Chúng ta đang sống trong thời đại bùng nổ thông tin mà ở đó khối lượng tri thức của loài người tăng lên với tốc độ cực kỳ nhanh chóng. Người ta tính được sau 10 năm thì lượng tri thức tăng lên gấp đôi. Đứng trước thực tế này, GD nhà trường đã có những thay đổi căn bản: từ quan niệm học tập chỉ trong một thời gian nhất định bằng quan niệm: “học thường xuyên, học liên tục, học suốt đời”. Để có thể học tập suốt đời đạt hiệu quả, đương nhiên mỗi người phải lựa chọn cho mình một cách phù hợp nhất, lấy tự học làm nền tảng.
Việt nam đang bước vào giai đoạn CNH – HĐH với mục tiêu đến năm 2020 sẽ cơ bản trở thành nước công nghiệp. Nhân tố quyết định thắng lợi của cuộc CNH – HĐH là con người là nguồn lực người Việt Nam được phát triển về số lượng và chất lượng trên cơ sở mặt bằng dân trí được nâng cao. Để làm được điều này GD Việt Nam đang phải đứng trước một bài toán: phải đổi mới một cách toàn diện từ mục tiêu, nội dung đến phương pháp và phương tiện dạy học. Về PPDH, nghị quyết TW2 khóa WIII (12/1996) đã chỉ rõ: “phải đổi mới mạnh mẽ phương pháp GD – ĐT, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học, từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học (QTDH), đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu, tự giải quyết vấn đề, phát triển năng lực thực hành sáng tạo cho người học, ”
Nghị quyết TW2 (khoá VIII) của Đảng đã khẳng định: “Cuộc cách mạng về phương pháp giáo dục phải hướng vào người học, rèn luyện và phát triển khả năng suy nghĩ, khả năng giải quyết vấn đề một cách năng động, độc lập, sáng tạo ngay trong quá trình học tập ở nhà trường phổ thông”. Trong luật giáo dục năm 2005 tại điều 27 quy định về mục tiêu giáo dục phổ thông phải giúp học sinh “phát triển năng lực cá nhân, tính năng động, sáng tạo ”; tại Điều 28 quy định về nội dung, phương pháp giáo dục phổ thông: “Nội dung giáo dục phổ thông phải đảm bảo tính phổ thông, cơ bản, toàn diện, hướng nghiệp và có hệ thống; gắn với thực tiễn cuộc sống”, về phương pháp phải “phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh’’[15, tr. 20- 22].
41 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2416 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Bàn về việc tự học thông qua việc ôn tập chương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở Đầu
Lý do chọn đề tài:
Chúng ta đang sống trong thời đại bùng nổ thông tin mà ở đó khối lượng tri thức của loài người tăng lên với tốc độ cực kỳ nhanh chóng. Người ta tính được sau 10 năm thì lượng tri thức tăng lên gấp đôi. Đứng trước thực tế này, GD nhà trường đã có những thay đổi căn bản: từ quan niệm học tập chỉ trong một thời gian nhất định bằng quan niệm: “học thường xuyên, học liên tục, học suốt đời”. Để có thể học tập suốt đời đạt hiệu quả, đương nhiên mỗi người phải lựa chọn cho mình một cách phù hợp nhất, lấy tự học làm nền tảng.
Việt nam đang bước vào giai đoạn CNH – HĐH với mục tiêu đến năm 2020 sẽ cơ bản trở thành nước công nghiệp. Nhân tố quyết định thắng lợi của cuộc CNH – HĐH là con người là nguồn lực người Việt Nam được phát triển về số lượng và chất lượng trên cơ sở mặt bằng dân trí được nâng cao. Để làm được điều này GD Việt Nam đang phải đứng trước một bài toán: phải đổi mới một cách toàn diện từ mục tiêu, nội dung đến phương pháp và phương tiện dạy học. Về PPDH, nghị quyết TW2 khóa WIII (12/1996) đã chỉ rõ: “phải đổi mới mạnh mẽ phương pháp GD – ĐT, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học, từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học (QTDH), đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu, tự giải quyết vấn đề, phát triển năng lực thực hành sáng tạo cho người học, …”
Nghị quyết TW2 (khoá VIII) của Đảng đã khẳng định: “Cuộc cách mạng về phương pháp giáo dục phải hướng vào người học, rèn luyện và phát triển khả năng suy nghĩ, khả năng giải quyết vấn đề một cách năng động, độc lập, sáng tạo ngay trong quá trình học tập ở nhà trường phổ thông”. Trong luật giáo dục năm 2005 tại điều 27 quy định về mục tiêu giáo dục phổ thông phải giúp học sinh “phát triển năng lực cá nhân, tính năng động, sáng tạo ”; tại Điều 28 quy định về nội dung, phương pháp giáo dục phổ thông: “Nội dung giáo dục phổ thông phải đảm bảo tính phổ thông, cơ bản, toàn diện, hướng nghiệp và có hệ thống; gắn với thực tiễn cuộc sống”, về phương pháp phải “phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh’’[15, tr. 20- 22].
Một số kết quả điều tra xã hội học và nghiên cứu tâm sinh lý của học sinh gần đây trên thế giới cũng như ở Việt Nam cho thấy đã có sự thay đổi mạnh mẽ trong quá trình phát triển tâm sinh lý của thanh thiếu niên hiện nay: các em giờ đây được tiếp nhận nhiều nguồn thông tin đa dạng phong phú từ nhiều mặt của cuộc sống, vì thế có hiểu biết linh hoạt và thực tế hơn so với thế hệ cùng lứa tuổi cách đây vài chục năm. Trong học tập, các em không thỏa mãn với vai trò của người tiếp thụ thông tin thụ động, không dừng lại ở việc tiếp nhận các giải pháp được đưa ra. Các em mong muốn được thể hiện trong quá trình phù hợp. Đó là quá trình lĩnh hội một cách độc lập các tri thức và phát triển kỹ năng. Tuy các phương thức học tập tự lực ở các em nếu muốn được hình thành một cách có chủ định thì cần phải có sự hướng dẫn, đặc biệt là ở lứa tuổi nhỏ các em chưa biết tổ chức các hoạt động trí tuệ cho mình, chưa nắm được một số thủ pháp tư duy, ghi nhớ, tập trung chú ý, … đối với tài liệu học tập.
Vì vậy nhiệm vụ của nhà trường phổ thông trong khi tiến hành đổi mới PPDH là phải theo hướng phát huy tích cực, độc lập sáng tạo của người học; giúp người học tự tìm tòi, tự khám phá và suy nghĩ trong quá trình học tập. Trên cơ sở đó mà học tập suốt đời.
Chương trình SGK hiện nay đã góp phần thực hiện giáo dục toàn diện đức, trí, thể, mĩ bảo đảm tính hệ thống sự liên tục giữa các cấp học, liên thông giữa giáo dục phổ thông với giáo dục chuyên nghiệp…. Những hạn chế là: “chưa trực tiếp giúp đỡ giáo viên và học sinh chuyển từ cách dạy học thụ động áp đặt, chủ yếu là đối phó với thi cử sang cách dạy học tích cực, chủ động để phát triển năng lực sáng tạo và phương pháp tự học của học sinh.
Vì vậy chúng tôi lựa chọn đề tài: “Bàn về việc tự học thông qua việc ôn tập chương” làm đề tài nghiên cứu, với mong muốn được góp phần nhỏ bé vào quá trình đổi mới PPDH ở trường THPT hiện nay, bằng cách tìm hiểu xây dựng cách ôn tập chương và một số tiết ôn tập.
CHƯƠNG ICƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
CƠ SỞ LÝ LUẬN
Lịch sử nghiên cứu vấn đề tự học:
a.1. Vấn đề tự học ở nước ngoài:
Tự học đã được con người thực hiện từ rất sớm, ngay từ khi GD chưa trở thành một nghành khoa học thực sự. Ở thời kỳ đó, người ta đã biết quan tâm đến việc làm sao cho người học chăm chỉ, tích cực ghi nhớ được những giáo huấn của thầy và hành động theo những điều ghi nhớ đó.
Montaigne từng khuyên rằng: “tốt hơn là ông thầy để cho học trò tự học, tự đi lên phía trước, nhận xét bước đi của họ, đồng thời giảm bớt tốc độ của thầy cho phù hợp với sức học của trò”.
Từ thế kỷ XVII, các nhà giáo dục như: J.A Comensky (1592-1670); G.Brousseau (1712-1778); J.H. Pestalozzi (1746-1872); A.Disterweg (1790-1866) trong các công trình nghiên cứu của mình đều rất quan tâm đến sự phát triển trí tuệ tính tích cực, độc lập, sáng tạo của học sinh và nhấn mạnh phải khuyến khích người đọc giành lấy trí thức bằng con đường tự khám phá, tìm tòi và suy nghĩ trong quá trình học tập.
Vào những năm đầu của thế kỷ XX, trên cơ sở phát triển mạnh mẽ của tâm lý học hành vi, tâm lý học phát sinh, nhiều PPDH mới ra đời: “PP lạc quan”,” PP trọng tâm tri thức”, “PP montessori”…Các PPDH này đã khẳng định vai trò quyết định của học sinh trong học tập nhưng quá coi trọng “con người cá thể” (individu) nên đã hạ thấp vai trò của người giáo viên đồng thời phức tạp hóa quá trình dạy học. Mặt khác, những PP này đòi hỏi các điều kiện rất cao kể cả từ phía người học lẫn các điều kiện giảng dạy nên khó có thể triển khai rộng rãi được.
Sau chiến tranh thế giới thứ II, bên cạnh sự tiến bộ rất nhanh của các nghành khoa học cơ bản, khoa học GD cũng có nhiều tiến bộ đáng kể. Một trong những tiến bộ đó là: sự xích lại gần nhau hơn giữa dạy học truyền thống (Giáo viên là nơi phát động thông tin, học sinh là nơi tiếp nhận thông qua diễn giảng trên lớp) và các quan điểm dạy học hiện đại (học sinh là chủ thể tích cực, giáo viên là người tổ chức hướng dẫn).
Các nhà giáo dục học ở Mỹ và Tây Âu ở thời kỳ này đã đều thống nhất khẳng định vai trò của người học trong quá trình dạy học, song bên cạnh đó cũng khẳng định vai trò rất quan trọng của người thầy và các PP, phương tiện dạy học.
Khái niệm người học trong giai đoạn này cũng không còn được quan niệm cá thể hóa cực đoan như trước đây, tuy nó vẫn được chú ý. Theo J.Dewey: “ học sinh là mặt trời, xung quanh nó quy tụ mọi phương tiện giáo dục”. Tư tưởng “lấy học sinh làm trung tâm” đã được cụ thể hóa thành nhiều phương pháp cụ thể như: “PP hợp tác” (cooperative methods), “PP tích cực” (active methods), “PP cá thể hóa”, “ PP nêu vấn đề”, … trong đó “PP tích cực” được nghiên cứu triển khai rộng hơn cả. Theo phương pháp này, giáo viên đóng vai trò gợi sự chú ý kích thích, thúc đẩy học sinh tự hoạt động. Vì thế, người học đóng vai trò trung tâm của quá trình dạy học, còn người dạy là chuyên gia của việc học. Nhìn chung tư tưởng “lấy học sinh là trung tâm trong quá trình dạy học nói riêng và GD nói chung đòi hỏi có sự phối hợp của nhiều phương pháp, trong đó “PP tích cực” là chủ đạo mang tính nguyên tắc. Đây chính là cơ sở để đưa ra những biện pháp bồi dưỡng NLTH cho học sinh.
Đồng tình với quan điểm trên, các nhà GD Xô Viết đã khẳng định vai trò tiềm năng to lớn của HĐTH trong GD nhà trường. Đặc biệt, nhiều tác giả còn nghiên cứu sâu sắc cách thức nhằm nâng cao hiệu quả HĐTH của người học , trong đó nêu lên những biện pháp tổ chức hoạt động độc lập nhận thức của học sinh trong quá trình dạy học.
a.2. Vấn đề tự học ở Việt Nam:
Vấn đề tự học ở Việt Nam cũng được chú ý từ lâu. Ngay từ thời kỳ phong kiến, GD chưa phát triển nhưng đất nước vẫn có nhiều nhân tài kiệt xuất. Những nhân tài đó, bên cạnh yếu tố được những ông đồ tài giỏi dạy dỗ, thì yếu tố quyết định đều là tự học của bản thân. Cũng chính vì vậy mà người ta coi trọng việc tự học, nêu cao những tấm gương tự học thành tài. Nhưng nhìn chung, lối GD còn rất hạn chế “người học tìm thấy sự bắt chước, đúng mà không cần độc đáo, người học học thuộc lòng …”[9].
Đến thời kỳ thực dân Pháp đô hộ, mặc dù nền GD Âu Mỹ rất phát triển nhưng nền GD nước ta vẫn chậm đổi mới. Vấn đề tự học không được nghiên cứu và phổ biến, song thực tiễn lại xuất hiện nhu cầu tự học rất cao trong nhiều tầng lớp xã hội.
Vấn đề tự học thực sự được phát động nghiên cứu nghiêm túc, rộng rãi từ khi nền GD cách mạng ra đời (1945), mà Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa là người khởi xướng vừa nêu tấm gương về tinh thần và PPDH. Người từng nói: “còn sống thì còn phải học”, và cho rằng: “về cách học phải lấy tự học làm cốt” [14]. Có thể nói tự học là một tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh, về phương pháp học tập. Những lời chỉ dẫn quý báu và những bài học kinh ngiệm sâu sắc rút ra từ chính tấm gương tự học bền bỉ và thành công của Người cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
Từ những năm 60 của thế kỷ XX, tư tưởng về tự học đã được nhiều tác giả trình bày trực tiếp và gián tiếp trong các công trình tâm lý học, GD học, PPDH bộ môn. Một số công trình tiêu biểu là: Nguyễn Cảnh Toàn (Nguyễn Cảnh Toàn (1995), luận bàn và kinh nghiệm về tự học), Trần Kiều, Nguyễn Bá Kim, Thái Duy Tuyên, Bùi Văn Nghị,…
GS.TSKH Nguyễn Cảnh Toàn là một tấm gương sáng về tự học ở nước ta. Từ một giáo viên trung học (1947), chỉ bằng con đường tự học, tự nghiên cứu ông đã trở thành nhà toán học nổi tiếng. Không chỉ nghiên cứu khoa học cơ bản, ông còn có nhiều công trình, bài viết về khoa học giáo dục, về vấn đề tự học. Ông cho rằng: “Học bao giờ cũng gắn với tự học, tự rèn luyện để biến đổi nhân cách của mình. Người dạy giỏi là người dạy cho học sinh biết cách tự học, tự nghiên cứu, tự GD”.
Các tác giả: Nguyễn Cảnh Toàn, Nguyễn Kỳ, Vũ Văn Tảo, Bùi Tường đã khẳng định: NLTH của trò dù còn đang phát triển vẫn là nội lực quyết định sự phát triển của bản thân người học. Thầy là ngoại lực, là tác nhân, hướng dẫn, tổ chức, đạo diễn cho trò tự học. Nói cách khác quá trình tự học, tự nghiên cứu cá nhân hóa việc học của trò phải kết hợp với việc dạy của thầy và quá trình hợp tác của bạn trong cộng đồng lớp học, tức là quá trình xã hội hóa việc học.
a.3. Nhận xét từ những nghiên cứu về vấn đề tự học:
Tự học có vai trò ý nghĩa rất lớn, không chỉ trong GD nhà trường mà cả trong cuộc sống. Trong nhà trường bản chất của sự học là tự học, cốt lõi của dạy học là dạy việc học, kết quả của người học tỉ lệ thuận với NLTH của người học.
Ngoài việc nâng cao kết quả học tập, tự học còn tạo điều kiện hình thành và rèn luyện khả năng hoạt động độc lập, sáng tạo của mỗi người, trên cơ sở đó tạo điều kiện và cơ hội học tập suốt đời.
Tự học là nhu cầu, một năng lực cần có của mọi người trong thời đại ngày nay, do đó mục tiêu quan trọng nhất của nhà trường không phải trang bị cho người học tri thức mà là PPTH.
Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề tự học. Tuy nhiên các công trình này hoặc mang tính chất tổng hợp các kết quả nghiên cứu về tự học hoặc nêu định hướng chung. Chưa có công trình nào nghiên cứu tỉ mỉ về vấn đề phát triển NLTH thông qua việc tự tổng kết chương học. Nhất là đưa ra quy trình ôn tập cụ thể cho mỗi chương học.
Những cơ sở khoa học của dạy học tự học:
b.1. Cơ sở triết học:
Theo triết học duy vật biện chứng, mâu thuẫn là động lực thúc đẩy quá trình phát triển. Mâu thuẫn trong học tập nảy sinh giữa yêu cầu nhận thức với tri thức, kỹ năng còn hạn chế của người học.
b.2. Cơ sở tâm lý:
Theo các nhà tâm lý học, chỉ tư duy tích cực khi có nhu cầu hoạt động, chỉ có kết quả cao khi chủ thể ham thích tự giác và tích cực. Thực tế cho thấy nếu học sinh chỉ học một cách thụ động được nhồi nhét kiến thức, không có thói quen suy nghĩ một cách sâu sắc thì kiến thức nhanh chóng bị lãng quên.
“Nhu cầu giáo dục nảy sinh theo từng giai đoạn phát triển của cá nhân. Trẻ em thường bắt chước những gì ở người lớn mà chúng yêu thích, hấp dẫn bởi những biểu hiện bề ngoài. Học sinh trung học có nhu cầu tự giáo dục mạnh mẽ, đã tự ý thức, khao khát những giá trị mà các em cho là hữu ích với cuộc sống”[13].
b.3. Cơ sở giáo dục học:
Dạy học tự học nằm trong hệ thống giáo dục nó phù hợp với nguyên tắc về tính tích cực và tự giác. Nó khêu gợi hoạt động học tập của học sinh, hướng đích gây hứng thú cho người học.
Những kết quả nghiên cứu của GD cho thấy: sẽ đem lại kết quả GD tốt hơn nếu quá trình đào tạo được biến thành quá trình tự đào tạo, quá trình GD được biến thành quá trình tự GD.
Tạp chí Mỹ Mathematical reviews năm 1977 đã thống kê rằng hiện nay có hơn 10 vạn bài nghiên cứu toán học được công bố. Nhịp điệu tăng trưởng theo hàm số mũ, cứ 10 năm tăng lên gấp đôi. Rõ ràng là cần phải học tất cả nhưng không thể dạy tất cả. Chỉ có biết cách học mới đáp ứng được sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật.
Nghị quyết TW khóa VIII đã nhấn mạnh: Cần phải phát triển mạnh phong trào tự học, tự đào tạo thường xuyên và rộng khắp trong toàn dân, nhất là thanh niên. Luật GD nước CHXHCN Việt Nam năm 2007 trong chương 1 điều 5 cũng ghi rõ: “Phương pháp GD phải phát huy tính tích cực, tự giác chủ động, tư duy sáng tạo của người học; bồi dưỡng cho người học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên” [11].
Quan niệm về tự học:
Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng về tự học. Quan niệm về tự học, Người cho rằng: “Tự học là cách học tự động” và “phải biết tự động học tập”[10]. Theo Người: “tự động học tập” tức là tự học một cách hoàn toàn tự giác, tự chủ, không đợi ai nhắc nhở, không chờ ai giao nhiệm vụ mà tự mình chủ động vạch kế hoạch học tập cho mình, rồi tự mình triển khai, thực hiện kế hoạch đó một cách tự giác, tự mình làm chủ thời gian để học và tự mình kiểm tra đánh giá việc học của mình”.
Nguyễn Cảnh Toàn [1] cho rằng: “Tự học là tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ và có khi cả cơ bắp và các phẩm chất khác của người học, cả động cơ tình cảm, nhân sinh quan thế giới quan để chiếm lĩnh một tri thức nào đó của nhân loại, biến tri thức đó thành sở hữu của chính mình”.
Theo Nguyễn Kỳ [2] cho rằng: “Tự học là đặt mình vào tình huống học, vào vị trí của người tự nghiên cứu, xử lý các tình huống, giải quyết các vấn đề đặt ra: nhận biết vấn đề xử lý thông tin, tái hiện kiến thức, xây dựng các giải pháp giải quyết vấn đề, xử lý tình huống…”.
Tóm lại, tổng hợp các quan niệm về tự học của các tác giả có thể đưa ra khái niệm về tự học như sau: “Tự học là tự mình động não suy nghĩ, sử dụng các khả năng trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp,…) và có khi cả cơ bắp (sử dụng các công cụ thực hành), cùng các phẩm chất của cá nhân như: động cơ, tình cảm, nhân sinh quan, thế giới quan (trung thực, không ngại khó, có ý trí, kiên trì, nhẫn nại, lòng say mê khoa học, ...) để chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu biết nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó thành sở hữu của riêng mình”.
Một số hình thức tự học:
Trong quá trình tự học ở THPT, học sinh có thể hình thành hoạt động tự học dưới nhiều hình thức khác nhau, trong những điều kiện khác nhau.
Một là, hoạt động tự học (HĐTH) của học sinh diễn ra nhằm đáp ứng nhu cầu hiểu biết riêng, bổ sung và mở rộng tri thức ngoài chương trình đào tạo ở trường không có sự điều khiển của người giáo viên. Người học tự đọc tài liệu, tự suy nghĩ rút ra kinh nghiệm. Đó là tự học ở mức độ cao.
Hai là, HĐTH cũng có thể diễn ra do nhu cầu của giáo viên, nhưng không có sự điều khiển trực tiếp của giáo viên. Ở đây, học sinh phải tự sắp xếp quỹ thời gian và điều kiện vật chất để có thể tự ôn tập, củng cố tự đào sâu những tri thức hoặc tự hình thành những kỹ năng kỹ xảo ở một lĩnh vực nào đó theo yêu cầu của giáo viên hoặc quy định trong chương trình đào tạo của nhà trường. VD: Giáo viên giao bài tập lớn về nhà cho học sinh. Nhưng đã có hướng dẫn cụ thể. Học sinh làm theo dàn ý giáo viên đã cung cấp.
Hình thức này nhấn mạnh và đề cao vai trò quyết định của nội lực – năng lực tự học của người học. Theo đó:
Trò: Chủ thể, trung tâm, tự tìm ra tri thức bằng hành động của chính mình, tự tìm ra sản phẩm ban đầu mang tính cá nhân.
Lớp: Cộng đồng lớp học, môi trường xã hội, nơi diễn ra sự hợp tác trao đổi, giữa trò – trò, thầy – trò, sản phẩm ban đầu mang tính chất xã hội.
Thầy: tác nhân, hướng dẫn, tổ chức, đạo diễn, trọng tài, cố vấn cho trò tự chiếm lĩnh lấy tri thức với sự hợp tác với bạn.
Như vậy, mô hình này hoàn toàn phù hợp với quy luật về sự phát triển của sự vật mà cụ thể trong trường hợp này là sự phát triển của bản thân người học. Người học được chủ động chiếm lĩnh kiến thức bằng chính hoạt động của chính mình trong sự hợp tác với bạn, với thầy, đảm bảo cả hai phương diện độc lập và giao lưu trong quá trình học tập của trò.
Ba là, HĐTH của học sinh diễn ra dưới sự điều khiển trực tiếp của giáo viên. Thầy (cô) là tác nhân, hướng dẫn, tổ chức đạo diễn để trò phát huy những phẩm chất và năng lực của mình như: khả năng chú ý, óc phân tích, năng lực khái quát hóa,…tự tìm ra tri thức kỹ năng kỹ xảo mà thầy đã định hướng cho hoạt động này.
Một số yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển NLTH toán của học sinh
Qua tổng hợp các nghiên cứu của các nhà khoa học, chúng tôi cho rằng sự hình thành và phát triển NLTH của học sinh THPT chịu ảnh hưởng của các yếu tố sau đây:
e.1. Ảnh hưởng của ý thức học tập và động cơ nhận thức của bản thân học sinh:
Ý thức học tập và động cơ nhận thức có ý nghĩa quyết định trong quá trình hình thành và phát triển NLTH của học sinh. Vì xét cho cùng chất lượng học tập phải là kết quả trực tiếp của sự nỗ lực của chính bản thân người học. Nếu người học không xác định được vai trò quyết định của mình trong sự thành bại của sự học, thì không bao giờ tự học thành công.Chỉ khi đã xác định được mục đích và động cơ học tập đúng đắn. Học sinh mới có thể phát huy được “nội lực” trong học tập, từ đó kết hợp các yếu tố “ngoại lực” khác để tổ chức các hoạt động học tập diễn ra một cách hợp lý và thu được kết quả cao.
e.2. Ảnh hưởng của vốn tri thức hiện có của bản thân học sinh:
Toán học là một khoa học chứng minh, những tri thức sau được xây dựng trên những cơ sở của kiến thức kết quả có trước. Không thể học tập toán có kết quả nếu không có các tri thức toán học đã có.
Để chiếm lĩnh các tri thức khoa học toán học, người học cũng như người trèo thang không qua nấc thang thấp thì không thể tiến lên nấc cao hơn. Để tự học có hiệu quả thì người học phải tự trang bị cho mình vốn kiến thức tối thiểu để tự nghiên cứu vấn đề mình quan tâm.
e.3. Ảnh hưởng của năng lực trí tuệ và tư duy:
Năng lực trí tuệ: Là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến khả năng nắm bắt tri thức khoa học nhanh hay chậm của mỗi học sinh. Yếu tố này ảnh hưởng rất lớn, đôi khi là quyết định đến khả năng học tập nói chung và NLTH nói riêng. Những người có năng lực trí tuệ tốt thường có khả năng tự học rất cao, khi có đủ vốn tri thức tối thiểu nhiều khi họ có thể độc lập làm việc một mình mà không cần tới sự hướng dẫn của thầy.
Phương pháp tư duy: Khả năng vận dụng các thao tác tư duy cũng là một yếu tố có ảnh hưởng lớn đến khả năng tự học của học sinh.
Ngoài ra, trong quá trình học tập để tiếp thu tri thức, kết quả học tập của học sinh tùy thuộc phần lớn vào tính chất và cơ cấu của tư duy tích cực của các em. Tri thức là kết quả của tư duy đồng thời lại là những điều kiện, phương tiện của tư duy. Vì vậy, tăng cường khả năng tư duy là một yêu cầu để nâng cao chất lượng học tập và tự học.
e.4. Ảnh hưởng của phương pháp dạy học của thầy:
Theo Nguyễn Bá Kim [7], “PPDH là cách thức hoạt động và giao lưu của thầy gây nên những hoạt động và giao lưu cần thiết của trò nhằm đạt được mục tiêu dạy học”. Như vậy, có thể thấy rằng: PPDH của thầy cũng có ảnh hưởng cực kỳ quan trọng đến sự hình thành và phát triển NLTH của học sinh. Cụ thể:
Trong dạy học người giáo viên không