Trước đây trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung các doanh nghiệp thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh thông qua các chỉ tiêu pháp lệnh của Nhà nước. Vì vậy hoạt động sản xuất kinh doanh bị trì trệ không phát huy được sáng tạo. Trong nền kinh tế này vai trò của tiêu thụ sản phẩm chỉ có phạm vi hạn hẹp, các doanh nghiệp không cần tìm kiếm thị trường tiêu thụ cho sản phẩm của mình mà chỉ cần hoàn thành kế hoạch sản xuất do Nhà nước giao, sản phẩm sản xuất ra sẽ được Nhà nước đưa đến những địa chỉ trong kế hoạch.
80 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1273 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Bàn về một số biện pháp nhằm thúc đẩy hoạt động tiêu thụ sản phẩm tại công ty que hàn điện Việt Đức, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Trước đây trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung các doanh nghiệp thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh thông qua các chỉ tiêu pháp lệnh của Nhà nước. Vì vậy hoạt động sản xuất kinh doanh bị trì trệ không phát huy được sáng tạo. Trong nền kinh tế này vai trò của tiêu thụ sản phẩm chỉ có phạm vi hạn hẹp, các doanh nghiệp không cần tìm kiếm thị trường tiêu thụ cho sản phẩm của mình mà chỉ cần hoàn thành kế hoạch sản xuất do Nhà nước giao, sản phẩm sản xuất ra sẽ được Nhà nước đưa đến những địa chỉ trong kế hoạch.
Chuyển sang nền kinh tế thị trường mỗi đơn vị sản xuất kinh doanh là đơn vị hạch toán độc lập, tự tổ chức quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Trong nền kinh tế thị trường lợi nhuận đã trở thành động lực thúc đẩy chi phối hoạt động của các doanh nghiệp.
Vấn đề đặt ra là làm thế nào để doanh nghiệp hoạt động thành công làm ăn có lãi trong điều kiện môi trường cạnh tranh gay gắt tài nguyên khan hiếm như hiện nay ? Việc quan trọng nhất là đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp, nếu không doanh nghiệp sẽ bị thua lỗ, các sản phẩm của doanh nghiệp sẽ bị tồn đọng, doanh nghiệp không thu hồi được vốn, quá trình tái sản xuất không thực hiện được và cuối cùng doanh nghiệp sẽ bị phá sản. Chính vì lẽ đó công tác tiêu thụ sản phẩm được các nhà doanh nghiệp đặt lên hàng đầu, ưu tiền dành cho nó vị trí cao nhất trong chiến lược kinh doanh của mình.
Tại công ty Que hàn điện Việt Đức, công tác tiêu thụ sản phẩm được coi là khâu quan trọng nhất quyết định toàn bộ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nhận thức được điều đó trong quá trình thực tập tại công ty Que hàn điện Việt Đức, em đã lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Một số biện pháp nhằm thúc đẩy hoạt động tiêu thụ sản phẩm tại công ty que hàn điện Việt Đức” làm đề tài tốt nghiệp của mình.
Đề tài “Một số biện pháp nhằm thúc đẩy hoạt động tiêu thụ sản phẩm ở công ty que hàn điện Việt Đức” được xây dựng nhằm mục đích:
Hệ thống lại một số vấn đề lý luận cơ bản về công tác tiêu thụ sản phẩm.
Phân tích thực trạng tiêu thụ sản phẩm của công ty.
Đề xuất một số giải pháp phát huy lợi thế hiện có và khắc phục những hạn chế của công ty để thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm của công ty trong thời gian tới.
Nội dung của chuyên đề thực tập tốt nghiệp gồm 3 chương:
- Chương I - Hoạt động tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường.
- Chương II - Thực trạng hoạt động tiêu thụ sản phẩm tại công ty que hàn điện Việt Đức.
- Chương III - Một số biện pháp nhằm thúc đẩy hoạt động tiêu thụ sản phẩm của công ty que hàn điện Việt Đức.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo hướng dẫn cùng các cô chú cán bộ trong Công ty Que hàn điện Việt Đức đã tận tình chỉ bảo giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này.
Vì thời gian và trình độ lý luận cũng như kinh nghiệm thực tiễn của em còn hạn chế, do vậy bài viết này chắc chắn không tránh khỏi những sai sót. Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của thầy cô và các bạn cũng như Công ty để chuyên đề của em có thể hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
chương I
Hoạt động tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường:
I-/ Quan niệm và vai trò của hoạt động tiêu thụ sản phẩm ở các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường:
1-/ Quan niệm về tiêu thụ sản phẩm:
ứng với mỗi cơ chế quản lý kinh tế, công tác tiêu thụ sản phẩm được thực hiện bằng các hình thức khác nhau. Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, Nhà nước quản lý kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh. Các cơ quan hành chính kinh tế can thiệp rất sâu vào nghiệp vụ sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, nhưng lại không chịu trách nhiệm về các quyết định của mình. Quan hệ giữa các ngành là quan hệ dọc, được kế hoạch hoá bằng chế độ cấp phát, giao nộp sản phẩm hiện vật. Các doanh nghiệp chủ yếu thực hiện chức năng sản xuất. Hoạt động tiêu thụ sản phẩm trong thời kỳ này chủ yếu là giao nộp sản phẩm cho các đơn vị theo các địa chỉ và giá cả do Nhà nước định sẵn. Tóm lại, trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung khi mà 3 vấn đề trung tâm: sản xuất cái gì? Bao nhiêu? Cho ai? đều do Nhà nước quyết định thì tiêu thụ sản phẩm chỉ là việc tổ chức bán sản phẩm hàng hoá sản xuất ra kế hoạch và giá cả được ổn định từ trước.
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp phải tự mình quyết định 3 vấn đề trung tâm đó thì hoạt động tiêu thụ sản phẩm trở nên vô cùng quan trọng, khó khăn và phức tạp.
Theo nghĩa hẹp: Tiêu thụ sản phẩm được coi là một quá trình chuyển hoá hình thái giá trị của hàng hoá (H - T). Sản phẩm được coi là tiêu thụ khi khách hàng chấp nhận thanh toán. Theo phạm vi này thì tiêu thụ đồng nghĩa với bán hàng.
Theo nghĩa rộng: Tiêu thụ sản phẩm là một quá trình kinh tế bao gồm nhiều khâu từ việc nghiên cứu thị trường, xác định nhu cầu khách hàng đến việc xúc tiến bán ....nhằm mục đích đạt hiệu quả cao nhất.
Hoạt động tiêu thụ sản phẩm ở các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh bao gồm hai loại quá trình và các nghiệp vụ kỹ thuật sản xuất và các nghiệp vụ kinh tế, tổ chức kế hoạch.
2-/ Vai trò của tiêu thụ sản phẩm:
Tiêu thụ sản phẩm là giai đoạn cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh, là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Khi sản phẩm của doanh nghiệp được tiêu thụ, tức là nó đã được người tiêu dùng chấp nhận để thoả mãn một nhu cầu nào đó. Sức tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp thể hiện uy tín của doanh nghiệp, chất lượng sản phẩm, sự thích ứngvới nhu cầu người tiêu dùng và sự cần thiết của các hoạt động dịch vụ. Nói cách khác, tiêu thụ sản phẩm phản ánh đầy đủ những điểm mạnh và điểm yếu của doanh nghiệp.
Tiêu thụ sản phẩm thực hiện mục đích của sản xuất và tiêu dùng, đưa sản phẩm từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng. Nó là nơi lưu thông hàng hoá, là cầu nối trung gian một bên là sản xuất, phân phối và một bên là tiêu dùng.
Tiêu thụ sản phẩm gắn người sản xuất với người tiêu dùng, nó giúp cho các nhà sản xuất hiểu thêm về kết quả sản xuất của mình và nhu cầu của khách hàng.
Công tác tiêu thụ sản phẩm thực hiện được các mục tiêu của doanh nghiệp là: Lợi nhuận, vị thế, an toàn.
Thông qua tiêu thụ sản phẩm, các doanh nghiệp dự đoán nhu cầu tiêu dùng của xã hội nói chung và từng khu vực nói riêng đối với từng loại sản phẩm. Trên cơ sở đó, các doanh nghiệp sẽ xây dựng được các kế hoạch phù hợp, nhằm đạt hiệu quả cao nhất.
Về phương diện xã hội thì tiêu thụ sản phẩm có vai trò trong việc cân đối giữa cung và cầu, vì nền kinh tế quốc dân là một thể thống nhất với những cân bằng, những tương quan tỷ lệ nhất định. Sản phẩm sản xuất ra được tiêu thụ tức là sản xuất đang diễn ra một cách bình thường trôi chảy, tránh được sự mất cân đối, giữ được bình ổn trong xã hội.
Tóm lại: Tiêu thụ sản phẩm là một trong những khâu quan trọng nhất của tái sản xuất xã hội và của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy mọi hoạt động nghiệp vụ khác của doanh nghiệp đều phải tập trung hỗ trợ cho công tác tiêu thụ sản phẩm. Tiêu thụ sản phẩm quyết định sự sống còn của các doanh nghiệp.
3-/ Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động tiêu thụ sản phẩm ở doanh nghiệp:
a, Các nhân tố ảnh hưởng thuộc môi trường kinh doanh:
Các nhân tố thuộc môi trường kinh doanh là các yếu tố khách quan mà doanh nghiệp không thể kiểm soát được. Nghiên cứu các yếu tố này không nhằm để điều khiển nó theo ý muốn của doanh nghiệp mà nhằm tạo ra khả năng thích ứng một cách tốt nhất với xu hướng vận động của nó.
Môi trường kinh doanh tác động liên tục đến hoạt động của các doanh nghiệp theo những xu hướng khác nhau, vừa tạo ra cơ hội vừa hạn chế khả năng thực hiện mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp.
Sau đây ta xem xét một số nhân tố ảnh hưởng thuộc môi trường kinh doanh đến hoạt động tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp.
* Môi trường văn hoá xã hội:
Yếu tố văn hoá xã hội luôn bao quanh doanh nghiệp và khách hàng và có ảnh hưởng lớn đến sự hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Các thị trường luôn bao gồm con người thực với số tiền mà họ sử dụng trong việc thoả mãn các nhu cầu của họ. Một cách đơn giản có thể hiểu: thị trường = khách hàng + túi tiền của họ. Các thông tin về môi trường này cho phép doanh nghiệp có thể hiểu biết những mức độ khác nhau (từ khái quát đến cụ thể) về đối tượng phục vụ của mình. Qua đó, có thể đưa ra một cách chính xác sản phẩm và cách thức phục vụ khách hàng.
Tiêu thức thường được nghiên cứu khi phân tích môi trường văn hoá - xã hội và ảnh hưởng của nó đến kinh doanh:
+ Dân số (quy mô của nhu cầu và tính đa dạng của nhu cầu): tiêu thức này ảnh hưởng đến dung lượng thị trường.
+ Xu hướng vận động của dân số: Tiêu thức này ảnh hưởng chủ yếu đến nhu cầu và việc hình thành các dòng sản phẩm thoả mãn nó trên thị trường.
+ Thu nhập và phân bố thu nhập của người tiêu thụ: Tiêu thức này ảnh hưởng đến nhu cầu sự lựa chọn loại sản phẩm và chất lượng cần đáp ứng của sản phẩm.
+ Dân tộc, chủng tộc, sắc tộc, tôn giáo, nền văn hoá: Phản ánh quan điểm và cách thức sử dụng sản phẩm vừa yêu cầu đáp ứng tính riêng biệt về nhu cầu vừa tạo cơ hội đa dạng hoá khả năng đáp ứng của doanh nghiệp cho nhu cầu.
* Môi trường chính trị - luật pháp:
Các yếu tố chính trị và luật pháp có ảnh hưởng ngày càng lớn đến hoạt động của các doanh nghiệp. Sự thay đổi điều kiện chính trị có thể ảnh hưởng có lợi cho nhóm doanh nghiệp này, kìm hãm sự phát triển của doanh nghiệp khác hoặc ngược lại. Mức độ hoàn thiện, sự thay đổi và thực thi pháp luật trong nền kinh tế có ảnh hưởng lớn đến việc hoạch định và tổ chức thực hiện chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp.
* Môi trường kinh tế và công nghệ :
Các yếu tố thuộc môi trường này quy định cách thức doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế trong việc sử dụng tiềm năng của mình qua đó cũng tạo ra cơ hội kinh doanh cho từng doanh nghiệp.
Xem xét tác động của các thành phần chủ yếu của môi trường kinh tế - công nghệ đến công tác tiêu thụ sản phẩm ở doanh nghiệp.
+ Tiềm năng của nền kinh tế: Liên quan đến các định hướng và tính bền vững của chiến lược của doanh nghiệp.
+ Tốc độ tăng trưởng kinh tế liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến khả năng mở rộng hoặc thu hẹp quy mô của từng doanh nghiệp.
+ Lạm phát và khả năng điều khiển lạm phát.
+ Trình độ trang thiết bị kỹ thuật công nghệ của nền kinh tế: ảnh hưởng trực tiếp đến yêu cầu đổi mới trang thiết bị, khả năng cạnh tranh, lựa chọn cung cấp công nghệ....
+ Khả năng nghiên cứu ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong nền kinh tế: Liên quan đến đổi mới sản phẩm, chu kỳ sống củ sản phẩm, khả năng cạnh tranh...
* Môi trường cạnh tranh:
Cạnh tranh được xác định là động lực thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế thị trường với nguyên tắc ai hoàn thiện hơn, thoả mãn nhu cầu tốt hơn và hiệu quả hơn người đó sẽ thắng, sẽ tồn tại và phát triển. Mức độ cạnh tranh trên thị trường dữ dội hay không phụ thuộc vào mối tương tác giữa các yếu tố số lượng đối thủ, mức độ tăng truởng của ngành, mức độ đa dạng hoá của sản phẩm. Các doanh nghiệp cần xác định cho mình một chiến lược cạnh tranh hoàn hảo, trong chiến lược đó phải có các yếu tố: Điều kiện chung về cạnh tranh trên thị trường, số lượng đối thủ , ưu nhựoc điểm của các đối thủ, chiến lược cạnh tranh của các đối thủ.
* Môi trường địa lý sinh thái:
Các yếu tố địa lý sinh thái và bảo vệ môi truờng tự nhiên ngày nay rất được xem trọng và ảnh hưởng rất lớn đến công tác tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp chẳng hạn: do yêu cầu bảo vệ môi trường doanh nghiệp phải tăng chi phí về xử lý chất thải từ đó làm tăng giá thành sản phẩm.
b, Các nhân tố ảnh hưởng thuộc về doanh nghiệp:
Những nhân tố thuộc nhóm này là tiềm lực của doanh nghiệp. Tiềm lực phản ánh các yếu tố mang tính chủ quan và dường như có thể có thể sử dụng để khai thác cơ hội kinh doanh và thu lợi nhuận.
Tiềm lực của doanh nghiệp bao gồm các yếu tố:
* Tiềm lực tài chính:
Đây là một yếu tố tổng hợp phản ánh sức mạnh của doanh nghiệp thông qua số lượng vốn mà doanh nghiệp có thể huy động vào kinh doanh, khả năng phân phối có hiệu quả các nguồn vốn, khả năng quản lý có hiệu quả các nguồn vốn trong kinh doanh. Tiềm lực về tài chính cho phép doanh nghiệp thực hiện chiến lược tiêu thụ sản phẩm của mình.
* Tiềm năng con người:
Trong kinh doanh (đặc biệt trong lĩnh vực thương mại - dịch vụ) con người là yếu tố quan trọng hàng đầu để đảm bảo thành công. Con người với năng lỵưc của mình có thể phân tích thị trường, đưa ra các chiến lược quyết sách đúng đắn, trực tiếp tạo ra sản phẩm ...Do vậy đánh giá và phát triển tiềm năng con người trở thành một nhiệm vụ ưu tiên mang tính chiến lược trong kinh doanh.
* Tiềm lực vô hình:
Tiềm lực vô hình tạo nên sức mạnh của doanh nghiệp trong hoạt động thương mại thông qua khả năng “ bán hàng” gián tiếp của doanh nghiệp. Sức mạnh thể hiện ở khả năng ảnh hưởng và tác động đến sự lựa chọn chấp nhận và quyết định nua hàng của khách hàng. Tiềm lực vô hình cần được tạo dựng một cách có ý thức thông qua các mục tiêu và chiến lược xây dựng tiềm lực vô hình cho doanh nghiệp.
Tiềm lực vô hình gồm:
+ Hình ảnh và uy tín của doanh nghiệp trên thương trường: Một hình ảnh “tốt” về doanh nghiệp liên quan đến hàng hoá, dịch vụ, chất lượng sản phẩm ... là cơ sở tạo ra sự quan tâm của khách hàng đến sản phẩm của doanh nghiệp. Hình ảnh “ tốt” này cho phép doanh nghiệp “ dễ” bán được sản phẩm của mình hơn.
+Mức độ nổi tiếng của nhãn hiệu hàng hoá : liên quan đến một loại sản phẩm với nhãn hiệu cụ thể của doanh nghiệp. Nhãn hiệu càng nổi tiếng thì khả năng bán hàng càng tốt.
+ Uy tín và mối quan hệ xã hội của lãnh đạo doanh nghiệp : Yếu tố có ảnh hưởng lớn đến các giáo dịch thương mại, đặc biệt trong hình thức bán hàng ở “ cấp cao nhất”, trong các hợp đồng lớn.
* Khả năng kiểm soát chi phối, độ tin cậy của nguồn cung cấp hàng hoá và dự trữ hợp lý hàng hoá của doanh nghiệp.
Yếu tố này tác động mạnh mẽ đến công tác tiêu thụ sản phẩm: Sự thay đổi quá mức của “đầu vào “ sẽ ảnh hưởng đến “giá đầu vào”, “chi phí”, thời điểm giao hàng”...đã được tính đến trong hợp đồng đầu ra. Không kiểm soát hoặc không đảm bảo được sự ổn định, chủ động về nguồn cung cấp hàng hoá cho doanh nghiệp có thể phá vỡ hoặc làm hỏng hoàn toàn chương trình kinh doanh của doanh nghiệp.
* Trình độ tổ chức, quản lý:
Một doanh nghiệp muốn đạt được mục tiêu của mình thì đồng thời phải đạt đến một trình độ tổ chức quản lý tương ứng. Khả năng tổ chức quản lý doanh nghiệp dựa trên quan điểm tổng hợp, bao quát tập trung vào những mối quan hệ tương tác của tất cả các bộ phận tạo thành tổng thể tạo nên sức mạnh thật sự cho doanh nghiệp.
*Trình độ tiên tiến của trang thiết bị, công nghệ.
ảnh hưởng đến năng suất, chi phí, giá thành và chất lượng hàng hoá được đưa ra đáp ứng khách hàng. từ đó ảnh hưởng mạnh đến khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp.
c, Các nhân tố phản ánh nhu cầu và thuộc tính của khách hàng:
Khách hàng là cá nhân, nhóm người, doanh nghiệp, có nhu cầu và có khả năng thanh toán về hàng hoá dịch vụ của doanh nghiệp mà chưa được đáp ứng và mong được thoả mãn.
Thị trường của doanh nghiệp là tập hợp các khách hàng rất đa dạng, khác nhau về lứa tuổi, giới tính, mức thu nhập, nơi cư trú, sở thích tiêu dùng và vị trí trong xã hội ...Từ các đặc điểm khác nhau mà khách hàng sẽ có nhu cầu rất khác nhau về sản phẩm hàng hoá từ đó ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Do vậy hiểu biết đầy đủ về khách hàng nhu cầu và cách thức mua sắm của họ là một trong những cơ sở quan trọng có ý nghĩa quyết định đến khả năng lựa chọn đúng cơ hội kinh doanh và sử dụng có hiệu quả các tiềm năng của doanh nghiệp trong hoạt động thương mại.
Các thông tin cần thiết về khách hàng chính là thông tin về đối tượng tác động của doanh nghiệp trong thương mại và cũng chính là sự hiểu biết về người quyết định cuối cùng cho sự thành công của các quá trình tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp.
Người ta có thể chia khách hàng thành những nhóm khách hàng khác nhau, mỗi nhóm có đặc trưng riêng phản ánh quá trình mua sắm của họ (những đặc điểm này sẽ là gợi ý quan trọng để doanh nghiệp đưa ra các biện pháp phù hợp thu hút khách hàng):
+ Theo mục đích mua sắm: Có khách hàng là người tiêu dùng cuối cùng và người tiêu thụ trung gian.
+ Theo khối lượng hàng hoá mua sắm có khách hàng mua với khối lượng lớn và khách mua với khối lượng nhỏ.
+ Theo mối quan hệ của khách hàng với doanh nghiệp có khách hàng truyền thống và khách hàng mới.
+....
II-/ Nội dung hoạt động tiêu thụ sản phẩm.
1-/ Nghiên cứu và xác định nhu cầu thị trường về sản phẩm.
Trong hoạt động kinh doanh nghiên cứu thị trường nhằm trả lời câu hỏi: sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? cho ai? Tức là thị trường đang cần những loại sản phẩm gì? Đặc điểm kinh tế kỹ thuật của nó ra sao? Dung lượng thị trường về loại sản phẩm đó như thế nào? ai là người tiêu thụ những sản phẩm đó?....
Nghiên cứu thị trường được tiến hành ở 2 cấp độ: nghiên cứu khái quát thị trường và nghiên cứu chi tiết thị trường?
a, Nghiên cứu khái quát thị trường:
Thông qua nghiên cứu khái quát thị trường doanh nghiệp có thể xác định được tổng cung, tổng cầu, giá cả và sự vận động của các tham số đó theo thời gian, từ đó doanh nghiệp có những dự định về việc thâm nhập vào thị trường mới hoặc đánh giá lại các chính sách , sách lược của mình trong thời gian dài đối với một thị trường xác định.
Nội dung nghiêncứu khái quát thị trường:
* Nghiên cứu quy mô cơ cấu và sự vận động của thị trường:
+ Quy mô thị trường:
Khi xác định được quy mô của thị trường doanh nghiệp sẽ biết được tiềm năng của thị trường để có phương hướng phát triển. Có thể đánh giá quy mô của thị trường qua:
- Số lượng người tiêu thụ.
- Khối lượng hàng hoá tiêu thụ.
- Doanh số bán thực tế.
+ Nghiên cứu cơ cấu thị trường: Nghiên cứu cơ cấu thị trường có thể cho phép doanh nghiệp hiểu các bộ phân cấu thành nên thị trường. cơ cấu thị trường có thể đánh giá thao theo các tiêu thức khác nhau:
- Cơ cấu sử dụng: Tỷ lệ giữa việc mua và sử dụng lần đầu với việc mua và sử dụng bổ sung thay thế.
+ Nghiên cứu sự vận động của thị trường: Là nghiên cứu sự biến động theo thời gian của các tham số, bộ phận cơ bản của thị trường là : cung, cầu và giá cả thị trường từng loại hàng. Do vậy nghiên cứu sự vận động của thị trường doanh nghiệp mới xác định được các chính sách trong thời gian tới sao cho phù hợp với sự vận động đó của thị trường để đảm bảo coả hiệu quả cho hoạt động của mình.
* Nghiên cứu giá cả thị trường:
Đó là sự nghiên cứu các yếu tố hình thành giá, các nhân tố tác động và dự đoán những diễn biến của giá cả thị trường.
* Nghiên cứu các trạng thái thị trường:
Nghiên cứu sự tồn tại các trạng thái thị trường với những loại hàng hoá chủ yếu. Tồn tại dạng thị trường độc quyền, cạnh tranh có tính độc quyền, cạnh tranh hoàn hảo với từng loại hàng hoá là có lợi hay bất lợi. Xu hướng chuyển hoá của các dạng thị trường, nguyên nhân và tác động của nó.
* Nghiên cứu các nhân tố tác động đến thị trường:
Thị trường hoạt động chịu sự chi phối của các nhân tố khách quan và chủ quan. Môi trường tác động vào thị trường có thể tạo nên lợi thế cho doanh nghiệp và cũng có thể tác động xấu đến tình hình sản xuất kinh doanh thông qua thị trường. Do vậy, nghiên cứu các nhân tố tác động tới thị trường sẽ là cơ sở để doanh nghiệp đề ra các kế hoạch, chiến lược kinh doanh phù hợp.
Các yếu tố tác động tới thị trường:
Môi trường văn hoá xã hội, môi trường kinh tế công nghệ, môi trường chính trị - luật pháp.
b, Nghiên cứu chi tiết thị trường:
Nghiên cứu chi tiết thị trường thực chất là nghiên cứu đối tượng mua, bán loại hàng hoá mà doanh nghiệp kinh doanh, chính sách mua bán của các doanh nghiệp có nguồn hàng lớn.
Nghiên cứu chi tiết thị trường phải nghiên cứu nhu cầu của khách hàng và loại hàng mà doanh nghiệp kinh doanh. Đối với hàng tiêu dùng, nhu cầu về loại hàng phụ thuộc vào sở thích (thị hiếu), thu nhập, lứa tuổi, nghề nghiệp, thói quen... Đối với hàng tư liệu sản xuất phụ thuộc vào công nghệ, định mức sử dụng nguyên vật liệu trong sản xuất và kế hoạch sản xuất mặt hàng của doanh nghiệp sản xuất. Người quyết định mua hàng không phải là người đi mua hàng cụ thể mà chính là yêu cầu của kỹ thuật công nghệ sản xuất...
Khi nghiên cứu chi tiết thị trường doanh nghiệp phải x