ra sản phẩm. Giá trị sản phẩm mới bao gồm: giá trị tư liệu sản xuất chuyển dịch và giá trị mới sáng tao. Vốn của doanh nghiệp lúc này từ hình thái giá trị vật tư, nguyên vật liệu tồn kho chuyển sang sản phẩm dở dang, bán thành phẩm và cuối cùng là thành thành phẩm mới: H- H’. Giai đoạn 3: Doanh nghiệp xuất bán sản phẩm và có được thu nhập bằng tiền: H’- T’. Tới đây vốn doanh nghiệp đã hoàn thành một vòng tuần hoàn từ lúc ban đầu là vốn ứng trước bằng tiền, kết thúc cũng thu về dưới hình thái là tiền nhưng với một lượng lớn hơn T’> T Để đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được diễn ra liên tục, doanh nghiệp phải thực hiện phân phối thu nhập bằng tiền có được do bán sản phẩm. Một phần thu nhập để bù đắp chi phí, phần còn lại là lợi nhuận doanh nghiệp. Cuối niên độ kế toán, số lợi nhuận luỹ kế cả năm sẽ được phân phối, một phần phải nộp cho nhà nước dưới hình thức thuế thu nhập doanh nghiệp, phần còn lại được trích lập các quỹ doanh nghiệp và chia cho các chủ sở hữu. Qua sơ đồ trên ta thấy, để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải ứng trước một số vốn tiền tệ nhất định. Vốn này tồn tại dưới dạng hình thái giá trị của các loại tài sản trong doanh nghiệp. Căn cứ theo thông tư số 23/2005/TT-BTài chính ban hành ngày 30 tháng 03 năm 2005 về việc hướng dẫn kế toán thực hiện sáu chuẩn mực kế toán ban hành theo quyết định số 234/2003/QĐ-BTài chính ngày 30/12/2003 của Bộ Tài chính, tài sản của doanh nghiệp gồm: tài sản ngắn hạn (trước đây gọi là tài sản lưu động), bao gồm: tiền và các khoản tương đương tiền, đầu tư tài chính ngắn hạn, khoản phải thu, hàng tốn kho và tài sản ngắn hạn khác và tài sản dài hạn (trước đây gọi là tài sản cố định) bao gồm: các khoản phải thu dài hạn, tài sản cố định, bất động sản đầu tư, các khoản đầu tư tài chính dài hạn và tài sản dài hạn khác). Đây chính là dự trữ tài chính trong doanh nghiệp. Trong quá trình sản xuất kinh doanh dự trữ này không ngừng chuyển hoá và không ngừng nhập vào quỹ của doanh nghiệp thể hiện bằng các luồng tiền tệ đi vào và các luồng tiền tệ đi ra khỏi doanh nghiệp tạo thành sự vận động của các luồng tài chính doanh nghiệp. Như vậy, sự tồn tại và vận hành của doanh nghiệp đã làm phát sinh một hệ thống các dòng tài chính, chúng thường xuyên làm thay đổi khối lượng, cơ cấu tài sản của doanh nghiệp. Quan hệ giữa dòng tài chính và dự trữ tài chính là cơ sở nền tảng của hoạt động tài chính, nó làm xuất hiện các quan hệ kinh tế dưới hình thái giá trị. Quan hệ đó bao gồm: -Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với Nhà nước: thể hiện qua việc doanh nghiệp phải nộp thuế, lệ phí, và các khoản khác cho Nhà nước … Ngược lại, Nhà nước sẽ cấp phát vốn, tài trợ vốn, cho vay ưu đãi đối với doanh nghiệp theo quy định của pháp luật. -Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với thị trường, gồm: thị trường hàng hoá, thị trường tài chính, thị trường lao động…thể hiện qua việc doanh nghiệp mua nguyên nhiên, vật liệu, hàng hoá trên thị trường để sản xuất ra hàng hoá mới đem bán trên thị trường. -Quan hệ tài chính trong nội bộ doanh nghiệp: quan hệ trả lương, trả công, trợ cấp, thưởng, phạt vật chất… đối với người lao động, quan hệ thanh toán giữa các bộ phận trong doanh nghiệp, phân phối lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp.. Vậy, bản chất của tài chính doanh nghiệp là hệ thống các quan hệ kinh tế biểuhiện dưới hình thức giá trị, phát sinh trong quá trình phân phối các nguồn tài chính được thể hiện qua quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm đạt tới mục tiêu nhất định. 2. Vai trò của tài chính doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường 2.1. Tài chính doanh nghiệp đảm bảo huy động đầy đủ và kịp thời vốn cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Vai trò này thể hiện qua việc lựa chọn phương pháp, hình thức huy động vốn thích hợp đảm bảo nhu cầu vốn cho hoạt động của doanh nghiệp được nhịp nhàng, liên tục với chi phí huy động vốn thấp nhất. 2.2. Tài chính doanh nghiệp tổ chức sử dụng vốn tiết kiệm và hiệu quả thể hiện qua việc đánh giá, lựa chọn dự án đầu tư tối ưu, bố trí cơ cấu vốn hợp lý, sử dụng các biện pháp để tăng nhanh vòng quay vốn nhằm tối thiểu hoá chi phí sử dụng vốn, tối đa hoá lợi nhuận của doanh nghiệp. 2.3. Tài chính doanh nghiệp là đòn bẩy kích thích và điều tiết kinh doanh. Vai trò này thể hiện qua việc tạo ra sức mua hợp lý để thu hút vốn đầu tư , lao động, vật tư, dịch vụ. Đồng thời xác định giá bán hợp lý khi tiêu thụ hàng hoá, cung cấp dịch vụ và thông qua hoạt động phân phối thu nhập của doanh nghiệp, phân phối quỹ khen thưởng, quỹ lương, thực hiện các hợp đồng kinh tế. 2.4. Tài chính doanh nghiệp giám sát, kiểm tra chặt chẽ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bằng những chỉ tiêu tài chính phát hiện kịp thời những vướng mắc tồn tại từ đó có những quyết định điều chỉnh nhằm đạt tới mục tiêu đã định 3. Chức năng của Tài chính doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường 3.1. Tài chính doanh nghiệp tố chức nguồn vốn cho quá trình sản xuất kinh doanh Nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh, mỗi doanh nghiệp đều phải có vốn. Vốn là điều kiện không thể thiếu được để thành lập một doanh nghiệp và tiến hành hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Vốn này được tạo lập từ nhiều nguồn như: vốn chủ sở hữu (vốn tự có), vay ngân hàng, vay trong dân chúng (bằng cách phát hành trái phiếu), mua hàng trả chậm… Nhằm thực hiện chức năng nói trên, trước hết doanh nghiệp phải dự toán nhu cầu vốn, tiếp đến cần lựa chọn nguồn vốn phù hợp, một loạt vấn đề cần được giải quyết như: nên huy động vốn từ chủ sở hữu hay nên vay? Cơ cấu giữa nợ và vốn chủ sở hữu (vốn tự có) thế nào là tốt nhất? Nếu vay thì nên phát hành trái phiếu hay vay ở các tổ chức tín dụng, hay sử dụng phương thức tín dụng thuê mua? thời hạn và lãi suất vay ?… Đối với nguồn chủ sở hữu của doanh nghiệp: khi doanh nghiệp được thành lập bao giờ chủ doanh nghiệp cũng phải đầu tư một số vốn nhất định. Chẳng hạn, với doanh nghiệp Nhà nước (thuộc sở hữu nhà nước) nguồn vốn tự có ban đầu chính là vốn đầu tư của Ngân sách Nhà nước. Với công ty tư nhân, chủ doanh nghiệp tư nhân phải có vốn pháp định cần thiết để xin đăng ký thành lập doanh nghiệp. Với công ty cổ phần, nguồn vốn do các cổ đông đóng góp thành lập công ty. Với công ty TNHH, nguồn vốn do các thành viên sáng lập công ty đóng góp, … Đối với nguồn vốn tín dụng ngân hàng: là nguồn vốn vay ngân hàng. Đây là nguồn vốn quan trọng không chỉ đối với sự phát triển của doanh nghiệp mà còn quan trọng đối vối nền kinh tế. Quá trình hoạt động và phát triển của doanh nghiệp luôn gắn liền với sự phát triển của các hoạt động trong hệ thống ngân hàng nhất là ngân hàng thương mại. Nguồn vốn tín dụng ngân hàng có rất nhiều ưu điểm nhưng cũng có những hạn chế như: điều kiện tín dụng, kiểm soát của ngân hàng và chi phí sử dụng vốn (lãi suất) ..doanh nghiệp bị phụ thuộc vào chính sách cho vay của ngân hàng. Đối với nguồn vốn phát hành cổ phiếu: là một kênh huy động vốn quan trọng cho các doanh nghiệp, công ty. Đối với các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, việc huy động vốn cổ phiếu là nguồn huy động chính thông qua thị trường chứng khoán. Có thể nói hình thức huy động này không giới hạn về số lượng vốn huy động cũng như thời gian sử dụng số vốn này là vô hạn. Đối với nguồn vốn phát hành trái phiếu công ty: một trong những vấn đề cần quan tâm trước khi lựa chọn hình thức sử dụng nguồn vốn này là lựa chọn loại trái phiếu nào phù hợp với điều kiện cụ thể của công ty và tình hình trên thị trường tài chính như: chi phí trả lãi, cách trả lãi, khả năng lưu hành, tính hấp dẫn của trái phiếu, lãi suất bình quân trên thị trường, … Đối với nguồn vốn nội bộ: là nguồn vốn được để lại từ lợi nhuận trong quá trình doanh nghiệp phân phối thu nhập. Việc tài trợ bằng nguồn vốn nội bộ sẽ phát huy được nguồn lực nội tại của chính doanh nghiệp, giảm bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài và thường được coi là chính sách tài chính quan trọng đối với một số công ty nhằm đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng tăng trong quá trình hoạt động. Như vậy, có thể nói chức năng tổ chức nguồn vốn cho quá trình sản xuất kinh doanh là chức năng quan trọng hàng đầu đối với doanh nghiệp. Thực hiện tốt chức năng này không chỉ đảm bảo cho hoạt động doanh nghiệp được ổn định và liện tục mà nó còn liên quan tới sự phát triển và tồn vong của doanh nghiệp. 3.2. Chức năng phân phối Chức năng phân phối của tài chính doanh nghiệp diễn ra trong suốt quá trình hoạt động của doanh nghiệp nhưng được biểu hiện tập trung ở việc phân phối thu nhập bằng tiền của doanh nghiệp. Quá trình phân phối này được thực hiện theo trình tự chung như sau: Sau khi kết thúc một chu kỳ sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp sẽ thu được các khoản tiền về cung cấp sản phẩm hàng hoá- dịch vụ…Tổng hợp các khoản thu này được gọi là thu nhập của doanh nghiệp. Để tiếp tục quá trình tái sản xuất, một phần thu nhập của doanh nghiệp được phân phối để bù đắp các yếu tố vật chất đã tiêu hao trong quá trình sản xuất kinh doanh như: khấu hao máy móc, thiết bị, chi phí về đối tượng lao động, chi phí tiền lương và những chi phí khác mà doanh nghiệp đã bỏ ra… Phần còn lại của thu nhập sau khi bù đắp các chi phí trên được gọi là lợi nhuận trước thuế của doanh nghiệp. Một phần lợi nhuận trước thuế sẽ nộp cho Ngân sách Nhà nước dưới hình thức thuế thu nhập của doanh nghiệp, số lợi nhuận còn lại được sử dụng để bảo toàn vốn, hình thành các quỹ khác nhau của doanh nghiệp, chia lời cho chủ sở hữu (nếu có) Phân phối là một đòn bẩy kinh tế quan trọng kết hợp đúng đắn giữa lợi ích của Nhà nước, của doanh nghiệp và của người lao động. Do vậy thực hiện tốt chức năng phân phối này chẳng những phát huy được tính tích cực chủ động của doanh nghiệp và người lao động trong quá trình kinh doanh mà còn thúc đẩy sự phát triển và làm tăng giá trị doanh nghiệp. 3.3. Chức năng giám đốc Mọi doanh nghiệp khi bỏ vốn và sử dụng vốn đều mong muốn thu được hiệu quả cao, ngoài việc bảo tồn vốn còn phải sinh lời vì vậy phải tiến hành kiểm tra giám sát mục đích sử dụng vốn, hiệu quả sử dụng vốn, …đây chính là chức năng giám đốc của tài chính doanh nghiệp. Chức năng này phát sinh một cách tất yếu trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Giám đốc tài chính là sự kiểm tra giám sát bằng đồng tiền đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, một hình thức kiểm soát dựa vào tình hình thu chi tiền tệ, vào các chỉ tiêu tài chính như: chỉ tiêu về sử dụng vốn, về kết cấu tài chính, về khả năng thanh toá, khả năng sinh lời… Đặc trưng của giám đốc tài chính là giám đốc toàn diện, thường xuyên và liên tục. Do vậy nó trở thành công cụ hữu hiệu của các doanh nghiệp nhằm giúp doanh nghiệp kịp thời đưa ra những quyết định tài chính đúng đắn 4. Yêu cầu của kinh tế hội nhập đối với quản lý tài chính doanh nghiệp là sức cạnh tranh. Cơ hội kinh doanh cho các doanh nghiệp ngày càng được mở rộng khi Việt Nam ngày càng hội nhập nhanh chóng và sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Tuy nhiên, nó cũng mang đến nhiều đe doạ và thách thức khi thị trường nội địa được mở cửa, các doanh nghiệp sẽ phải đối đầu với những Tập đoàn, những Công ty lớn có đầy đủ tiềm lực muốn lấn lướt thị trường và thôn tính, sáp nhập, khi hiểu biết rõ những yếu điểm của doanh nghiệp Việt Nam. Muốn thắng thế trong môi trường cạnh tranh đầy khốc liệt này, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải chuẩn bị cho mình những “vũ khí” riêng, phù hợp để tự bảo vệ mình…Các tiêu chí tạo nên sức cạnh tranh của doanh nghiệp: 4.1. Tổ chức của doanh nghiệp và phân công trách nhiệm Nhiều nhà kinh tế học nước ngoài cho rằng một tổ chức mạnh quyết định tới 70% đến 80% thành công trong mọi hoạt động tổ chức ấy. Trong tiêu chí này có các tiêu chí phụ: Hoạt động theo pháp luật. Hoạt động theo tiêu chuẩn quản lý chất lượng. Phân định rõ quyền hạn, trách nhiệm của mọi bộ phận, mọi thành viên. Có chính sách, chiến lược, mục đích, mục tiêu hoạt động cụ thể. Có tổ chức gọn nhẹ. 4.2. Trình độ của đội ngũ lãnh đạo Một số doanh nghiệp muốn hoạt động được phải có đội ngũ lãnh đạo là người vạch ra phương hướng, chiến lược, chính sách điều khiển và kiểm soát mọi hoạt độngcủa doanh nghiệp. Do đó, đòi hỏi đội ngũ này phải có trình độ tốt. Các tiêu chí phụ như sau: a.Trình độ tư tưởng, chính trị đạo đức (5 bậc trình độ theo trọng số) b.Trình độ học vấn (5 bậc) c.Trình độ văn hóa (5 bậc) d.Trình độ quản trị doanh nghiệp (hiệu lực, hiệu quả các quyết định)-(5 bậc) 4.3. Tỷ lệ của nhân viên, công nhân lành nghề Đây là đòi hỏi quan trọng, nhất là ở thời đại mà việc cạnh tranh tiêu thụ sản phẩm trở nên rất gay gắt như hiện nay. Tiêu chí này cũng là yếu tố quan trọng để doanh nghiệp đạt được chiến lược cao, chi phí thấp, năng suất cao. Một doanhnghiệp có tỷ lệ này cao sẽ có lợi thế cạnh tranh và năng lực cạnh tranh cao. Tỷ lệ về lành nghề có thể chia thành 5 bậc: dưới 5%- điểm 1, từ 6% đến 15%- điểm 2, từ 16% đến 25%- điểm 3, từ 26% đến 40%- điểm 4(tốt), trên 41%- điểm 5(cao). 4.4. Hoạt động nghiên cứu và phát triển Các tổ chức đánh giá quốc tế thường dùng tiêu chí này để đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Tiêu chí này có thể chia thành 3 nhóm tiêu chí phụ (nhóm sáng kiến, nhóm cải tiến, nhóm đổi mới). Trong mỗi nhóm lại phân ra 5 bậc số lượng và 5 bậc chất lượng. Từng doanh nghiệp tùy vào điều kiện cụ thể mà vận dụng. Có thể phân bậc theo số tuyệt đối các sáng kiến / cải tiến, đổi mới. Có thể phân bậc tỷ lệ giữa số sáng kiến / cải tiến, đổi mới với tổng số công nhân viên, cán bộ toàn doanh nghiệp. Ví dụ, về sáng kiến: dưới 5 – loại kém, từ 5 đến 15 – loại trung bình, từ 16 đến 25 – loại khá, từ 26 đến 40 – loại tốt, và trên 40 – loại cao. Về cải tiến: dưới 4 – loại kém, từ 4 đến 10 – loại trung bình, từ 11 đến 20 – loại khá, từ 21 đến 30 – loại tốt, trên 30 – loại cao. Về đổi mới: dưới 3 – loại kém, từ 3 đến 10 – loại trung bình, từ 11 đến 20 – loại khá, từ 21 đến 30 loại tốt, trên 30 – loại cao. 4.5. Chất lượng cơ sở vật chất, kỹ thuật Cơ sở vật chất, kỹ thuật là yếu tố rất cơ bản góp phần tạo nên năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Nhóm này bao gồm nhà xưởng, hệ thống kho tàng, hệ thống cung cấp năng lượng, hệ thống nước, công nghệ sản xuất và quản lý, mạng thông tin. Ở đây người ta muốn đánh giá chất lượng của các yếu tố đó. Chất lượng mỗi phân nhóm (tiêu chí phụ) này chia thành 5 cấp: tiêu chí phụ “ công nghệ quản lý” là quan trọng nhất, tiêu chí phụ “ mạng thông tin là quan trọng thứ hai,v.v… 4.6. Quản lý môi trường của doanh nghiệp Chất lượng môi trường sinh thái là vấn đề nóng hổi và cấp bách mang tính toàn cầu. Thế giới đánh giá cao tiêu chí này với các doanh nghiệp. Để có năng lực cạnh tranh cao, sản phẩm làm ra không được gây ô nhiễm môi trường, bao gồm ô nhiễm không khí, ô nhiễm nguồn nước và ô nhiễm sự yên tĩnh. Các sản phẩm của doanh nghiệp phải có nhãn sinh thái, doanh nghiệp phải có chứng chỉ an toàn môi trường theo ISO.14000, hoặc theo tiêu chuẩn khu vực hoặc tiêu chuẩn Việt Nam. Việc đánh giá tiêu chí này phức tạp vì nó bao hàm nhiều chỉ tiêu mà phạm vi ảnh hưởng của nó đôi khi khó xác định. Tuy vậy, phần lớn các chỉ tiêu đều là chỉ tiêu hóa, lý, sinh, đều lượng hóa bằng các dụng cụ đo chính xác. 4.7. Năng lực tài chính doanh nghiệp Năng lực tài chính là yếu tố rất quan trọng đẻ xem xét tiềm lực của doanh nghiệp mạnh yếu như thế nào. Trong tiêu chí này có 4 nhóm chỉ tiêu chủ yếu. Nhóm đánh giá khả năng thanh toán ngắn hạn của doanh nghiệp: nhóm này có 3 hệ số, mỗi hệ số có thể chia ra 5 bậc. Nhóm các chỉ tiêu đánh giá vốn và nguồn vốn: mỗi chỉ tiêu thành phần chia làm 5 bậc. Nhóm các chỉ tiêu về năng lực hoạt động hay hiệu xuất sử dụng vốn: mỗi chỉ tiêu thành phần chia ra làm 5 bậc. Nhóm các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả: là nhóm chỉ tiêu quan trọng đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh trong kỳ, là căn cứ để đưa ra các quyết định trong tương lai. Mỗi chỉ tiêu thành phần chia làm 5 bậc. 4.8. Chất lượng sản phẩm Chất lượng sản phẩm là yếu tố cấu thành quan trọng hàng đầu của năng lực cạnh tranh của sản phẩm, mà năng lực cạnh tranh của sản phẩm là yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Nếu một doanh nghiệp kinh doanh 10 mặt hàng mà cả 10 mặt hàng đều không có năng lực cạnh tranh thì chắc chắn doanh nghiệp đó không thể có năng lực cạnh tranh. Các chỉ tiêu chất lượng sản phẩm được chia làm 4 nhóm: nhóm chỉ tiêu thẩm mỹ, an toàn vệ sinh, kỹ thuật và nhóm chỉ tiêu kinh tế. Doanh nghiệp nào có nhiều sản lượng đạt mức chất lượng tốt nhất, doanh nghiệp đó sẽ có năng lực cạnh tranh cao nhất theo tiêu chí trên. 4.9. Thị phần của doanh nghiệp Thị phần là phần thị trường mà doanh nghiệp bán được sản phẩm của mình một cách thường xuyên và có xu hướng phát triển. Thị phần càng lớn chứng tỏ sản phẩm của doanh nghiệp được khách hàng, người tiêu dùng ưa chuộng, năng lực cạnh tranh của sản phẩm cao. Để phát triển thị phần, ngoài chất lượng ngoài chất lượng, giá cả, doanh nghiệp còn phải tiến hành xúc tiến thương mại, tổ chức các dịch vụ đi kèm, cung cấp sản phẩm kịp thời, thương hiệu và uy tín của doanh nghiệp nữa. Như vậy chúng ta thấy rằng thị phần là một tiêu chí quan trọng đánh giá năng lực cạnh tranh doanh nghiệp. 4.10. Giá trị vô hình của doanh nghiệp Giá trị vô hình là tiêu chí mang tính tổng hợp. Giá trị này có được là do quá trình phấn đấu bền bỉ theo định hướng và phát triển đúng đắn, hợp đạo, hợp lí của doanh nghiệp, được xã hội và cộng đồng doanh nghiệp trong và ngoài nước biết đến. Giá trị vô hình của doanh nghiệp gồm hai bộ phận: Thứ nhất là uy tín, danh tiếng của doanh nghiệp, được phản ánh chủ yếu ở “văn hóa doanh ng
Tài liệu liên quan