Đề tài Bàn về vấn đề toàn cầu hóa

Toàn cầu hoá hiện nay đang tác động hết sức mạnh mẽ đến các quốc gia dân tộc, đến đời sống xã hội của cả cộng đồng nhân loại, cũng như đến cuộc sống của từng cá nhân. Tuy nhiên, cách nhìn nhận và thái độ đối với toàn cầu hoá là hết sức khác nhau. Trong khi một số nước tiếp cận toàn cầu hoá một cách hồ hởi thì ở nhiều nước khác phong trào chống toàn cầu hoá lại diễn ra một cách rộng khắp và thu hút hàng vạn người tham gia

doc46 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 3428 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Bàn về vấn đề toàn cầu hóa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Toàn cầu hóa. PHẦN MỞ ĐẦU Toàn cầu hoá hiện nay đang tác động hết sức mạnh mẽ đến các quốc gia dân tộc, đến đời sống xã hội của cả cộng đồng nhân loại, cũng như đến cuộc sống của từng cá nhân. Tuy nhiên, cách nhìn nhận và thái độ đối với toàn cầu hoá là hết sức khác nhau. Trong khi một số nước tiếp cận toàn cầu hoá một cách hồ hởi thì ở nhiều nước khác phong trào chống toàn cầu hoá lại diễn ra một cách rộng khắp và thu hút hàng vạn người tham gia. Song bất chấp thái độ khác nhau, ủng hộ hay phản đối, toàn cầu hoá vẫn diễn ra như một xu thế tất yếu và ngày càng được mở rộng. Đây là một vấn đề vô cùng rộng lớn và phức tạp chính vì vậy mà chúng ta phải tiếp cận vấn đề toàn cầu hoá duới nhiều lăng kính, góc độ khác nhau như: Triết học, chính trị học, văn hoá học… Nhưng dù dưới góc độ hay tầm nhìn nào thì nhất thiết phải chỉ ra được: Bản chất, động lực, xu hướng, và những mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình toàn cầu hoá nói chung, cũng như mối quan hệ giữa toàn cầu hoá kinh tế và toàn cầu hoá chính trị nói riêng trong bối cảnh hiện nay. Toàn cầu hoá trước hết được biểu hiện ở tính tất yếu của toàn cầu hoá kinh tế. Toàn cầu hoá kinh tế là yếu tố quan trọng nhất, như hạt nhân của toàn cầu hoá, nó đang tác động mạnh mẽ đến lĩnh vực chính trị, cũng như các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Song trong khuôn khổ của bài viết này, chúng tôi chỉ dừng lại ở việc giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa toàn cầu hoá kinh tế với toàn cầu hoá chính trị dưới góc độ tiếp cận của triết học chính trị. Như thế có thể hiểu chúng ta sẽ tiếp cận mối quan hệ này dưới góc độ của sự tác động toàn cầu hoá kinh tế đến vấn đề về bản chất nhà nước và quyền lực, ý nghĩa, mục đích của chúng, quan hệ của chúng với bản chất con người và những thay đổi này sẽ tác động ngược trở lại vấn đề kinh tế như thế nào? PHẦN NỘI DUNG I. Lý luận chung về Toàn cầu hoá. 1. Toàn cầu hoá. Trong những thập kỉ gần đây, sau sự ra đi của trật tự thế giới hai cực, toàn cầu hoá trở thành một trong những cụm từ được sử dụng nhiều và có mức độ chi phối cao trong đời sống xã hội thế giới. Rõ ràng, toàn cầu hoá là một vấn đề rộng lớn đang tác động trực tiếp đến lợi ích của các quốc gia, dân tộc không phân biệt chế độ chính trị - xã hội, biên giới quốc gia. Vậy toàn cầu hoá là gì, diễn ra từ khi nào, có bản chất và biểu hiện thế nào, nguyên nhân nào dẫn đến toàn cầu hoá và nó tác động ra sao đối với sự phát triển của từng nước cũng như mối quan hệ quốc tế. Đó là vấn đề lý luận và thực tiễn đáng quan tâm. Toàn cầu hoá chính là một hiện tượng nằm trong quá trình phát triển tự nhiên của xã hội loài người. Sự phát triển của các sự vật, hiện tượng theo nguyên lý phát triển có lặp lại về hình thức nhưng ở một trình độ cao hơn. Sự phát triển của lịch sử loài người tất nhiên không nằm ngoài quy luật đó.chỉ có điều, loài người do đạt đến trình độ cao trong nhận thức và hành động nên có thể đẩy nhanh hay làm chậm quá trình phát triển mà thôi. Trước kia khi trình độ phát triển còn thấp, nhu cầu còn đơn giản, những mối quan hệ trong nội bộ địa phương, trong cộng đồng tộc người cũng hoàn toàn thoả mãn cho nhu cầu của cộng đồng nên người ta ít, thậm chí không quan tâm, quan hệ, hoặc không thể, không biết để mà quan hệ với nhau. Địa phương trở thành mối quan tâm duy nhất của cộng đồng và người ta tìm mọi cách để bảo vệ địa phương, duy trì quyền lực tại địa phương. Thực tế tồn tại của xã hội loài người từ công xã nguyên thuỷ đến thời phong kiến cát cứ đã chứng minh điều đó. Khi đạt tới trình độ phát triển cao hơn, thì những mối quan hệ trong cộng đồng, trong địa phương không thể đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển, người ta buộc phải phá bỏ cái vỏ bọc chật hẹp để vươn tơi những mối quan hệ rộng lớn hơn. Vì vậy chế độ phong kiến tập quyền đã thay thế cho phong kiến phân quyền, những mối quan hệ mang tầm quốc gia có vai trò càng lớn song hành với những quan hệ mang tầm địa phương, cộng đồng. Với sự ra đời của chủ nghĩa tư bản, với những tiến bộ mọi mặt của nhân loại, không gian quốc gia trở nên nhỏ bé, chật hẹp và một lần nữa, con người lại tìm mọi cách để mở rộng các mối quan hệ, mở rộng phạm vi hoạt động của mình. Những cuộc phát kiến địa lý, những cuộc chiến tranh xâm lược rõ ràng có mục đích mở rộng không gian lãnh thổ phục vụ cho các đế quốc, mở rộng tầm hoạt động cho con người. Khi tầm hoạt động đã vươn ra khỏi quốc gia dân tộc truyền thống thì tất yếu giữa các quốc gia dân tộc sẽ có sự tranh giành quyền lợi. Đó là sự tranh chấp giữa kẻ đi tước đoạt và quốc gia bị tước đoạt, giữa những kẻ đi tước đoạt với nhau. Như thế, các mâu thuẫn quốc tế đã xuất hiện và đóng một vai trò tất yếu trong sự phát triển của nhân loại. Những vấn đề liên quan đến sự tồn vong của quốc gia không chỉ trở thành vấn đề riêng của họ mà còn trở thành vấn đề mang tính quốc tế. Toàn cầu hoá hiện nay, về hình thức có thể nói là thời kì mà nhân loại quay trở về với nguồn cội, nhưng với trình độ cao hơn.Tiền thân của toàn cầu hoá xuất hiện từ khi xuất hiện “con đường tơ lụa”. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, sự trao đổi hàng hoá và mở rộng thị trường, các mối quan hệ dần dần vượt ra khỏi ranh giới các quốc gia và hình thành mối quan hệ quốc tế Toàn cầu hoá, theo nghĩa cổ điển, đã bắt đầu vào khoảng thế kỷ thứ 15, sau khi có những cuộc thám hiểm hàng hải quy mô lớn. Cuộc thám hiểm lớn lần đầu tiên vòng quanh thế giới do Ferdinand Magellan thực hiện vào năm 1522. Cũng như việc xuất hiện các trục đường trao đổi thương mại giữa Châu Âu, Châu Á, Châu Phi và Châu Mỹ không phải là hiện tượng gần đây. Ngoài những trao đổi về hàng hoá vật chất, một số giống cây cũng được đem trồng từ vùng khí hậu này sang vùng khí hậu khác (chẳng hạn như khoai tây, cà chua và thuốc lá). "Thời kỳ đầu của toàn cầu hoá" rơi vào thoái trào khi bắt đầu bước vào Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, và sau đó sụp đổ hẳn khi xảy ra khủng hoảng bản vị vàng vào cuối những năm 1920 và đầu những năm 1930. Trong môi trường hậu Chiến tranh thế giới lần thứ hai, thương mại quốc tế đã tăng trưởng đột ngột do tác động của các tổ chức kinh tế quốc tế và các chương trình tái kiến thiết. Kể từ Chiến tranh thế giới lần thứ hai, các Vòng đàm phán thương mại do GATT khởi xướng, đã đặt lại vấn đề toàn cầu hoá và từ đó dẫn đến một loạt các hiệp định nhằm gỡ bỏ các hạn chế đối với "thương mại tự do". Vòng đàm phán Uruguay đã đề ra hiệp ước thành lập Tổ chức thương mại thế giới hay WTO, nhằm giải quyết các tranh chấp thương mại. Các hiệp ước thương mại song phương khác, bao gồm một phần của Hiệp ước Maastricht của Châu Âu và Hiệp ước mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA) cũng đã được ký kết nhằm mục tiêu giảm bớt các thuế quan và rào cản thương mại. Từ thập kỷ 1970, các tác động của thương mại quốc tế ngày càng rõ rệt, cả về mặt tích cực lẫn tiêu cực. Thuật ngữ toàn cầu hoá xuất hiện vào những năm 1950, với sự phổ biến các phương tiện vận tải có động cơ và sự gia tăng các trao đổi thương mại; và được chính thức sử dụng rộng rãi từ những năm 1990 của thế kỷ thứ 20. Lịch sử đã chứng minh, mỗi cộng đồng người muốn phát triển thì không thể chỉ dựa vào việc áp chế mà còn phải dựa vào sự phối hợp với các cộng đồng khác. Vì vậy, khi nhu cầu cho sự phát triển vượt ra khỏi biên giới quốc gia thì bên cạnh việc đấu tranh với nhau, các cộng đồng người phải phối hợp, cộng tác với nhau và đòi hỏi này càng trở nên cấp thiết nên toàn cầu hoá hoá là một hiện tượng tất yếu và một quá trình phát triển tự nhiên của xã hội loài người. Vấn đề ở đây chúng ta cần phải hiểu được toàn cầu hoá là gì? Có rất nhiều quan điểm khác nhau về toàn cầu hoá chứ chưa hề có một khái niệm hay một định nghĩa cụ thể về toàn cầu hoá. Chủ tịch quỹ Ford đã đưa ra quan điểm: Toàn cầu hoá phản ánh một mức độ ảnh hưởng lẫn nhau toàn diện hơn so với quá khứ. Nó ngụ ý tầm quan trọng ngày càng giảm của các đường biên giới quốc gia và sự tăng cường những đắc tính lan toả ra ngoài biên giới, bắt nguồn từ một nước hoặc một khu vực nhất định. Theo T.Phridmen, toàn cầu hoá là một hệ thống mới, thay thế cho hệ thống chiến tranh lạnh không phải bất kỳ nước nào cũng tự có thể coi mình là một bộ phận của hệ thống này, nhưng tất cả mọi quốc gia đều thực sự chịu áp lực, chúng cần phải thích nghi với lời thách thức của toàn cầu hoá. Nhưng sự lựa chọn kinh tế của đa số chính phủ lại bị hạn chế đáng kể vì trên thế giới có một siêu cường quốc tế và chủ nghĩa tư bản đang cai trị thế giới. Nhà lý luận người Mĩ R.Pholk cho rằng “một điều hiển nhiên là mối liên hệ kinh tế qua lại cùng với ảnh hưởng của internet và các phương tiện toàn cầu sẽ làm thay đổi quan niệm của chúng ta về trật tự thế giới một cách căn bản. Nhà nước không còn là một lực lượng thống trị trên diễn đàn thế giới. Các lực lượng thị trường toàn cầu dưới hình thức các công ty và các ngân hàng đa dân tộc sẽ có ảnh hưởng mạnh mẽ và độc lập. Chúng hành động trên diễn đàn quốc tế với những sự hạn chế tối thiểu.” Toàn cầu hoá là quá trình không phải do các lực lượng nhà nước mà do các lực lượng thi trường qui định để thu hút tư bản mong muốn và đặt hy vọng vào của cải, vào thành quả của công nghiệp hiện đại và công nghiệp tương lai. Các quốc gia cần phải đưa đầu vào cái vòng kim cô của ngân sách cân bằng, của quá trình tư hữu hoá kinh tế, của chính sách mở cửa cho đầu tư và các hệ thống thị trường của đồng tiền ổn định. Từ những quan điểm trên có thể thấy rõ toàn cầu hoá là một quá trình hình thành một chỉnh thể thống nhất toàn thế giới, đó là quá trình ảnh hưởng tác động xâm nhập lẫn nhau xuyên biên giới, trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, trước hết và chủ yếu trên lĩnh vực kinh tế và vận hành trong một trật tự hệ thống toàn cầu. Tức toàn cầu hoá có thể được hiểu theo một số quan điểm sau: Thứ nhất, toàn cầu hoá là một quá trình dẫn tới sự thống nhất hội tụ chứ không phải là một qúa trình đồng nhất đơn thuần. Trong đó các bộ phận của thế giới hoà nhập vào nhau vì lợi ích của mình cũng như lợi ích chung của nhân loại. Thứ hai, đó là một qúa trình tự nhiên của xã hội, của lịch sử. Đó là quá trình phát triển của nhân loại hướng tới sự thống nhất trong tính đa dạng. Thứ ba, toàn cầu hoá là một qúa trình có điều khiển, có sự tác động của con người thông qua những thiết chế được tạo ra trong những thời kì nhất định. " Thứ tư, đó là sự hình thành nên một ngôi làng toàn cầu — dưới tác động của những tiến bộ trong lĩnh vực tin học và viễn thông, quan hệ giữa các khu vực trên thế giới ngày càng gần gũi hơn, cộng với sự gia tăng không ngừng về các trao đổi ở mức độ cá nhân và sự hiểu biết lẫn nhau cũng như tình hữu nghị giữa các "công dân thế giới", dẫn tới một nền văn minh toàn cầu, Thứ năm, Toàn cầu hoá có hạt nhân là toàn cầu hoá kinh tế — "thương mại tự do" và sự gia tăng về quan hệ giữa các thành viên của một ngành công nghiệp ở các khu vực khác nhau trên thế giới (toàn cầu hoá một nền kinh tế) ảnh hưởng đến chủ quyền quốc gia trong phạm vi kinh tế. Thứ sáu, đó là những tác động tiêu cực của các tập toàn đa quốc gia tìm kiếm lợi nhuận — việc sử dụng các phương tiện luật lệ và tài chính mạnh mẽ và tinh vi để vượt qua giới hạn của các tiêu chuẩn và luật pháp địa phương hòng lợi dụng nhân công và dịch vụ của các vùng phát triển chưa đồng đều lẫn nhau. Sự lan rộng của chủ nghĩa tư bản từ các quốc gia phát triển sang các quốc gia đang phát triển. Vậy nguyên nhân và động lực nào dẫn tới xu thế toàn cầu hoá? Nguyên nhân trực tiếp và là động lực của toàn cầu hoá đó là vì lợi ích của giai cấp, lợi ích của dân tộc. Từ lợi ích kinh tế đến phi kinh tế, từ những lợi ích bằng vật thể đến lợi ích phi vật thể. Trong đó lợi ích về kinh tế quốc phòng hay nói cách khác đó là lợi ích liên quan trực tiếp đến sự tồn vong của một quốc gia là điều phổ biến và thường xuyên nhất…xét đến cùng động lực của toàn cầu hoá là sự phát triển của lực lượng sản xuất mà sự phát triển của lực lượng sản xuất không ngừng lớn mạnh. Sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật đã trực tiếp thúc đẩy sự phát triển của kinh tế các nước và đẩy nhanh quá trình toàn cầu hoá…thành tựu của khoa học kỹ thuật đã khiến người luôn muốn vươn ra khỏi ranh giới của mình .Ví như sự ra đời của xe lửa đã nối liền các vùng đất xa xôi. Dần phát triển là máy bay làm sự đi lại giữa các nước diễn ra nhanh chóng , các máy móc ra đời khiến xã hội ngập trong một khối lượng hang hoá khổng lồ. Sự ra đời của điện thoại, Intenet làm con người từng ngày, từng giờ có thể kết nối với nhau, đã thực sự biến thế giới thành một ngôi nhà chung. Đây là quy luật chung nhất cho mọi thời đại, mọi chế độ xã hội. Sự lớn mạnh đó không chỉ theo cấp số cộng mà theo cấp số nhân. Cái cấp số này lớn đến mức nào không chỉ tuỳ thuộc vào sự phát triển của khoa học công nghệ mà còn tuỳ thuộc vào cách tổ choc quan hệ sản xuất, nhưng càng về sau cấp số này sẽ càng lớn. Bên cạnh đó là các tổ chức mang tính quốc tế …đã làm cho hoạt động kinh tế xã hội của các quốc gia được điều chỉnh theo một hướng thống nhất thế giới, tạo cơ hội cho sự xâm nhập lẫn nhau của các cộng đồng đó chính là việc tạo cơ hội cho quốc tế hoá toàn cầu. Toàn cầu hoá có những biểu hiện sau: Có thể nhận biết toàn cầu hoá thông qua một số xu hướng, hầu hết các xu hướng đó bắt đầu từ Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Trong số đó có lưu thông quốc tế ngày càng tăng đối với hàng hoá, tiền tệ, thông tin và người; cùng với việc phát triển các công nghệ, tổ chức, hệ thống luật lệ và cơ sở hạ tầng cho việc lưu thông này. Toàn cầu hoá là sự gia tăng mạnh mẽ các mối quan hệ gắn kết tác động, phụ thuộc lẫn nhau; là quá trình mở rộng quy mô và cường độ các hoạt động giữa các khu vực, các quốc gia, các dân tộc trên phạm vi toàn cầu trong sự vận động, phát triển.Gia tăng thương mại quốc tế với tốc độ cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới .Gia tăng luồng tư bản quốc tế bao gồm cả đầu tư trực tiếp từ nước ngoài hay những luồng dữ liệu xuyên biên giới thông qua việc sử dụng các công nghệ như Internet, các vệ tinh liên lạc và điện thoại. Gia tăng trao đổi văn hoá quốc tế, chẳng hạn như việc xuất khẩu các văn hoá phẩm như phim ảnh hay sách báo. Toàn cầu hoá cũng tác động đến ý thức con người, khiến con người chú ý hơn đến những vấn đề có ảnh hưởng toàn cầu như vấn đề nóng lên của khí hậu, khủng bố, buôn lậu ma tuý và vấn đề nâng cao mức sống ở các nước nghèo. Sự tràn lan của chủ nghĩa đa văn hoá và việc cá nhân ngày càng có xu hướng hướng đến đa dạng văn hoá, mặt khác, làm mất đi tính đa dạng văn hoá thông qua sự đồng hoá, lai tạp hoá, Tây hoá, Mỹ hoá hay Hán hoá của văn hoá. Làm mờ đi ý niệm chủ quyền quốc gia và biên giới quốc gia thông qua các hiệp ước quốc tế dẫn đến việc thành lập các tổ chức như WTO và OPEC. Gia tăng việc đi lại và du lịch quốc tế, di cư, bao gồm cả nhập cư trái phép. Phát triển hạ tầng viễn thông toàn cầu, phát triển các hệ thống tài chính quốc tế. Gia tăng thị phần thế giới của các tập đoàn đa quốc gia, vai trò của các tổ chức quốc tế như WTO, WIPO, IMF chuyên xử lý các giao dịch quốc tế, số lượng các chuẩn áp dụng toàn cầu; vận dụng luật bản quyền. Các rào cản đối với thương mại quốc tế đã giảm bớt tương đối kể từ Chiến tranh thế giới lần thứ hai thông qua các hiệp ước như Hiệp ước chung về thuế quan và mậu dịch (GATT). Các đề xuất của GATT cũng như WTO bao gồm: Thúc đẩy thương mại tự do. Về hàng hoá: giảm hoặc bỏ hẳn các loại thuế quan; xây dựng các khu mậu dịch tự do với thuế quan thấp hoặc không có . Về tư bản: giảm hoặc bỏ hẳn các hình thức kiểm soát tư bản. Giảm, bỏ hẳn hay điều hoà việc trợ cấp cho các doanh nghiệp địa phương. Thắt chặt vấn đề sở hữu trí tuệ. Bằng cách hoà hợp luật sở hữu trí tuệ giữa các quốc gia. Công nhận sở hữu trí tuệ ở quy mô giữa các nước. Chính vì vậy, toàn cầu hoá là một xu hướng bao gồm nhiều phương diện: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội. Trong đó toàn cầu hoá kinh tế vừa là trung tâm, vừa là cơ sở và động lực thúc đẩy các lĩnh vực khác của xu thế toàn cầu hoá nói chung. Thực tế toàn cầu hoá kinh tế là xu thế trội bậc nhất. Quá trình phát triển đi lên của các nước đã chứng minh rằng mỗi một cộng đồng, một đất nước muốn phát triển thì không thể đứng độc lập ngoài các mối quan hệ quốc tế. Những mối quan hệ đa chiều, phức tạp đan xen giữa loại bỏ và nâng đỡ, đấu tranh và thoả hiệp,… Bao trùm lên mọi lĩnh vực từ kinh tế chính trị đến văn hoá xã hội, lối sống của từng quốc gia, các tổ chức liên quốc gia như: WTO, EU, AS EAN, Thị trường chung Nam Mỹ,… Các hội nghị quốc tế: diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC), diễn đàn hợp tác Á- ÂU (ASEM)…, việc đi thăm viếng, ngoại giao giữa các nước diễn ra không những đã và đang thể hiện nhu cầu toàn cầu hoá ngày càng cấp thiết. Những vấn đề liên quan đến sự tồn vong của các nước không chỉ là vấn đề của riêng họ nữa mà trở thành vấn đề mang tính quốc tế. Những thuộc tính cơ bản của quá trình toàn cầu hoá kinh tế hiện đại. Lịch sử của quá trình quốc tế hoá, toàn cầu hoá kinh tế rất lâu dài, và phải thấy rằng, cơ cấu của toàn cầu hoá bắt đầu từ sự hình thành nhà nước, quốc gia dân tộc và tư nhân hoá - những cỗ xe đi đến hiện đại. Kết quả tất yếu là sự mở rộng thị trường thế giới. Mở rộng thị trường thế giới gắn với việc phát triển lực lượng sản xuất của chủ nghĩa tư bản và cả quan hệ sản xuất của chủ nghĩa tư bản. Sự hiện đại hoá lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất của chủ nghĩa tư bản dẫn tới toàn cầu hoá. Nó đi trước và quyết định quá trình toàn cầu hoá. Song, cho đến nay, toàn cầu hoá lại là một trong những điều kiện để hiện đại hoá thế giới, bất chấp ý muốn của ai. Sự phát triển của Phương Tây thúc đẩy hiện đại hoá, toàn cầu hoá. Bởi vậy, việc hiện đại hoá của thế giới, trong đó có các nước đang phát triển ở Phương Đông không thể bỏ qua một thực tế là phải hiện đại hoá theo những kinh nghiệm của Phương Tây trên nền văn hóa của Phương Đông. Tiếp thu văn hóa, văn minh Phương Tây, Việt Nam có cách tiếp cận và phương pháp luận của chúng ta. 2.Toàn cầu hóa kinh tế(TCHKT): 2.1 Định nghĩa: Ủy ban Châu Âu định nghĩa: TCHKT có thể được định nghĩa như là một quá trình mà thông qua đó thị trường và sản xuất ở nhiều nước khác nhau đang ngày càng trở nên phụ thuộc lẫn nhaudo có sự năng động của việc buôn bán hàng hóavà dịch vụ, cũng như có sự lưu thông vốn và công nghệ. Đây không phải là một hiện tượng mới, mà là sự tiếp tục của một quá trình được khởi mào từ khá lâu. Tiến sĩ Vũ Văn Hà cho rằng: TCHKT chính là sự gia tăng nhanh chóng các hoạt động kinh tế, các mối liên hệ kinh tế vượt qua mội biên giới, khu vực vươn tới qui mô toàn cầu, tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế trong sự vận động, phát triển. sự gia tăng của xu thế này được thể hiện ở sự mở rộng mức độ và qui mô mậu dịch quốc tế, sự lưu chuyển của các dòng vốn và lao động trên phạm vi toàn cầu. TCHKT chính là quá trình chuyển từ một nền kinh tế khép kín, riêng rẽ từng quốc gia.thành một nền kinh tế toàn cầu, trong đó kinh tế của mỗi quốc gia là một bộ phận hợp thành chỉnh thể của nền kinh tế toàn cầu, các quốc gia liên kết chặt chẽ với nhau, phụ thuộc lẫn nhau trong sự phân công và công tác trên phạm vi toàn cầu. 2.1.1 Thực chất của TCHKT: TCHKT là phương thức sản xuất mà sức sản xuất vượt ra ngoài biên giới quốc gia thúc đẩy thị trường trong nước hướng ra thị trường toàn cầu, hình thành cơ chế vận hành kinh tế toàn cầu, đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Là quá trình thị trường hóa kinh tế toàn cầu, do vậy cơ sở kinh tế phải là nền kinh tế thị trường. TCHTK là quá trình phân phối lại lợi ích của các nước trên thế giới, nhưng trong sự phát triển cảu mình chưa bao giờ và sẽ không bao giờ có sự chia đều lợi ích cho các bên. Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, các nước nước đang xích lại gần nhau nhưng đồng thời nó làm cho các vấn đề kinh tế, chính trị, văn hóa có nhiều thay đổi, xung đột mới, đặc biệt là vấn đề kinh tế. Bản chất của TCHKT là thế giới hóa nền kinh tế thị trường nghĩa là cơ chế vận hành của kinh tế thị trường ngày càng đột phá giới hạn giữa dân tộc và cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, để trở thành cơ chế vận hành chung cho nền kinh tế toàn cầu, cơ chế vận hành này làm cho hành vi kinh tế của một dân tộc hay quốc gia bất kì ngày càng mất đi cá tính văn hóa và đặc trư
Tài liệu liên quan