Từ Đại hội Đảng VI (1986), nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Cơ chế kinh tế thay đổi đã đưa vị trí của khoa học và nghệ thuật quản lý trở thành một nhân tố quan trọng nhất, một “phương thức” để tồn tại và phát triển cho các doanh nghiệp, các tổ chức, đơn vị kinh tế.
23 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1489 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Bàn về chức năng nhiệm vụ của Phòng quản trị nhân lực và các yêu cầu đối với quản trị viên nhân lực, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bàn về chức năng nhiệm vụ của Phòng quản trị nhân lực và các yêu cầu đối với quản trị viên nhân lực
Mục lục
Lời mở đầu
Từ Đại hội Đảng VI (1986), nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Cơ chế kinh tế thay đổi đã đưa vị trí của khoa học và nghệ thuật quản lý trở thành một nhân tố quan trọng nhất, một “phương thức” để tồn tại và phát triển cho các doanh nghiệp, các tổ chức, đơn vị kinh tế.
Vai trò của “nhân tố con người” đã vượt lên trên các nhân tố khác, cho nên cần phải biết tác dụng và khai thác những “năng lực người” còn tiềm ẩn và có trữ lượng vô hạn trong xã hội, trong các tổ chức kinh tế, trong quần chúng.
Đối với những doanh nghiệp, thường là những doanh nghiệp có quy mô trung bình trở lên, mà trong cơ cấu tổ chức có phòng quản trị nhân lực thì hoạt động khai thác vai trò con người thuộc phòng này, thể hiện qua chức năng nhiệm vụ, quyền hạn và vai trò của nó. Dĩ nhiên để phòng quản trị nhân lực hoạt động được tốt thì mỗi quản trị viên nhân lực phải có những tiêu chuẩn nhất định về trình độ chuyên môn sao cho có khả năng sử dụng con người.
Song quản trị nhân lực trong nền kinh tế thị trường là một vấn đề còn mới mẻ ở nước ta. Hơn nữa, đây là lĩnh vực khoa học quản lý có liên quan trực tiếp đến hành vi con người, mà trong khoa học hành vi không có quy tắc. Do vậy quản trị nhân lực còn là vấn đề nghệ thuật. Đây chính là xu hướng và thách đố của thời đại trong lĩnh vực quản trị nhân sự mà ta cần nghiên cứu để làm rõ vai trò, nhiệm vụ của phòng quản trị nhân lực, yêu cầu của quản trị viên nhân sự với mục đích phục vụ cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, thương mại nhu cầu của nhân viên.
Với nhận thức trên, em làm đề tài này chủ yếu trên cơ sở lý thuyết với mục đích làm rõ vấn đề đề tài đặt ra và tình hình thực tế trong các doanh nghiệp ở Việt Nam, đồng thời đề ra một số giải pháp khắc phục những hạn chế còn tồn tại.
I. cơ cấu tổ chức bộ máy trong doanh nghiệp
Trong quản trị không có cơ cấu tổ chức nào là hiệu quả nhất trong mọi trường hợp. Một cơ cấu tổ chức tốt là cơ cấu tổ chức năng động, thích ứng nhanh nhạy và kịp thời với mọi thay đổi. Trong mọi tổ chức đều có quản trị nhân sự, bất kể cơ quan tổ chức đó có phòng quản trị nhân lực hay không.
Trong doanh nghiệp có thể có hoặc không có phòng quản trị nhân lực, tuỳ theo quy mô và khối lượng công việc, trình độ kỹ thuật-công nghệ sản xuất, nhân lực, điều kiện kinh tế-chính trị và xã hội, đường lối lãnh đạo của nhà quản lý. Khi sản xuất ngày càng phát triển, số lượng nhân lực tăng, cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại được áp dụng vào sản xuất. Khi đó quan hệ lao động trở nên phức tạp, giám đốc hay một số nhà quản lý khó có thể kiểm soát được hành động của nhân viên để duy trì sản xuất nhịp nhàng, hiệu quả cao thì việc hình thành phòng quản trị nhân lực thực sự cần thiết, bởi quản trị nhân lực là lĩnh vực xuất hiện ở tất cả các phòng ban Giáo trình quản trị nhân lực - Đại học KTQD
.
Sau đây là một số mô hình cơ cấu tổ chức đang phổ biến hiện nay:
Trước hết chúng ta nghiên cứu mộtdn tư nhân có quy mô nhỏ. Đây là loại hình doanh nghiệp nhỏ nhất, duy trì cơ cấu đơn giản. Chủ doanh nghiệp lo toàn bộ mọi việc từ quản trị sản xuất, maketing, tài chính, kinh doanh. Đây là cơ cấu có mức độ bộ phận hoá thấp, phạm vi quản lý rộng, quyền lực tập trung vào một người, mức độ chính thức thấp. Cơ cấu này có ưu điểm là chi phí quản lý thấp, trách nhiệm và quyền lợi rõ ràng, nhanh nhạy, linh hoạt, dễ thích nghi với sự thay đổi của môi trường kinh doanh.
Nhược điểm của cơ cấu này gặp khó khăn khi tổ chức mở rộng quy mô, đặc biệt là vấn đề tuyển chọn và bố trí nhân sự. Chủ doanh nghiệp có thể bị quá tải thông tin do mức độ tập trung hóa cao. Không những thế, mọi quyết định tập trung vào một người làm cho độ rủi ro cao.
Giám đốc
Trưởng bộ phận sản xuất
Trưởng phòng tài chính
Trưởng P. kinh doanh
Hình 1: Sơ đồ tổ chức tại một doanh nghiệp tư nhân loại nhỏ
Khi doanh nghiệp phát triển, số lượng và chất lượng kỹ thuật-công nghệ thay đổi, đồng thời số lượng và chất lượng cũng thay đổi. Để hoạt động nhân lực ổn định, phòng hành chính sẽ kiêm cả việc quản trị nhân lực.
Giám đốc
Trưởng phòng hành chính
Kế toán trưởng
Trưởng phòng kinh doanh
Chức vụ khác
Trưởng bộ phận nhân sự
Nhân viên
Nhân viên
Hình 2: Sơ đò tổ chức tại một công ty trung bình
Khi công ty phát triển đến quy mô lớn hàng ngàn nhân viên, mức độ chuyên môn hoá cao nên cần lập riêng một phòng quản trị nhân lực. Trưởng phòng quản trị nhân lực (giám đốc phòng nhân lực), thường kiêm chức phó giám đốc doanh nghiệp. Trong phòng này lại chia ra bộ phận chức năng riêng dưới quyền của một vị giám đốc của tuyến giữa hay tuyến sơ cấp. Dưới họ là các chuyên viên.
Giám đốc
Giám đốc
sản xuất
Giám đốc
nhân sự
Kế toán
trưởng
Giám đốc
maketing
Giám đốc
tài chính
Hình 3: Sơ đồ cấu trúc một doanh nghiệp lớn
II. Cơ cấu tổ chức phòng quản trị nhân lực
Trong doanh nghiệp lớn phải có phòng quản trị nhân lực và dưới phòng này lại phân ra các phòng chức năng riêng.
Cơ cấu này nhằm thích ứng với quy mô của Công ty, với những thay đổi của môi trường bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. Môi trường bên ngoài bao gồm các yếu tố như khung cảnh kinh tế, dân số và lực lượng lao động xã hội, luật lệ của Nhà nước, văn hoá và xã hội, đối thủ cạnh tranh, khoa học-kỹ thuật-công nghệ, chính quyền, đoàn thể.
Những thay đổi về khung cảnh kinh tế, dân số, lực lượng lao động xã hội sẽ tác động vào quản trị nhân lực. Thực vậy khi kinh tế nhiều thành phần phát triển, khuyến khích đa dạng hoá các thành phần kinh tế, đặc biệt là thành phần kinh tế tư nhân, là khu vực thu hút nhiều lao động. Sản xuất mở rộng theo đà phát triển của nền kinh tế đòi hỏi doanh nghiệp phải tuyển dụng thêm người có trình độ, đòi hỏi tăng lương để thu hút nhân tài, tăng phúc lợi, cải thiện điều kiện việc làm.
Về dân số, lực lượng lao động. Nước ta là nước nặng về nông nghiệp, nguồn lao động dồi dào, trong đó tỷ lệ phụ nữ tham gia lao động chiếm khoảng 52% lực lượng lao động xã hội, tham gia hoạt động đông đảo ở tất cả các ngành kinh tế quốc dân. Lực lượng lao động nữ đi làm đông ảnh hưởng đến chính sách phúc lợi, dịch vụ của doanh nghiệp.
Sự thay đổi các giá trị văn hoácủa một nước cũng tạo ra thách đố cho cấp quản trị nhân lực. Nếu một nền văn hoá có nhiều đẳng cấp, nấc thang giá trị xã hội không theo kịp đà phát triển của thời đại, nó sẽ kìm hàm không cung cấp nhân tài cho tổ chức. Điều này sẽ đưa đến hiệu quả là bầu không khí văn hoá của Công ty không năng động được.
Với tốc độ phát triển qua nhanh của khoa học-kỹ thuật trong thời đại ngày nay cũng như trong tương lai, để đủ sức cạnh tranh trên thị trường, các doanh nghiệp phải cải tiến, đổi mới khoa học, kỹ thuật, công nghệ. Điều này sẽ ảnh hưởng rất lớn tới tài nguyên nhân lực trong tổ chức. Chẳng hạn như việc đào tạo các nhân viên để theo kịp với đà phát triển của khoa học-kỹ thuật. Dặc biệt là việc tuyển nhân viên có trình độ, có khả năng. Hơn nữa, khi đó nhà quản trị nhân lực còn phải bô strí lực lượng lao động dư thừa do áp dụng các máy móc thiết bị hiện đại vào hoạt động của doanh nghiệp.
Ngoài ra, các yếu tố thuộc môi trường bên ngoài ảnh hưởng đến việc hình thành cũng như hoạt động của phòng quản trị nhân lực còn có khách hàng, đối thủ cạnh tranh và chính quyền, đoàn thể.
“Khách hàng là Thượng đế”. Đó là câu nói “cửa miệng” của tất cả những người hoạt động trên thị trường. Khách hàng là đối tượng, là trọng tâm của hoạt động sản xuất kinh doanh. Dó đó, quản trị viên cần phải hiểu rằng phải thỏa mãn khách hàng, không có khách hàng là không còn doanh nghiệp, không còn việc làm cho họ.
Nguồn nhân lực vừa là xuất phát điểm, là lực lượng sản xuất, là mục đích của quá trình sản xuất. Nhân lực-yếu tố quyết định nhất của lực lượng sản xuất, là tài nguyên quý gia snh để doanh nghiệp lo giữ, duy trì, phát triển. Để thực hiện được điều này doanh nghiệp phải có chính sách lương bổng, phúc lợi hợp lý, phải tạo môi trường làm việc và bầu không khí văn hoá... tránh tình trạng để đối thủ cạnh tranh thu hút nguồn nhân lực của mình.
Các các đoàn thể cũng ảnh hưởng rất lớn đến quản trị nhân lực, nhất là những vấn đề liên quan đến kỷ luật lao động, sa thải, chế độ bảo hiểm...
Bên cạnh sự ảnh hưởng của môi trường bên ngoài đến cơ cấu tổ chức phòng nhân lực là sự ảnh hưởng của môi trường bên trong. Bao gồm mục tiêu của doanh nghiệp, chính sách và chính trị của công ty và bầu văn hoá của công ty. Trong các yếu tố này thì bầu không khí văn hoá của công ty ảnh hưởng rất lớn đến quản trị.
Văn hóa tổ chức là một loạt các quy phạm và hệ thống giá trị chung nhằm kiểm soát sự tương tác giữa các thành viên trong tổ chức và giữa thành viên trong tổ chức với người bên ngoài. Khi bầu không khí của văn hoá càng mạnh thì càng nhiều thành viên trong tổ chức chấp nhận các giá trị cơ bản trong tổ chức. Các giá trị cơ bản này được chia xẻ rất rộng rãi và có chủ định. Sự cam kết của tổ chức đề ra càng lớn. Văn hóa tổ chức ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Văn hóa mạnh sẽ quy tụ được sự nhất trí cao dẫn tới sự trung thành đối với tổ chức tăng thêm, nó làm tăng tính nhất quán của hành vi. Bầu không khí văn hoá doanh nghiệp có nguồn gốc và tiến triển từ người sáng lập ra tổ chức đó Môn: Hành vi tổ chức
.
Từ những phân tích trên ta thấy được những yếu tố ảnh hưởng đến quản trị nhân lực trong một doanh nghiệp lớn, và để thành công với điều kiện đó thì phòng quản trị nhân lực được chia thành các bộ phận chức năng riêng dưới quyền một vị giám đốc hay tưởng phòng tuyến giữa. Dưới họ là các chuyên viên.
Giám đốc phòng quản trị nhân lực
Trưởng phòng
Tuyển dụng lao động
- Tuyển mộ
- Đào tạo
- Phỏng vấn
- Sắp xếp
Trưởng phòng kế hoạch
Nguồn nhân lực
- Dự báo và lập kế hoạch
- Lập kế hoạch nghề nghiệp
- Thực hiện các kế hoạch
- Kiểm tra và đánh giá CT
Trưởng phòng
Tiền lương
- Đánh giá công việc
- Điều tra về tiền lương
- Khuyến khích lương
- Phân chia lợi nhuận
Trưởng phòng phúc lợi
Và dịch vụ
- Dịch vụ bảo hiểm y tế
- Lương hưu và tiết kiệm
- Tư vấn và trợ giúp
- ấn phẩm
Trưởng phòng đào tạo
Và phát triển
- Đánh giá thực hiện công việc
- Đào tạo nghề nghiệp
- Phát triển quản lý
- Phát triển tổ chức
Quan hệ
lao động
- Thảo luạn tập thể
- Xử lý bất bình
- Các vấn đề kỷ luật
- Kiến nghị/khuyến cáo
Trưởng phòng Y tế
Và an toàn
- Goá dục và thanh tra
- nghiên cứu
- Các chương trình sức khoẻ
- Lưu trữ và báo cáo
Trưởng phòng nghiên cứu
Tài nguyên nhân sự
- Các kế hoạch hành động
- Các nghiên cứu
- Những ca thầu về
biệt đối xử
Hình 4: Cơ cấu tổ chức phòng quản trị nhân lực
Những năm gần đây các doanh nghiệp trên thế giới thường sử dụng các khái niệm “Quản trị tài nguyên nhân sự”, “Quản trị nhân viên”, “Quản trị nguồn nhân lực”. Hệ quả của nó là tên phòng ban: “Phòng quản trị nhân lực”, “Phòng quản trị nguồn nhân lực”.
ở nước ta, trước kia thường gọi phòng quản trị nhân lực là phòng tổ chức, hay được chia ra nhiều phòng ban như: phòng tổ chức cán bộ, phòng lao động tiền lương, phòng đào tạo... Chuyển sang cơ chế thị trường để hoạt động hiệu quả, các doanh nghiệp tinh giảm biên chế và sáp nhập một số chức năng vầo thành một phòng ban. phòng quản trị nhân lực được hình thành, nhưng chủ yếu là học tập từ kinh nghiệm nước ngoài, dễ vấp phải tình trạng dập khuôn máy móc. Do vậy mà doanh nghiệp phải tính đến đặc điểm tình hình kinh tế xã hội Việt Nam, đồng thời nghiên cứu nhân trắc học và ứng dụng trên người lao động Việt Nam. Công việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh, bền vững của doanh nghiệp.
III. chức năng, nhiệm vụ của phòng quản trị nhân lực
Trước khi thành lập một phòng ban, nhà quản trị phải xác định được chức năng, nhiệm vụ của phòng ban đó, số người sẽ làm việc trong phòng ban này. Đồng thời phải lảmõ mối quan hệ với các phòng ban khác, phân công trách nhiệm rõ ràng, không chồng chéo, nhiều cửa.
Từ mục tiêu chung đó, bộ phận quản trị nhân lực được hình thành phải đảm bảo 2 yêu cầu chính là cân đối và linh hoạt. Cân đối tức là phối hợp nhịp nhàng với các bộ phận khác; bộ phận quản lý, bộ phận sản xuất, bộ phận maketing... Những bộ phận này sử dụng lao động thông qua sự điều phối của phòng quản trị nhân lực. Linh hoạt nghĩa là có thể thích ứng được với mọi thay đổi của môi trường trong và ngoài doanh nghiệp, từ đó quy mô của phòng được thay đổi cho phù hợp.
Theo hình 4, phòng quản trị nhân lực có những nhiệm vụ chủ yếu sau:
1) Hoạch định tài nguyên nhân sự
2) Tuyểndụng
3) Đào tạo và phát triển
4) Quản trị tiền lương
5) Quan hệ lao động
6) Dịch vụ và phúc lợi
7) Y tế và an toàn
8) Nghiên cứu tài nguyên nhân sự
Đây là những chức năng chủ yếu và cần thiết cho mọi cơ quan, tổ chức, không kể quy mô và cơ cấu tổ chức. Đối với các tổ chức nhỏ như các doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã thì những chức năng này sẽ được giao cho những bộ phận khác khi không thành lập phòng quản trị nhân lực. Theo cơ cấu này thì giám đốc hay trưởng phòng tài nguyên nhân sự có chức năng nghiệp vụ nghiên cứu, hoạch định tài nguyên nhân sự, tuyển dụng, đào tạo và phát triển, quản trị lương bổng, quan hệ lao động, dịch vụ phức lợi, y tế và an toàn lao động trong doanh nghiệp. Ngoài ra giám đốc nhân sự còn phải phục vụ các bộ phận chức năng khác có liên quan đến tám lĩnh vực trên.
Giám đốc nhân sự
Tổ chức
Lãnh đạo
Kiểm tra
Hoạch định
Bộ phận
của mình
Các bộ phận khác
có hiệu quả
Hình 5: Sơ đồ quản trị bộ phận nhân sự
Bây giờ ta nghiên cứu chi tiết từng chức năng của phòng quản trị nhân lực.
1. Hoạch định tài nguyên nhân sự
Hoạch định tài nguyên nhân sự hay kế hoạch hoá nguồn nhân lực là quá trình xác định nhu cầu về nguồn nhân lực, xuất phát từ mục tiêu của tổ chức và xây dựng các kế hoạch nhân lực, để đảm bảo tổ chức đó có đúng số người có đầy đủ các kỹ năng theo đúng nhu cầu Bài giảng – Nguyễn Văn Điềm
Dựa theo các kế hoạch chiến lược của toàn công ty, giám đốc nhân sự sẽ hoạch định chiến lược nhân sự cho doanh nghiệp, đồng thời cố vấn cho các bộ phận hoạch định tài nguyên nhân sự cho bộ phận đó. Các nhà quản trị nhân sự cũng phải hoạch định nhân sự cho bộ phận của mình.
Hoạt động hoạch định tài nguyên nhân sự giúp cho doanh nghiệp nắm được quy mô nhân viên cả về số lượng và chất lượng. Từ đó doanh nghiệp có cơ sở để đào tạo, phát triển nhân sự, xây dựng hệ thống tiền lương, tuyển mộ, tuyển chọn hợp lý.
Tiến trình hoạch định tài nguyên nhân sự gồm 4 bước:
Bước 1: đề ra nhu cầu và dự báo nhu cầu. ở bước này nhà quản trị sẽ dựa vào nhu cầu về sản phẩm và dịch vụ của công ty, doanh thu, lợi nhuận, sau cùng mới ước tính lực lượng lao động cần thiết đáp ứng nhu cầu sản xuất.
Bước 2: đề ra các chính sách và kế hoạch. Các chuyên viên dự đoán nhu cầu về nguồn nhân lực so với khả năng của doanh nghiệp trong tương lai. Phòng quản trị nhân lực sẽ đề ra các chính sách, kế hoạch cụ thể để dễ dàng sắp xếp nhân viên trong trường hợp thiếu hoặc thừa nhân viên. Việc dự đoán nhu cầu cũng cần phải phác hoạ ra những yêu cầu về kỹ năng và trình độ của nhân viên của doanh nghiệp sử dụng. Trưởng phòng nhân sự phải cân nhắc, tính toán cho phù hợp với ngân sách của công ty và báo cáo lên giám đốc phê chuẩn.
Bước 3: thực hiện các kế hoạch
Sau khi có các chính sách và kế hoạch cụ thể, phòng quản trị nhân lực sẽ phối hợp với các bộ phận khác thực hiện kế hoạch.
* Kế hoạch được thực hiện trong 2 trường hợp:
- Thiếu nhân viên: trường hợp này nhà quản trị nhân lực tuỳ thuộc vào mức độ thiếu mà có thể tiến hành tuyển mộ, tuyển chọn, thuyên chuyển, thăng giáng chức.
- Thừa nhân viên: trường hợp này nhà quản trị nhân lực sẽ thực hiện các biện pháp: hạn chế tuyển dụng, giảm gì lao động, cho nghỉ hưu, giãn thợ.
Bước 4: kiểm tra đánh giá.
Trong mỗi bước, nhà quản trị phải kiểm tra việc thực hiện có đúng với mục tiêu đề ra hay không và cuối mỗi giai đoạn phải tiến hành đánh giá kết quả thực hiện
2. Tuyển dụng
Tuyển dụng lao động gần hai quá trình chủ yếu là tuyển mộ và tuyển chọn.
a) Tuyển mộ: Tuyển mộ nhân viên là một tiến trình thu hút những người có khả năng từ nhiều nguồn khác nhau đều đăng ký, nộp đơn tìm việc làm.
Tiến trình tuyển mộ được tiến hành sau quá trình hoạch định nguồn nhân lực, khi mà các giải pháp khác không đáp ứng được nhu cầu nguồn nhân lực trong doanh nghiệp.
Công việc tuyển mộ được bắt đầu khi các bộ phận khác gửi yêu cầu về nhân lực cho phòng quản trị nhân lực. Yêu cầu này có nêu đầy đủ về chức vụ, nội dung công việc, số lượng nhân lực và thời gian. Phòng quản trị nhân lực dựa trên bảng mô tả chi tiết công việc để xác định tiêu chuẩn của nhân viên sẽ được tuyển.
Trước khi tuyển mộ, nhà quản trị nhân lực xác định nguồn nhân lực bên trong doanh nghiệp có thể đáp ứng được nhu cầu này không, bởi việc tuyển mộ bên ngoài rất tốn kém chi phí.
Hoạch định
nguồn nhân lực
Các giải pháp khác
Tuyển mộ
Nguồn nội bộ
Nguồn bên ngoài
Môi trường bên ngoài
Các phương pháp nội bộ
Các phương pháp bên ngoài
Cá nhân được tuyển
Môi trường bên trong
b) Tuyển chọn
Khi triển khai kinh doanh, phát triển sự nghiệp, ai cũng muốn tìm được người tốt để trợ giúp, họ luôn để tâm tìm người. Vấn đề đặt ra là có tìm được người tốt như mong muốn hay không? Quyết định là ở khâu tuyển chọn. Người Nhật có câu ngạn ngữ “Chu đáo nhân sự rồi phó thác mệnh trời”, nói lên tầm quan trọng của việc tìm người. - Nhân sự, Chìa khóa của thành công – Trần Quan Tuệ - NXBTPHCM
Tuyển chọn là việc quyết định xem trong số các ứng viên được tuyển
mộ, ai là người hội đủ các tiêu chuẩn để làm việc cho doanh nghiệp.
Điều cần chú ý khi tuyển chọn là phòng quản trị nhân lực phải căn cứ vào bảng miêu tả chi tiết tiêu chuẩn công việc. Dựa vào bảng này các chuyên viên biết được cần những ứng viên có những tiêu chuẩn nào và các chuyên gia sẽ thiết kế các mẫu phỏng vấn, trắc nghiệm thích hợp.
Nhìn một cách tổng quát thì tiến trình tuyển chọn gồm chín bước như trong sơ đồ sau:
Môi trường bên trong
Môi trường bên ngoài
Người được tuyển mộ nộp đơn
Xem xét mẫu
đơn xin việc
Phỏng vấn sơ bộ
Trắc nghiệm
Phỏng vấn kỹ
Tham khảo và
kiểm tra lý lịch
Quyết định tuyển chọn
Khám sức khoẻ
Tuyển dụng bổ nhiệm
ứng
viên
bị
loại
3. Đào tạo và phát triển.
Không có một chính sách công nghệ nào có thể mang lại kết quả nếu không có chuyên gia có khả năng làm chủ và áp dụng các kỹ thuật mới. Đòi hỏi này liên quan từ cấp cao đến cấp thấp. Rõ ràng, không đào tạo thì doanh nghiệp sẽ không phát triển. Nhưng việc đạo tạo người, chỉ nghĩ đến việc đào tạo nhân viên tốt thôi chưa đủ, cần phải đồng thời nghĩ đến việc đào tạo công dân tốt cho xã hội. Nếu chỉ đứng trên lập trường của doanh nghiệp thì việc nâng cao nghiệp vụ, tay nghề là quan trọng, còn đào tạo nhân cách là thứ yếu. Nhưng đứng trên quan điểm xã hội, sẽ thấy như thế chưa đủ, việc đào tạo con người phải bao hàm cả thái độ, nhân cách tốt là rất cần thiết. Với tư cách là đào tạo nghề cho nhân viên thì doanh nghiệp có vai trò rất lớn. Trách nhiệm của doanh nghiệp khá nặng nề.
Đối tượng của hoạt động đào tạo là tất cả các cấp: cán bộ kỹ sư, kỹ thuật viên, công nhân kỹ thuật. Hoạt động đào tạo có thể tiến hành trong công việc hay ngoài công việc, được diễn ra dưới sự kèm cặp của các giám sát viên.
Phòng quản trị nhân lực có vai trò giúp cho các giám sát viên trở thành những người đào tạo tốt hơn, tiến hành các khóa đạo tạo độc lập. Đào tạo các kỹ sư cấp cao, phòng quản trị nhân lực sẽ hướng vào giảng dạy các lĩnh vực khoa học ứng dụng nhiều hơn là khoa học cơ bản. Do tốc độ phát triển nhanh nên đòi hỏi phải có nỗ lực cao. Khi đào tạo các kỹ thuật viên, phòng quản trị nhân lực sẽ đào tạo chuyên ngành xứng với sự phát triển của xí nghiệp, trình độ không cần cao nhưng số lượng lớn hơn. Cuối cùng là đào tạo các công nhân kỹ thuật trong các trung tâm chuyên môn hóa. Ngoài ra, phòng nguồn nhân lực cũng thường có nhiệm vụ đánh giá nhu cầu đào tạo và đánh giá tính hiệu suất của các chương trình đào tạo.
4. Quản trị tiền lương
Lương bổng và đãi ngộ chỉ về mọi loại phần thưởng mà một cá nhân nhận được để đổi lấy sức lao động của mình bỏ ra.
Lương bổng là một trong nh